(Mấy suy nghÄ© vá» số pháºn lịch sá» của chủ nghÄ©a xã há»™i khoa há»c)
8.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một bước phát triển mới của chủ nghĩa nhân văn. Nói như Mác, chủ nghĩa cộng sản chính là
chủ nghĩa nhân văn hiện thực. Riêng việc đặt chủ nghĩa nhân văn lên mảnh đất hiện thực đã là một bước nhảy về nhận thức rồi. Với Mác, chủ nghĩa nhân văn nhìn thấy những triển vọng sẽ được thực hiện trong thực tế, mà không chỉ dừng lại ở những lời tán tụng con người chung chung như trước đó.
Nhưng, chủ nghĩa nhân văn vào thời của Mác nói chung, cũng như chủ nghĩa nhân văn của Mác nói riêng, chưa thoát ra khỏi truyền thống cổ điển của chủ nghĩa nhân văn (hay chủ nghĩa nhân văn cổ điển), bắt nguồn từ thời Cổ Hy Lạp và được làm sống lại, được đề cao từ thời Phục hưng, thời Cải cách và thời Khai sáng. Từ chỗ con người cảm thấy mình bị lệ thuộc tuyệt đối vào những sức mạnh siêu nhiên, vào Thượng đế, con người đã tự nhận thức được vị trí tối thượng của mình trong thế giới. Thay thế cho Thượng đế trên bàn thờ là Con người. Con người được coi là mục đích tự thân của lịch sử xã hội (Kant). Thậm chí người ta nói tới một tôn giáo mới: tôn giáo con người (Robespièrre, Feuerbach...). Con người là chí tôn, vậy thì con người cũng phải là chí thiện. Sở dĩ con người chưa chí thiện là bởi những hoàn cảnh, những nguyên nhân bên ngoài, do giáo dục không đầy đủ hoặc do môi trường xã hội làm nó hư hỏng. Con người vốn là tốt từ chính bản thân nó (“nhân chi sơ tính bản thiện”), mọi cái xấu xa của nó là từ bên ngoài. (Gần đây, trong một cuốn sách bàn về con người, Trần Đức Thảo trình bày bản chất con người thành bản chất hàng một, bản chất hàng hai. Bản chất hàng hai của con người là đúng bản chất của nó, chỉ cần gạt bỏ bản chất hàng một đi, là con người lại trở về với bản chất nguyên vẹn của mình. Có thể coi sự trình bày của Trần Đức Thảo là tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân văn cổ điển).
Trong sự phát triển của nó, chủ nghĩa nhân văn cổ điển dần dần tách đôi. Một nhánh dựa vào triết học duy tâm đi tới chủ nghĩa duy linh và chủ nghĩa nhân vị, quay trở về với sự tu dưỡng đạo đức và tinh thần của con người, và cuối cùng lại rơi vào màu sắc tôn giáo, rơi vào những Thượng đế mới. Một nhánh dựa vào triết học duy vật, đi tới những tư tưởng cách mạng xã hội nhằm dọn sạch những mảnh đất sống của con người, từ đó con người trở thành tốt đẹp (“con người chí thiện”), thoát khỏi mọi tha hóa để trở thành con người nguyên chất (con người với “sức mạnh bản chất” của nó). Đối với những nhà cách mạng thế kỷ XVIII, trở lực chủ yếu của con người là ở chế độ quân chủ, ở đẳng cấp quí tộc thống trị xã hội. Đối với những người xã hội chủ nghĩa, trở lực đó nằm ngay ở chế độ tư hữu, ở giai cấp tư sản. Chủ nghĩa nhân văn của Mác thuộc dòng này, nhưng ở ông nó đã trở thành chủ nghĩa nhân văn hiện thực thể hiện thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Chỉ cần xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chủ nghĩa xã hội bằng cuộc cách mạng xã hội của giai cấp vô sản và các tầng lớp lao động khác, chủ nghĩa nhân văn sẽ được thực hiện đầy đủ với sự ra đời của những “con người mới”, những “cá nhân phát triển tự do và toàn diện”. Công lao không thể mai một của chủ nghĩa xã hội khoa học (với tư cách chủ nghĩa nhân văn hiện thực) chính là ở chỗ đánh thức dậy niềm tin ở chính bản thân mình của tất cả những người nghèo khổ, những người vô sản đang nằm dưới đáy xã hội, từ đó dấy lên sức mạnh của chính họ để lật đổ mọi ách áp bức và bóc lột. Các cuộc cách mạng trong thế kỷ XIX và thế kỷ XX đã chứng minh sức mạnh to lớn ấy của chủ nghĩa xã hội khoa học với tư cách chủ nghĩa nhân văn hiện thực.
