TÆ° tưởngTriết há»c Loạt bài: Hồ sÆ¡ Nhân văn-Giai phẩm
3.3.2007
Thái Vũ
Những chuyến lữ hà nh của triết gia Trần Äức Thảo
II. Triết gia Trần Đức Thảo và nỗi buồn từ Hà Nội
Nghĩa là triết gia Trần Đức Thảo chưa hiểu được thấu đáo sau trên 20 năm ở Pháp trở về Việt Nam, cũng là 2 năm chân ướt chân ráo về Hà Nội, lại ở ngay trong khuôn viên trường đại học, chỉ gần gũi với các đồng nghiệp và sinh viên Đại học Sư phạm. Như thế, hẳn sinh hoạt Paris đâu có phai mờ, nhất là những cuộc tranh luận về triết học với nhà văn triết gia J. P. Sartre. Trùm toàn bộ mọi mặt sinh hoạt của thầy hẳn vẫn là không khí Paris “tự do và dân chủ” và những suy nghĩ của thầy “thực chất chỉ là những suy nghĩ tìm tòi rất tự nhiên, chân thành” theo dòng suy tư quen thuộc của thầy trong định hướng triết học mà thầy hằng ấp ủ.
Tại nạn Nhân văn-Giai phẩm mà sau này người ta tránh né gọi là “tai nạn nghề nghiệp”, đúng ra chỉ đối với các nhà văn nhà thơ bên nhóm Hội Nhà văn Việt Nam, còn bên nhóm đại học thì như “vết thương đầu đời”, nhưng không ngờ nó lại bị khoét sâu thêm, khiến những dây “bìm bìm” thừa cơ xuyên tạc, chụp mũ khi xẩy ra hai sự kiện “đổi tiền qua thuế công thương nghiệp” và “đấu tranh cải tạo tư sản (mại bản)” trong các năm 1958–1960. Song chính trong mấy năm này, nội bộ phe xã hội chủ nghĩa, Anh Cả Liên Xô và Chị Hai Trung Quốc đã có bất đồng trong thế chiến lược nước lớn, với Trung Quốc khi kế hoạch 5 năm đầu tiên thắng lợi, muốn thoát khỏi sự kìm chế của Liên Xô qua “sự phân công xã hội chủ nghĩa”. Cuộc luận chiến đó càng trở nên gay gắt khi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Khrushchev nối quan hệ với Mỹ. Nếu ở Việt Nam luận điểm “hồng và chuyên”, với những phong trào “Gió đại phong”, “Sóng duyên hải”, “Cờ Ba Nhất”… của phía Trung Quốc từ năm 1958 được các cơ quan trung ương cho phổ biến thì bên Trung Quốc, cũng theo hướng đó đưa ra mô hình “nông thôn bao vây thành thị” hay đúng ra là “nông thôn thế giới bao vây thành thị thế giới”, nghĩa là chống hiện đại hoá, không chỉ riêng với Mỹ mà cả với Liên Xô. Sau Đại hội 20, Đảng Cộng sản Liên Xô chủ trương “Chung sống hoà bình” với Mỹ, Trung Quốc đối đầu gay gắt với Liên Xô bằng luận điệu chống chủ nghĩa xét lại, khi Liên Xô tung ra luận điệu chống chủ nghĩa giáo điều, chống sùng bái cá nhân.
Đúng là “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”. Ở Việt Nam, chống chủ nghĩa xét lại đánh dấu từ sau đám tang Dương Bạch Mai – nguyên chủ tịch hội Hữu nghị Việt Xô, người bị cho là “chủ bài” của chủ nghĩa xét lại ở Việt Nam. Đây chính là lúc triết gia Trần Đức Thảo “lâm nạn” đi chu du lên Sơn Tây, thời điểm mà một số giáo viên nắm quyền lên chức tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội ở Cầu Giấy đấu tố chụp mũ để lập công và một số giáo viên khoá đại học 1956 vốn đã bị quy là có dính dáng đến vụ Đất mới, nay lại thêm tội “theo chủ nghĩa xét lại”, nên đã “được” đi lao động cải tạo, lên Phú Thọ trồng chè một thời gian… Đúng là giây bìm bìm đâu có dứt, người bị “chụp mũ” mà không hề biết mình có tội gì, cứ bị quy có dính dáng đến “chủ nghĩa xét lại” là ok! Gần đây đâu có hết, cái đám dây bìm bìm đó vẫn tồn tại. Thời gian ngắn sau đó, trên báo Nhân dân có tin đăng “học đại học” thì được gọi là “học sinh đại học”, bỏ từ “sinh viên”. May sao, chuyện đó sớm bị bãi bỏ.
Đó chính là thời gian triết gia Trần Đức Thảo được chuyển lên khu tập thể Kim Liên ở nhà B6, “xóm giáo sư”, thời gian mà tác giả Phạm Thành Hưng nêu ở trang 44 báo Văn nghệ số 17–18 đầu năm 2006, khi vợ chồng triết gia chia tay và triết gia “trở thành người đàn ông độc thân, nổi tiếng thêm bởi sự đãng trí, hồn nhiên, cơ hàn trong sinh hoạt”.
Cũng xin cám ơn và trích đoạn sau đây của tác giả Phạm Thành Hưng về thời gian trên của triết gia Trần Đức Thảo: ông “vẫn ung dung tự tại chấp nhận hình thức cải tạo tư tưởng… một thời gian đúng với tư chất của một hiền nhân Đông phương rồi lại say sưa với công việc mới, công tác biên dịch tại NXB Sự Thật”. Chao ôi, đẹp thay và bình lặng thay một câu chữ đối với trường hợp một trí thức bậc thầy, một triết gia lặn lội từ bên trời Tây về với đất mẹ Việt Nam của phương Đông. Nghĩa là viết như thế chỉ có thể đúng với một anh chăn bò vô tư và an phận, với vợ hiền con thảo khi được trở về Hà Nội, từ đất cằn Sơn Tây… Vậy thì lý giải làm sao đối với trường hợp một triết gia đã từng bao năm suy tư và giảng dạy trên giảng đường đại học về “cái hạt nhân duy lý” mà Hégel đề xuất, về cái “hình thức ý thức và hoạt động khác nhau của con người” dẫn đến thành quả trong phép biện chứng hiện tượng học để rồi chính ông, triết gia Trần Đức Thảo đã đảo ngược lại trong Hiện tượng học và phép biện chứng chủ nghĩa Mác? Rõ ràng là trong thời gian chu du với mấy con bò, “kẻ lữ hành” đâu có “ung dung tự tại” để suy nghĩ về công trình Logic của cái hiện tại sống động “của một hiền nhân phương Đông khi làm biên dịch ở NXB Sự Thật”?
Mất mát mọi thứ trong cuộc sống, trong sinh hoạt đời thường, bơ vơ chỉ biết mình với mình mà cái câu ám ảnh triết gia hẳn luôn vẫn là theo cách suy tư của mình bằng tiếng Pháp: “Ce qui a raison, existe, ce qui existe, a raison”. Rõ ràng là thế thầy mới “mơ mộng” chuyện được qua nước Pháp, nơi sản sinh ra cái “tư duy kiểu Trần Đức Thảo”, để được viết nốt tác phẩm của mình. Người tu hành thường chịu khổ hạnh để mong lên được Niết bàn, triết gia Trần Đức Thảo cũng thế, dù có đói khát cơ hàn trong sinh hoạt, mất mát trong tình cảm, thầy cũng mong qua được nước Pháp để hoàn tất công trình triết học của mình, như nhà văn nhà thơ quên đời khi thai nghén để hoàn chỉnh tác phẩm… Nhưng buồn thay, lần trở về nước thứ hai này từ đất Pháp lại là đống tro tàn “cát bụi trở về cát bụi”… Vậy, hẳn ai đâu có quên cái câu chữ của Descartes: “Je pense, donc je suis”!