Nhưng đồng thời, thực tiễn của các cuộc cách mạng ấy và những xã hội được xây dựng sau đó lại phơi bày một sự thật khác: con người đã không trở nên “chí thiện” như đã tưởng, “con người mới” không xuất hiện một cách phổ biến; trái lại, con người trong các xã hội mới vẫn bộc lộ những yếu kém, những tật xấu, thậm chí những tệ nạn dưới những hình thức khác nhau.
Điều đó bắt nguồn từ tính phiến diện của chủ nghĩa nhân văn cổ điển mà chủ nghĩa nhân văn hiện thực, dưới hình thức chủ nghĩa xã hội khoa học, đã trực tiếp kế thừa.
Đối với chủ nghĩa nhân văn cổ điển, như đã nói, con người được đặt vào vị trí trung tâm, được đặt lên địa vị tối thượng, nhưng nó vẫn chỉ được nhìn nhận
từ bên ngoài bản thân nó, trong mối quan hệ với thiên nhiên, với xã hội, nhất là với Thượng đế. Con người chưa được nhìn nhận
từ bên trong bởi chính nó.
Vì thế, bản chất con người, “sức mạnh bản chất của con người”, vẫn là một phạm trù trừu tượng, được khái quát bằng tư duy triết học siêu hình mà chưa dựa vào những dữ kiện hiện thực, những nghiên cứu khoa học, do đó, bản chất con người là gì, tổng hợp từ những yếu tố nào, câu hỏi ấy không được trả lời rành mạch và có căn cứ vững chắc. Bản chất con người có phải là “chí thiện” không, nó có những xu hướng trái ngược nhau ngay trong bản thân nó không (chưa nói là tốt hay xấu), quan hệ giữa cái bẩm sinh (donné) và cái tiếp nhận được (acquis) là thế nào..., tất cả đều còn mù mờ dưới làn mây trắng đục chưa bị xua tan.
Và đó không phải do lỗi của chủ nghĩa nhân văn cổ điển. Tính phiến diện, tính hạn chế của nó nằm ngay trong trình độ nhận thức của con người. (Dường như đây là một qui luật của nhận thức: trước hết là nhận thức những cái “ngoài ta”, rồi sau đó mới đi theo chiều ngược lại, từ “cái ngoài ta” đến “cái trong ta”?).
Nghịch lý chính là ở đó: chủ nghĩa nhân văn tuy đạt tới
tính hiện thực với Mác, vẫn là chủ nghĩa nhân văn
trừu tượng. Và khi còn dừng lại ở dạng trừu tượng, thì nó chưa thể đưa ra những lời giải chính xác (hay gần chính xác) cho những câu hỏi hắc búa về đời sống con người ở dạng quần thể cũng như ở dạng cá thể.
Phải nói rằng, trong những ý kiến của Mác về con người, có những luận điểm hết sức sâu sắc, khó tìm thấy ở những nhà tư tưởng lớn khác, có những dự cảm khoa học với sức mạnh phóng chiếu về thời gian mà chính những người mác-xít đã coi nhẹ trong một thời gian rất dài. (Gần đây ở Liên Xô, một số nhà khoa học nổi tiếng đề xướng phải trở lại và xuất phát từ những luận điểm của Mác về con người để xây dựng “một chủ nghĩa nhân văn mới”, nhưng họ vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân văn cổ điển nói chung ). Với tất cả sự kính phục, vẫn có thể dễ dàng nhận thấy tính chất trừu tượng của chủ nghĩa nhân văn hiện thực của Mác.
Xây dựng xã hội mới với con người “chí thiện” trừu tượng - dù đó là “con người - giai cấp” như học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học đề xướng - thì đó vẫn là “con người - giai cấp” trừu tượng. Và sự phóng chiếu về xã hội đó vẫn chỉ là kéo dài nhận thức trừu tượng về con người mà không phải là đi từ con người hiện thực cụ thể. Hơn nữa, con người được nhìn từ bên ngoài, nghĩa là con người-khách thể, con người đó chỉ có thể là
đối tượng của một sự nhào nặn theo những mục tiêu lý tưởng trừu tượng mà không phải là con người-chủ thể, tự mình là chủ thể
tự cải tạo theo những yêu cầu của cuộc sống mới với những khả năng và những giới hạn có thể. Không phải Mác không nói tới vai trò chủ thể của con người trong lịch sử (con người làm ra lịch sử trong chừng mực ngang như lịch sử tạo ra con người), nhưng một khi con người chưa tự nhận thức được mình từ bên trong thì khó có thể đóng vai trò chủ thể.
9.