Ở phần hai bài viết nói trên của Phạm Thành Hưng là về sinh hoạt đời thường của triết gia Trần Đức Thảo, như chuyện mà bà hàng nước ở Kim Liên kể lại, chuyện tự đi chợ mua rau mua củi “hỏi giá hàng rồi trả giá”, chuyện “nằm ngủ” ở nhà tang lễ Phùng Hưng Hà Nội mà nhà thơ Phùng Quán đã kể khá tỉ mỉ. Tuy nhiên, đó chỉ là chuyện kể của những người ngoài cuộc, những người xa lạ, những người “không hề biết tên Trần Đức Thảo là ai”! Xin nói rõ rằng những dây bìm bìm có leo và bịa chuyện này nọ để mong thăng quan tiến chức chứ ai đâu xa lánh thầy khi thầy về nhận công tác ở NXB Sự Thật, vì có trong biên chế mới có lương để sống. Thưa rằng, thầy chỉ có mấy người học trò, ít thôi, vẫn âm thầm tìm cách giúp đỡ thầy trong cơn hoạn nạn và người duy nhất tôi xin được nêu tên và thắp nén hương tưởng nhớ hương hồn là anh bạn học khoá hai Đại học Sư phạm, tốt nghiệp năm 1957, anh Đoàn Mai Thi.
Mỗi lần cần mua cái gì trong sinh hoạt thường ngày, nhất là mật ong khó kiếm thời bao cấp, thầy cũng chậm chạp trên chiếc xe đạp “mini” kiểu Liên Xô cũ, đến lối ngã 5 đường Lò Đúc Phan Chu Trinh, dừng xe đứng chờ anh Đòan Mai Thi vì nhà anh ở gần đó…
Thời gian từ 1965 sơ tán chống Mỹ cứu nước, hẳn thầy gặp rất nhiều khó khăn, còn chúng tôi thì bận việc gia đình con cái nên không thể gặp được thầy, nhất là khi bên Trung Quốc đang chống chủ nghĩa xét lại, chống đế quốc Mỹ, tiếp đến Đại Cách mạng Văn hoá, quan hệ Trung-Xô đổ vỡ hoàn toàn, dẫn đến chiến tranh biên giới giữa hai nước năm 1969. Lạ lùng nữa, ngay tình “đồng chí” trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc, cánh Mao Trạch Đông triệt hạ nhiều cán bộ trung ương Đảng có công lớn với cách mạng như Bành Đức Hoài, Diệp Kiếm Anh, đặc biệt còn quy tội Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ là “tay sai của chủ nghĩa đế quốc”, “Kẻ số 1 theo chủ nghĩa tư bản” và giam cầm, đày đoạ ông đến chết trong nhà tù Khai Phong 1969, thì việc gặp thầy Trần Đức Thảo từ nước Pháp tư bản trở về là rất dễ bị quy tội như bên Trung Quốc trong Đại Cách mạng Văn hoá. Gặp thầy lủi thủi đạp chiếc xe đạp mini cộc cạch cũng đành làm ngơ, nhiều khi không dám nhìn. Chỉ riêng anh Đoàn Mai Thi luôn liên hệ giúp đỡ thầy. Anh mất trước năm 1975, không được chứng kiến miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng.
Riêng tôi thời gian này cũng rất bận vì cuốn Ba Đình được NXB Quân đội “bảo vệ và giúp đỡ”, song 1973 vì tình hình viện trợ cách mạng miền Nam nên 1976 mới in xong. Từ đó, tôi vào Huế cuối năm 1980, trở thành nhà văn được nhiều NXB xin bản thảo, nên tôi không ra Hà Nội gặp thầy được. Đúng ra tôi đã lầm nghĩ là thầy đã an bài làm công tác dịch thuật ở Nhà xuất bản Sự Thật, cũng như tác giả Phạm Thành Hưng mới chỉ hiểu được một mức độ nhất định khi ông viết về Trần Đức Thảo. Phạm Thành Hưng không phải là học trò của triết gia Trần Đức Thảo, nên khó hiểu nổi “tư duy kiểu Trần Đức Thảo”, tuy bài của ông ta có công tâm, khách quan. Thầy từ nước Pháp về Việt Nam theo “đường zigzag” bằng tiền túi, nhưng nay muốn qua Pháp để hoàn tất công trình triết học của mình thì chẳng qua như “nước đại dương kết giọt chốn không bờ”, như “giữa mênh mông sa mạc mà mây trời không ánh”. Cho nên khi được chính phủ ta trợ cấp cho qua Pháp 3 tháng để viết “công trình triết học” như vậy, thầy đâu có “ung dung, tự tại”, vì 3 tháng là thời gian quá hạn chế cho một công trình triết học đòi hỏi thời gian một năm, có khi đến vài năm…
Khi thầy từ Hà Nội vào TPHCM, tôi đâu có biết vì đó là thời gian tôi đang ở Huế, viết mấy cuốn tiểu thuyết lịch sử, có tiền nhuận bút tôi mới về lại TPHCM.