Chủ nghĩa xã hội khoa học tự tuyên bố là khoa học, đoạn tuyệt một cách căn bản với các thứ chủ nghĩa xã hội không tưởng trước đó. Trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa (và do đó, trong lịch sử tư tưởng loài người nói chung), đây là một bước nhảy lớn làm chuyển động toàn bộ sự phát triển xã hội một cách mạnh mẽ chưa từng thấy, vì nó huy động được các tầng lớp quần chúng “bên dưới” tham gia một cách có ý thức vào sự phát triển xã hội.
Phải nhận rằng nó mang tính khoa học khi phân tích và phê phán xã hội tư sản đương thời, chủ nghĩa tư bản cổ điển, mà trước đó chưa có một học thuyết nào làm được như thế. Phát hiện ra cơ chế bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản, như Ăng-ghen đánh giá, đó là một công lao vĩ đại của Mác.
Nhưng khi chuyển sang dự báo về xã hội cộng sản tương lai, thì tình hình lại khác đi, tính khoa học yếu hẳn. Mác đã dự kiến những bước đi lớn của xã hội cộng sản trên những mảnh đất được ông coi là hiện thực, chia xã hội đó thành hai giai đoạn (thấp và cao), trong đó giai đoạn thấp (chủ nghĩa xã hội) phải thừa kế không ít những nguyên tắc của xã hội tư sản (“pháp quyền tư sản” của nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động” là một ví dụ). Đến Lênin, mảnh đất xuất phát hiện thực của xã hội tương lai được nói rõ hơn, khi ông coi chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là “phòng chờ trực tiếp” của chủ nghĩa xã hội, giữa hai cái đó không có một sự chuyển tiếp kinh tế nào khác. Tiếc thay, những luận điểm sáng suốt, mang tính khoa học ấy về sau bị bỏ qua, gây những tổn thất lớn cho chủ nghĩa xã hội và trên thực tế đã kéo nó về các hình thái tiền tư bản chủ nghĩa.
Nhưng, bình tĩnh nhìn lại, người ta thấy rằng trong những dự kiến của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học về xã hội tương lai khi đạt tới trình độ cao của nó, nhiều cái đã không đứng vững trước tính khoa học nữa. Về thực chất, xã hội ấy được quan niệm gần như một xí nghiệp công nghiệp mở rộng ra phạm vi toàn xã hội: tư liệu sản xuất và, sau đó, cả tư liệu tiêu dùng, nằm dưới sự chi phối của một trung tâm quản lý thống nhất; toàn bộ đời sống kinh tế của xã hội từ sản xuất đến tiêu dùng được kế hoạch hóa cao độ trên cơ sở chế độ công hữu phổ biến và tuyệt đối; lao động con người trở thành lao động xã hội trực tiếp, do đó quan hệ phân phối của cải xã hội cũng được tiến hành trực tiếp bằng những “phiếu thời gian lao động” lúc đầu và bằng một chế độ cung cấp trực tiếp theo nhu cầu về sau... Trên cơ sở đó mà xóa bỏ xã hội có giai cấp, thiết lập xã hội không có giai cấp, trong đó mỗi cá nhân phát triển hài hòa và toàn diện, sự phân chia thành lao động chân tay và lao động trí óc mất đi, sự phân chia giữa thành thị và nông thôn cũng mất đi, v.v... Tóm lại, đó là một xã hội thực hiện tất cả những ước mơ cao đẹp nhất của con người.
Quan niệm ấy về xã hội tương lai là một sự tổng hợp nhiều yếu tố: những lý tưởng vĩnh hằng, “văn minh công nghiệp”, chủ nghĩa nhân văn đương thời. Nhưng trong quan niệm đó về xã hội tương lai, thấy rất rõ ảnh hưởng to lớn của các trào lưu chủ nghĩa xã hội không tưởng. Sự phóng chiếu về tương lai càng xa bao nhiêu, ảnh hưởng ấy càng lớn bấy nhiêu.
Có thể nói rằng quan niệm ấy là sự tiếp tục các dự án của chủ nghĩa xã hội không tưởng trên những đường nét cơ bản nhất. Chỉ có cái khác là các dự án ấy từ nay được coi là đặt trên một mảnh đất “hiện thực” hơn. Như đã nói, cái vĩ đại của chủ nghĩa xã hội khoa học so với các thứ chủ nghĩa xã hội không tưởng chính là ở đó, nhưng tính hạn chế của nó cũng chính là ở đó. Nói cách khác, chủ nghĩa xã hội khoa học vẫn mang trong bản thân nó không ít chất không tưởng.