Tôi đến Viện Khoa học Xã hội gặp Nguyễn Công Bình, đại diện cho các tỉnh phía Nam (anh là bạn cũ từ Hà Nội), tình cờ thấy cuốn Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không con người với tên tác giả: Giáo sư Trần Đức Thảo, mới biết hiện thầy đang ở khách sạn Bến Nghé, đường Nguyễn Trung Trực. Tôi định tìm mua một cuốn, mừng thầy được in sách thì Nguyễn Công Bình cho biết ngoài Hà Nội đã có lệnh vào là phải thu hồi cuốn đó lại, nhưng khó khăn là sách đợt một đã bán hết sạch, sách tái bản lại vừa in xong, có cả phần Kết luận bổ sung, nên trước “lệnh” từ Hà Nội, Nguyễn Công Bình đành bất lực. Nghe cái “lệnh” thu hồi cuốn Vấn đề con người… tôi đã buồn, nhưng tin sách đã lỡ tái bản, tôi chợt hiểu mặt sau của vấn đề và lại thấy vui vui, nên sáng đó tôi vội vã đến ngay khách sạn Bến Nghé…
Cuốn sách hấp dẫn chẳng những đối với giới trí thức TPHCM mà cả với các nhà giáo và sinh viên, vì thời gian từ 1980 người đọc dễ liên hệ tình hình diệt chủng dã man của bọn Pol Pot –Ieng Sary bên Kampuchia. Nhưng tác phẩm của thầy lại không hề nói mảy may đến vấn đề đó. Triết gia chỉ nêu những quan điểm triết học chung quanh những vấn đề con người, xã hội, giai cấp và lịch sử cũng như các vấn đề về quan điểm con người dưới góc độ triết học trong dân chủ hoá và đấu tranh chống tiêu cực mà tác giả đã từng quan tâm. Đây là một phương pháp luận của vấn đề Con Người.
III. Triết gia Trần Đức Thảo và con đường lữ hành về với… đất
Tôi đến khách sạn Bến Nghé ở đường Nguyễn Trung Trực, phân vân vì đầu năm 1976 cũng tại con đường này nhưng ở phía bên kia là trụ sở của Bộ Văn hoá của Mặt trận Giải phóng miền Nam, anh Lưu Hữu Phước là Bộ trưởng. Anh thân tình bắt tay tôi khá chặt và bảo thư ký văn phòng pha cà phê sữa. Thư ký văn phòng tên là Hùng Nam không ngờ lại trùng tên với con trai út của tôi đã mất nên lòng tôi đang vui lại buồn. Anh nói: “Vô đây thì ở lại đây với anh”, nghĩa là tôi sẽ… làm quan, lại được ông Bộ trưởng ưu ái đỡ đầu. May mà tôi đã từ chối, vì nếu không thì làm sao lần này tôi có thể gặp Thầy tôi, triết gia Trần Đức Thảo, khi trong tay tôi đã có hai tác phẩm Biến động-Giặc chày vôi và Huế 1885. Chuyện đời… tác phẩm văn học và chức quyền thế đó…
Đến khách sạn Bến Nghé, nhân viên phục vụ hướng dẫn tôi lên lầu 2. Tôi đứng nín thở lát sau mới gõ cửa, nghĩ lâu năm có lẽ Thầy đã quên mình. Nhưng không, Thầy vẫn nhớ, ôm lấy hai vai tôi lắc lắc. Nước mắt ngấn trên mi, tôi chỉ hỏi Thầy có khoẻ không. Phòng khách sạn đúng ra chỉ là một phòng trọ tạm thời, một cái giường đôi trải nệm chiếm gần trọn căn phòng, nhưng đặc biệt ngay từ lối vào là hai cái tủ đứng… đầy sách, đến một cái bàn nhỏ để sách báo và phía ngang phòng lại một cái bàn nữa và hai cái ghế gỗ có nệm, trên bàn có mấy tập Tạp chí Cộng sản và mấy tờ Tin Moscow bằng tiếng Pháp. Vậy là Thầy vẫn mê Liên Xô, tuy là để lấy tin tức, vì năm 1988 này là thời gian Gorbachev đang làm Tổng Bí thư và quan hệ chặt chẽ với Mỹ từ 1985. Gần đó trên một cái ghế nhỏ có một bếp điện nối dây may-so, cũng lại của Liên Xô vốn đang được dùng ở Việt Nam từ Bắc chí Nam. Thêm một tờ báo Sài Gòn Giải phóng mở rộng nằm trên giường, có lẽ thầy đang đọc.
Tất nhiên hai thầy trò ngồi bên mép giường nói chuyện. Nhìn đồ vật trong phòng, tôi thấy một cái làn nhựa, trong đó có mấy quả cà chua chín đỏ và linh tinh mấy thứ thuộc về bếp núc, lại ở sát cửa phòng WC. Té ra là Thầy vẫn tự nấu ăn, kiểu ăn chay với gói mì tôm hay bánh mì, cả một túi gạo nhỏ có lẽ để nấu cơm. Trời ơi! Thiếu hẳn một bàn tay chăm sóc của người đàn bà… Hỏi ra mới biết ở Sài Gòn Thầy còn có gia đình một người cháu. Chính họ cứ cách ngày đến giúp Thầy dọn dẹp và đi chợ mua mọi thứ, nhưng không phải nấu ăn giúp Thầy. Tôi cũng an tâm vì không muốn động chạm đến đời tư của Thầy. Từ đó, mỗi tuần tôi đến thăm Thầy hai lần, đưa cả mấy số báo Văn nghệ thời mở cửa, có truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mà người ta đang có nhiều ý kiến khác nhau, nhất là chuyện “Tướng về hưu”. Thầy đọc báo xong, lần sau tôi đến, Thầy trả lại báo và bảo: “Cậu viết một bài cho ‘nó’ hiểu!”. Tôi thưa là viết làm gì, rồi họ lại bảo tôi cơ hội chủ nghĩa, cũng ngại như cái thời ở Hà Nội nhà thơ Hoàng Cát viết bài “Cây táo ông Lành” mà quên chuyện thời phong kiến, triều Nguyễn kết tội phạm huý rất nặng, nay với cái tên “ông Lành" đó.
Ngoài mấy chuyện vặt giữa thầy và trò, thầy hay nói chuyện với tôi về Nietzsche và Kant, nhất là về Kant, người lấy trẻ em làm điểm khởi động siêu hình học của mình nhưng lại là người rất ít gần trẻ em (tôi tạm ghi như thế - T.V). Đó là những lúc thầy vui, ánh mắt sáng lên khi nói về trẻ em. Với những chuyện như thế, tôi thường tránh không làm thầy liên tưởng đến đời thường. Có lần Hoàng Thiệu Khang, tốt nghiệp đại học khoá 2 năm 1957 đến thăm thầy, và lý luận gì đó với thầy thì tôi vừa đến. Tôi trách Khang, Khang mới thanh minh là chỉ nói chuyện thời sự với thầy về Gorbachev phản bội: té ra thầy không bằng lòng ý kiến của Hoàng Thiệu Khang và thầy vẫn bảo vệ chính quyền Xô Viết, nhất là bảo vệ Lenin. Vui gần thầy, quý thầy, tôi mới nói với em tôi là hoạ sĩ Bùi Quang Ngọc, vốn giỏi vẽ chân dung, đến thăm thầy và vẽ cho thầy một chân dung trước khi thầy qua Pháp. Chú Ngọc đến và được thầy đồng ý ngay.
Tất nhiên là vẽ chân dung trực tiếp thì mất mấy buổi sáng, nhưng chú Ngọc vẫn nhiệt tình đi xe đạp từ khu cư xá Thanh Đa xuống Quận 1 vẽ chân dung cho thầy. Có lần thấy thầy ăn uống quá kham khổ, nên em tôi mang 1 kg giò lụa còn nóng đến biếu thầy, nhưng thầy nói thầy vẫn ăn cà chua chín đỏ do cô cháu mua. Thời gian chú Ngọc vẽ chân dung thầy thì tôi đi Huế. Lúc về tôi hỏi chú Ngọc thì chú ấy kể lại: thầy đứng xem chân dung của thầy rất lâu rồi đến bên chú Ngọc, cầm lấy vai chú Ngọc cám ơn. Lát sau không biết thầy loay hoay tìm cái gì, hoá ra thầy tìm cái chứng minh thư của thầy, rồi bóc tấm ảnh trong đó ra tặng chú Ngọc. Đó là buổi gặp gỡ cảm động nhất của em tôi với thầy.