Xã hội là một cơ thể sống hết sức phức tạp, trong đó các cá nhân cũng phát triển theo những phương hướng và hình thái hết sức phức tạp. Do đó, không thể khuôn xã hội loài người vào những “mô hình” có tính phổ biến. Nhất là khi “mô hình” xã hội tương lai ấy lại không đi từ những điều kiện, những trình độ, những khả năng của sự phát triển xã hội hiện thực, luôn luôn vận động, đôi khi có những bất ngờ, những ngẫu nhiên (tức là những cái không thể dự đoán được, chẳng hạn văn minh tin học, cách mạng công nghệ - khoa học đang diễn ra), mà là từ lý trí trừu tượng của con người, cho dù lý trí ấy có sáng suốt đến đâu chăng nữa.
Đây là một nghịch lý: tính không tưởng trong trường hợp này lại là sản phẩm của chủ nghĩa duy lý. Chủ nghĩa duy lý là một trình độ cao của đời sống tinh thần và tư tưởng của con người, nó giải phóng con người khỏi những mê muội, những tín điều mà con người bị áp đặt vào. Nhưng nó lại bao hàm những nguy cơ tạo ra những tín điều mới khi lý trí được tuyệt đối hóa. Bởi vì, thứ nhất, không phải mọi cái xẩy ra ở con người và xã hội đều được lý trí dự kiến và nắm bắt (xã hội và con người là những tập hợp phức tạp của cái hợp lý và cái phi lý, và thứ hai, sự phóng chiếu của lý trí bao giờ cũng có những giới hạn nhất định về thời gian và không gian. Và như đã thấy, rất nhiều quá trình hiện đang diễn ra của nền văn minh loài người đã không thể dự kiến được (cả về những khả năng mới của con người cũng như những nguy cơ đe dọa nó).
Hậu quả của các dự án xã hội không tưởng là rất nguy hại, nhất là khi chúng được coi là duy nhất khoa học có thể có, nghĩa là khi chúng biến thành những tín điều. Khi đó, tính không tưởng biến thành một thứ duy ý chí, những dự án duy ý chí được đem áp đặt cho xã hội và con người, nhân danh sự giải phóng con người, để cuối cùng, trở thành một sự chuyên chế đối với con người cũng nhân danh con người. Sự vận động từ ý thức đến thực tiễn không thể tránh khỏi các khâu chuyển tiếp sau đây: không tưởng - duy ý chí - chuyên chế. Và nếu sự vận động ấy lại diễn ra từ khâu chuyên chế thì quá trình đó lại tăng thêm chất duy ý chí và chất không tưởng lên gấp bội, để rồi lại vận động theo chiều ngược lại, với hậu quả là sự chuyên chế cũng tăng lên gấp bội.
Những dự án xã hội không tưởng còn mang lại một hậu quả khác, cũng không kém nghiêm trọng: nhân danh tương lai để bắt buộc con người hy sinh hiện tại. Và khi cuộc sống hiện tại của con người bị hy sinh cho tương lai, thì chính cái tương lai ấy sẽ không bao giờ tới. Thay thế cho cái hiện tại bị hy sinh, cái tương lai không bao giờ tới là cái quá khứ mà con người muốn từ bỏ nhưng bây giờ lại chìm sâu vào đó.
Đây không phải là bác bỏ mọi dự đoán, những dự cảm về tương lai của Mác, một thiên tài. Trong những dự đoán, những dự cảm ấy, có nhiều cái phải được tiếp nhận một cách đầy đủ (chẳng hạn, dự báo của Mác về bước nhảy của con người từ “vương quốc tất yếu” sang “vương quốc tự do” trong xã hội tương lai). Nhưng không nên coi những cái đó là một hệ thống hoàn chỉnh, một thiết kế không thể thay thế được, như đã từng làm. Vả chăng, làm như thế là trái với chính Mác và những tư tưởng của ông.
10.