Năm 1988, tôi gần triết gia Trần Đức Thảo nhiều nhất cũng là thời gian thầy tặng tôi cuốn Vấn đề con người và vấn đề lý luận không con người, đúng lúc đất nước đang chuyển bước sang kinh tế thị trường, rồi chuyện “giá-lương-tiền” ra rả trên đài, nhưng thầy không chú ý. Thầy biết là thầy sắp được qua Pháp vì lãnh đạo Thành uỷ có cử người đến khách sạn thăm sức khoẻ của thầy. Thành uỷ muốn thầy thật khoẻ để thầy sang Pháp. Điều này có lẽ làm thầy suy nghĩ vì đơn thương độc mã, thầy chỉ biết lo cho thầy. Từ tình cảm đó tôi xin kể mấy chuyện sau đây, rất thân tình thầy mới nói với tôi.
Ở khách sạn, khách đến trọ thường chỉ ngắn ngày. Vì vậy nhân viên phục vụ phải lễ độ, nhưng với trường hợp thầy vì ở quá lâu, mỗi lần họ lên dọn dẹp phòng biết cuộc sống đơn chiếc của thầy nên thái độ của họ cũng có khác: họ đề nghị với thầy không được cắm phích điện để nấu thức ăn, nếu muốn nấu thì xuống tầng trệt ở dưới. Họ chỉ gợi ý thôi nhưng có lẽ thầy thấy “tủi thân” kiếp ở nhờ, nên một lần tôi đến, thầy bảo: nếu có thể thuê giúp thầy một căn phòng nhỏ ở dưới đất để thầy dọn đến, sống tự do, độc lập. Tôi có hỏi về gia đình người cháu, thầy không nói gì, chỉ nhún nhẹ đôi vai đã xệ xuống. Tình cảnh của thầy làm tôi đau xé lòng, vì không thể mời thầy đến ở cùng tôi, nhà tôi cũng khá chật. Tôi đến Sở Nhà đất và công trình công cộng xin nhà khác để có phòng riêng viết sách nhưng họ bắt chờ đến cả năm. Rõ ràng cái bếp điện có dây may-xo đã làm khổ một triết gia đang khổ hạnh. Điều đó, có lẽ Thành uỷ Thành phố HCM biết nên sau đó thầy được đưa đến ở riêng một căn nhà nhỏ, trong phạm vi Quận 1, phía Nam chợ Bến Thành, khi khách sạn Bến Nghé bị phá bỏ, cải tạo mở rộng, lớn hơn. Nhưng không lâu sau, thầy được Thành uỷ mời đến nơi ở mới của khách sạn Bến Nghé, trên đường Điện Biên Phủ, phía Quận 3. Đây là nơi ở cuối cùng của thầy ở Việt Nam trước khi thầy được qua Pháp. Nhưng lại là điều buồn đối với tôi, vì không được gặp thầy, tạm chia tay với thầy. Đó là thời gian tôi ra Huế và Quảng Bình (khi đó còn thuộc tỉnh Bình-Trị-Thiên), đi Tuyên Hoá lấy tài liệu theo con đường của ngự đoàn vua Hàm Nghi “bá thiên” tránh sự truy lùng của bọn Pháp, để viết cuốn Những ngày Cần Vương. Ngày nay nghĩ lại, tôi thấy quả là linh ứng giữa tình nghĩa thầy trò, vì trước khi ra Huế, tôi có đến tạm biệt thầy, như những lần trước từ Huế về, tôi cũng đến thăm thầy. Hôm đó, vào tháng 8/1989, khi còn ở khách sạn Bến Nghé cũ, thầy tiễn tôi ra cửa, khác mọi hôm thầy nắm tay tôi, rồi nói: “Mình chẳng sống may ra được 4 năm nữa”!