Chủ nghĩa xã hội đã cáo chung? Ngay việc đặt câu hỏi này ra, đối với nhiều tín đồ Mác-Lênin, có vẻ là phản động. Để trở lại với chủ nghĩa tư bản ư? - họ hỏi lại ngay. Nhưng không nên vội vã phán xét sự vận động của tư tưởng. Tất nhiên, không thể quay về với chủ nghĩa tư bản như một hình thái xã hội đã bị phủ định về mặt lịch sử, nhưng không phải vì thế mà thiếu đi một nhận định khách quan và khoa học đối với sự tồn tại và phát triển đang đặt ra nhiều câu hỏi không đơn giản về chủ nghĩa tư bản (chẳng hạn câu hỏi sau đây: tại sao một hình thái xã hội dựa trên cơ sở chế độ tư hữu phát triển ở trình độ cao như vâỵ lại có thể thích nghi với các giai đoạn văn minh khác nhau của loài người: tiền công nghiệp, công nghiệp và hậu công nghiệp?). Và dù cho không muốn từ bỏ những lý tưởng và những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội - thể hiện ở chủ nghĩa xã hội khoa học - cũng không thể không đặt ra những câu hỏi về vận mệnh lịch sử của nó một cách cũng khách quan và khoa học, vượt lên mọi tín điều và cảm xúc (như một tác giả Xô-viết gần đây đã tự đặt ra câu hỏi: tại sao gần một thế kỷ nay, trải qua những thí nghiệm lịch sử khác nhau, người Nhật trở thành những người châu Âu nhất giữa châu Á, còn người Nga thì lại trở thành những người châu Á nhất giữa châu Âu?). Xét đến cùng, đó không phải là những câu hỏi của các cá nhân riêng rẽ, mà là phản ảnh sự phán xét về sự vận động lịch sử của loài ngưòi. Câu trả lời trước tiên không phải tìm từ trong sách vở, mà là từ trong
những hiện thực lớn nhất của thời đại hiện nay
Ở đây, xin nói một chút về khái niệm “thời đại”. Đó không phải là một khái niệm đơn trị mà là một khái niệm đa trị, tùy theo những nội dung căn bản, những tiêu chuẩn căn bản nào được dùng để phân định thời đại. Một định nghĩa quen thuộc về thời đại mà những người mác-xit hay dùng: thời đại được qui định bởi giai cấp nào chiếm địa vị trung tâm của nó, quyết định nội dung và phương hướng chủ yếu của nó. Với cách định nghĩa này, những người mác-xít khẳng định thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga. Cách hiểu đó về thời đại là cách hiểu dựa vào cách nhìn sự vận dộng lịch sử qua các giai cấp và đấu tranh giai cấp, do đó, khái niệm “thời đại” ở đây mang nội dung xã hội - chính trị trực tiếp. Nhưng ngoài khái niệm mác-xít ấy (mà các nhà nghiên cứu mác-xít cũng đang “điều chỉnh” nội dung của nó), còn có những khái niệm “thời đại” khác, dựa vào những nội dung và tiêu chuẩn khác Trong đó, nổi bật lên khái niệm “thời đại” lấy những biến đổi về chất của lực lượng sản xuất xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để phân biệt. Và theo cách hiểu này, người ta phân biệt các thời đại: tiền công nghiệp, công nghiệp, hậu công nghiệp (hay điện tử - tin học, khoa học - công nghệ, v.v...).
Nếu trung thành với chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác, trong đó phép biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nền tảng, thì ngoài khái niệm “thời đại” theo nghĩa xã hội - chính trị, phải chấp nhận cả khái niệm “thời đại” theo nghĩa biến đổi về chất của lực lượng sản xuất, theo nghĩa kỹ thuật - công nghệ. Hơn nữa, không thể không nghiên cứu mối quan hệ qua lại biện chứng giữa hai khái niệm “thời đại” này theo phép biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đây là một công việc lý luận hết sức nghiêm túc, không thể bỏ qua.
Nhưng dù kết quả nghiên cứu sẽ là như thế nào đi nữa, theo tôi, khái niệm “thời đại” hiểu theo nghĩa những biến đổi của lực lượng sản xuất phải là khái niệm
cơ sở.
Rõ ràng, loài người đang nằm ở nơi tiếp giáp giữa hai thời đại công nghiệp và hậu công nghiệp. Trong khi phần lớn các nước còn đang ở trong thời đại công nghiệp (văn minh công nghiệp), thậm chí nhiều nước còn ở trong thời đại tiền công nghiệp, thì các nước phát triển nhất đã bước sang thời đại hậu công nghiệp với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ mới. Có thể khẳng định đó là một giai đoạn văn minh mới của loài người, tức là một cấp độ văn minh cao hơn. Nội dung và cả tên gọi của nền văn minh này còn phải bàn luận, nhưng rõ ràng nó đã xuất hiện như một hiện thực cơ sở của thời đại hiện nay. Trong nền văn minh mới này, tất cả các mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người thay đổi tận gốc. Ở đây chỉ xin nói tới một số điểm có liên quan trực tiếp với hệ vấn đề của chúng ta.
- Với việc áp dụng các phương tiện tin học vào sản xuất, các quá trình sản xuất được điều khiển một cách tự động, người lao động không còn là một bộ phận nằm bên trong hệ thống “con người - máy móc” mà là đứng bên ngoài các thao tác của quá trình sản xuất để điều khiển nó;
- Sản phẩm xã hội từ chỗ mang hàm lượng lao động và vật liệu là chủ yếu, chuyển sang mang hàm lượng khoa học - công nghệ là chủ yếu; từ chỗ sản xuất hàng loạt chuyển sang sản xuất những nhóm sản phẩm nhỏ, thậm chí từng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của cá nhân ngưòi tiêu dùng;
- Qui mô sản xuất không nhất thiết phải là qui mô lớn của các xí nghiệp và liên hợp xí nghiệp, mà có thể là qui mô nhỏ với những thiết bị hiện đại (tin học) theo phương châm “small is beautiful” (nhỏ là đẹp); trình độ xã hội hóa của sản xuất không thể hiện chủ yếu ở “sản xuất lớn” theo kiểu đại công nghiệp, mà chủ yếu ở những liên hệ qua lại tinh vi và chằng chịt của một tổ hợp phức hợp;
- Khoa học không chỉ tham gia các quá trình sản xuất như một yếu tố hỗ trợ, mà chính nó trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp” như Mác từng dự kiến; hơn nữa, bản thân khoa học cũng trở thành một ngành sản xuất (“sản phẩm tin học” chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong giá trị sản phẩm xã hội);
- Sản phẩm xã hội không chỉ là do cách sản xuất những sản phẩm quen thuộc với con người ngày càng hoàn thiện, mà còn là những sản phẩm chưa hề quen thuộc, những sản phẩm đa chức năng, những sản phẩm tổng hợp cao (ranh giới giữa tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trở nên linh hoạt hơn);
- Các quá trình sản xuất được quốc tế hóa, thế giới hóa ở trình độ cao, kèm theo đó là các quá trình trao đổi và tiêu dùng cũng diễn ra tương ứng;
- Quá trình sản xuất của con người không tách khỏi quá trình tự sản xuất và tái sản xuất cu tự nhiên mà trở thành một bộ phận của nó; các nguồn lực tự nhiên không bị khai thác cạn kiệt mà được bồi bổ, bảo dưỡng đến mức tối đa;
vân vân...
Tóm lại, trí tuệ con người trở thành nhân tố hàng đầu, chi phối các quá trình sản xuất xã hội, tạo ra giá trị chủ yếu của sản phẩm xã hội, do đó, trở thành tài sản cơ bản của mọi nền kinh tế quốc dân.
Trong nền văn minh mới, các quan hệ về lao động, về sở hữu, về giao lưu... của loài người sẽ mang một chất lượng mới.
Lao động trực tiếp sản xuất ngày càng giảm đi, lao động điều khiển và quản lý sản xuất ngày càng tăng lên, lao động chân tay có xu hướng giảm ngày càng nhanh và lao động sáng tạo có xu hướng ngày càng phổ biến hóa. Lao động tập thể (trong dây chuyền sản xuất) dần dần nhường chỗ cho lao động cá nhân. Khái niệm “giai cấp công nhân” hiểu theo nghĩa cổ điển không còn tồn tại nữa, dù với những biến thể của nó (như coi lao động trí óc là một bộ phận của giai cấp công nhân, hoặc trí thức hóa...), thay vào đó là khái niệm “người lao động” mang thuộc tính mới (sáng tạo, cá nhân, xã hội hóa linh hoạt...). Quan niệm về “sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân” trở nên lỗi thời.
Các quan hệ sở hữu cũng biến đổi căn bản. Trên cơ sở (và theo đòi hỏi) của cách mạng khoa học - công nghệ, của lực lượng sản xuất ở trình độ mới, sở hữu ngày càng đa dạng. Nếu trước đây, sản xuất nhỏ bị sản xuất lớn của văn minh công nghiệp phủ định, thì bây giờ, sản xuất lớn kiểu công nghiệp lại bị sản xuất đa dạng, hỗn hợp phủ định. Trong giai đoạn văn minh nới, các hình thức sở hữu khác nhau đều có thể tồn tại trên cơ sở kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Tùy theo những yêu cầu của sản xuất xã hội, mỗi hình thức sở hữu lớn và nhỏ xã hội và cá nhân, đều có vị trí trong mối liên hệ hữu cả với các hình thức sở hữu khác. Sở hữu cá nhân ở đây không còn là sở hữu tư nhân theo quan niệm cũ. Sở hữu tư nhân trước đây (dưới chủ nghĩa tư bản chẳng hạn) đi tới tách tư liệu sản xuất khỏi người lao động. Trong giai đoạn văn minh mới, sở hữu cá nhân là sự thống nhất của hai yếu tố đó. Sở hữu cá nhân trước đây (như kinh tế học chính trị về chủ nghĩa xã hội quan niệm) chỉ bó bẹp vào tư liệu tiêu dùng cá nhân. Sở hữu cá nhân mới cho phép bao hàm cả tư liệu sản xuất. Về đại thể, sở hữu xã hội (dưới các hình thức khác nhau của nó: toàn dân, tập thể, địa phương...) và sở hữu cá nhân nằm trong mối quan hệ tối ưu với sản xuất và tiêu dùng của xã hội, bổ sung nhau, thâm nhập lẫn nhau, thúc đẩy nhau. cơ sở hữu xã hội lẫn sở hữu cá nhân đều mất địa vị độc tôn. Trong xã hội sẽ tồn tại một hệ thống sở hữu đa nguyên.