Chao ôi, linh nghiệm thay, năm 1993 thầy đang ở Pháp, thứ Bảy ngày 24-4-1993, lúc 20 giờ đài RFI của Pháp báo tin là giáo sư Trần Đức Thảo vừa từ trần, thọ 76 tuổi. Sáng 28-4-1993, thầy được chôn ở nghĩa trang Père La Chaise cùng các danh nhân nước Pháp. Vâng, thưa thầy vậy là đúng 4 năm, tính từ tháng 8/1989, thầy chợt nói câu nói đó và nay thầy mất là vào giữa năm 1993. Lòng tôi buồn lặng khi viết những dòng này.
Điều thứ hai, định không viết, nhưng đành phải viết: Những ngày ở khách sạn Bến Nghé, gặp trắc trở về sinh hoạt như thế, thầy muốn có một nơi ở cho được “độc lập, tự do”, tất phải có tiền và thuê nhà ở riêng. Mà tiền đâu để thuê nhà? Có lẽ thầy nghĩ đến căn phòng B6 khu Kim Liên, nên khi biết tôi sắp ra Huế, có thể tranh thủ ra Hà Nội, thầy đột nhiên nói với tôi: "Bán nhà đó, thầy mong được độ 2 lạng vàng, nếu được, có thêm tiền lúc qua Pháp”. Chuyện nhà cửa mua bán, nhất là “mấy lạng vàng” làm tôi phân vân. Thứ nhất tôi rất sợ vàng, thứ hai có được phép bán nhà đó không? Rồi lại bị quy là “tích luỹ tư bản” như hồi bao cấp, của công thành của tư! Có lẽ thầy cũng nghĩ như vậy, nên mấy ngày sau, tôi đến, thầy bảo thôi để nhờ người ngoài Hà Nội. Nhờ ai? Tôi rất ngại… Song vì khi tôi về lại Thành phố HCM, thầy đã qua ở nơi mới của khách sạn Bến Nghé trên đường Điện Biên Phủ rồi qua Pháp. Lại không được gặp thầy! Đến nay chuyện đó tuyệt nhiên tôi không thể biết được.
Chuyện thứ ba là sách, có chăng còn là di cảo? Nếu có vợ và có con thì chuyện thừa kế di cảo sách của thầy đâu có khó, mà thầy thì rõ ràng “tứ cố vô thân”! Toàn sách về triết học, đa số lại là sách ngoại ngữ. Thầy có nói với tôi là trước đây thầy có gửi tặng một số sách cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi còn ở Hà Nội. Nay ở Thành phố HCM, nếu qua Pháp thầy chỉ có thể mang theo một số cùng với bản thảo sách đang viết… Thầy có nói là có thể thầy gửi người cháu, khi về Việt Nam sẽ nhận lại. Đó là việc lâu dài, vì thầy nghĩ “có ra đi, tất có ngày sẽ trở về”! Cho nên vì không được gặp thầy trước ngày thầy qua Pháp, tôi cũng không thể biết số phận những sách di cảo, một đời người trên trang giấy của thầy, nếu thầy có gửi nay ai giữ? Điều duy nhất tôi hy vọng là người cháu đã nhận. Nhưng khổ nỗi là tuy không gặp người cháu đó lần nào, tôi có ý nghĩ là họ có đến gặp thầy cũng chỉ là chuyện bất đắc dĩ trong tình thân, ruột thịt, vì hẳn họ vẫn sợ thầy về vụ Nhân văn-Giai phẩm sẽ có liên quan, nên chắc họ tránh không nhận số sách đó. Tôi lại không biết nơi ở của người cháu đó, nên “số phận di cảo triết học của triết gia Trần Đức Thảo” vẫn không nơi trú ngụ.
Vậy “người có lòng nhân mà tìm không ra cõi thiện”, có thể là như thế, cả với di cảo chứ nói gì đến số phận con người. Đúng là thầy “như nước đại dương kết giọt chốn không bờ”…
(Những trang này tôi trích từ những đoạn có liên quan đến thầy tôi, giáo sư Trần Đức Thảo trong hồi ký, phần “Vài chi tiết về các thầy dạy tôi ở đại học”.)
TP Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 12 năm 2006
© 2007 talawas
|