11.
Nền văn minh mới của loài người không chỉ làm biến đổi đời sống kinh tế của con người. Nó còn làm biến đổi các mặt đời sống khác (chính trị, tư tưởng, văn hóa...) của con người. Xin nêu bật mấy điểm có liên quan trực tiếp với hệ vấn đề của chúng ta.
- Những thành tựu ngày càng mới của con người về mặt nhận thức khoa học ở trình độ vĩ mô (vũ trụ, thế giới...) cũng như ở trình độ vi mô (tế bào, nguyên tử, phần tử...) đạt tới những ranh giới ngày càng xa, đẩy lùi dần những “bí ẩn” trong tự nhiên và trong bản thân con người, làm cho giới hạn tác động của con người ngày càng rộng và sâu hơn, và khả năng của nó ngày càng tăng lên (“sức mạnh bản chất của con người” mang những năng lực mới và những biểu hiện mới);
- Sức mạnh của loài người tăng lên theo/do sức mạnh cá nhân con người tăng lên. Tính loài người chung và tính cá nhân con người làm thành một thể thống nhất hữu cơ, mỗi phía trở thành tiền đề và điều kiện của phía kia. Sự giải phóng con người vượt qua thời kỳ giải phóng “đám đông” để chuyển sang thời kỳ giải phóng “cá nhân”. Nếu trước đây, các phạm trù “giải phóng dân tộc”, “giải phóng giai cấp” là các phạm trù nền tảng, xuất phát, còn phạm trù “giải phóng cá nhân” là phạm trù phái sinh, thì trong nền văn minh mới, sẽ là ngược lại. Mỗi cá nhân không còn là “vật tế thần” cho sự giải phóng dân tộc và giai cấp, mà trở thành cứu cánh của nó. Và khi mỗi cá nhân được đặt vào vị trí cứu cánh, thì tính loài người chung sẽ được khôi phục toàn vẹn, không bị che lấp bởi những khâu trung gian nào khác, dù rằng những khâu trung gian này vẫn tồn tại, tất nhiên dưới những hình thức khác, do những đặc trưng khu vực, dân tộc, vùng văn hóa, tôn giáo... Sự kết hợp của các yếu tố “cá nhân - khâu trung gian - loài người” sẽ tạo thành một đời sống tinh thần, văn hóa đa dạng chưa từng thấy;
- Tri thức khoa học và cùng với nó là chủ nghĩa duy lý, trong khi vẫn phát huy ngày càng sâu rộng những sức mạnh không có giới hạn để nhận thức và cải tạo thế giới, cũng ngày càng nhận thức được những giới hạn của mình. Khu vực “có thể nhận thức” càng mở rộng, thì “khu vực chưa thể nhận thức” cũng càng mở rộng. Chủ nghĩa duy lý cổ điển, hiểu theo nghĩa vạn năng, sẽ không thể tồn tại được nữa. Thay vào đó là một chủ nghĩa duy lý mới, khiêm tốn hơn với mấy hệ quả:
- Những câu hỏi sẽ nảy sinh nhiều hơn những câu trả lời, dù rằng khoa học và lý trí con người sẽ trả lời được ngày càng nhiều hơn. Thế giới không chỉ có những “cái hợp lý” (rationnels) mà còn có những “cái phi lý” (irrationnels). Chủ nghĩa duy lý mới phải thừa nhận sự tồn tại sóng đôi ấy trong những biến hóa của chúng (hợp lý - phi lý - hợp lý - phi lý...) theo đường xoáy trôn ốc (phải chăng cần suy nghĩ tới khái niệm “chủ nghĩa duy lý phi lý” (rationalisme irrationnel) của Edgar Morin?). Và nếu những cái hợp lý tồn tại dưới hình thức tri thức khoa học, thì những cái phi lý vẫn có thể tồn tại dưới những hình thức khác (tôn giáo, ngoại tâm lý...) mà người ta không thể loại trừ một cách vũ đoán.
- Sự chuyên chế chống lý trí không thể bị thay thế bằng sự chuyên chế của lý trí. Khi trong xã hội chỉ có một thiểu số lấy hoạt động lý trí làm nội dung và đối tượng chủ yếu, thì điều đó còn hiểu được. Nhưng khi mỗi cá nhân con người trong xã hội đều sống theo lý trí thì sự chuyên chế của lý trí là không thể chấp nhận. Không ai có quyền nhân danh lý trí để độc chiếm chân lý. Độc quyền về tư tưởng và khoa học là vô nghĩa.
- Chủ nghĩa duy lý mới, do đó, không thể đề xướng những dự án không tưởng về mặt xã hội. Nó mang tính hiện thực ngay từ đầu. Hiện thực con người, xã hội và tự nhiên tồn tại và phát triển một cách đa dạng với những biến thể khác nhau. Tính đa dạng, tính nhiều biến thể trở thành những thuộc tính không thể thiếu của chủ nghĩa duy lý mới. Chủ nghĩa không tưởng ngày càng bị thu hẹp mảnh đất của nó.
Trong đời sống tinh thần của con người, của xã hội, sự phân chia thành những hệ tư tưởng, những trường phái tư tưởng khác nhau vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng không còn giữ thái độ thù địch nhau, loại bỏ nhau bằng bạo lực, bằng những sức ép tinh thần nữa. Đời sống con người sẽ mang tính đa nguyên ngày càng cao. Tranh luận sẽ tăng lên, nhưng sự tiêu diệt nhau vì lý do hệ tư tưởng sẽ không còn. Nếu trong Thời Khai sáng, sự khoan dung về tín ngưỡng (tolérance de conscience) được nêu thành một trong những phương châm lớn nhất của đời sống tinh thần xã hội, thì bây giờ nó phải được mở rộng ra mọi lĩnh vực khác (hệ tư tưởng, khoa học...).
12.
Chủ nghĩa nhân văn mới đang xuất hiện, nó kế thừa, phát triển và thay thế chủ nghĩa nhân văn cổ điển. Cái chung của chủ nghĩa nhân văn cổ điển và chủ nghĩa nhân văn mới là lấy con người làm điểm xuất phát và điểm tận cùng của đời sống xã hội, coi con người là giá trị tự thân, là mục đích tự thân của chính nó. Nhưng giữa hai thứ chủ nghĩa nhân văn này có những khác biệt căn bản, từ nhận thức chính bản thân con người đến việc đặt vị trí của nó trong tự nhiên.
Như đã nói trên, nhân văn cổ điển chủ yếu là nhận thức con người từ bên ngoài. Chủ nghĩa nhân văn mới, ngoài việc tiếp tục các nhận thức ấy ra, chủ yếu đi theo một đường hướng nhận thức khác:
từ bên trong. Trước kia, không thể làm như vậy được vì trình độ phát triển của các khoa học chưa cho phép. Nhiều lắm, con người cũng chỉ được nhận thức từ bên trong từng mảnh, mang tính cơ giới (chẳng hạn nhận thức về từng hệ thống trong cơ thể: hệ tuần hoàn, hệ tiêu hóa, hệ thần kinh, hệ hormon...). Nói như Frolov, một nhà triết học Xô-viết, trong con người, cái gì cũng được người ta hiểu hết, nhưng con người trở thành con người như thế nào thì chưa thể hiểu được. Mấy chục năm qua, không những các ngành khoa học truyền thống (“cũ”) như y học, sinh học, vật lý, hóa học...) đã cung cấp thêm nhiều dữ kiện để hiểu rõ con người hơn, nhưng quan trọng nhất là những khám phá của các ngành khoa học mới và các khoa học liên ngành, đặc biệt là sinh học phân tử, di truyền học, vật lý sinh học, hóa học sinh học, tâm thần học, ứng xử học (bao gồm sinh học xã hội - biosociologie), v.v... Sự liên kết, hòa nhập của tất cả các ngành khoa học ấy thành một hệ thống khoa học thống nhất về con người đã được bắt đầu thực hiện (qua các trung tâm như Institut de l’homme của Jacques Monod ở Paris, Viện Nghiên cứu Con người của Frolov ở Moskva...), báo hiệu một giai đoạn mới về chất của việc nghiên cứu con người. Nhiều vấn đề nổi lên hàng đầu: chương trình sinh học, hệ di truyền, vô thức và siêu thức... (Chưa nói tới những nghiên cứu cho đến nay vẫn chưa được thừa nhận rộng rãi: ngoại cảm, ngoại tâm lý, tử vi, v.v... mà chúng ta không nên loại bỏ một cách đơn giản). Việc nghiên cứu con người từ bên trong gắn liền với việc nghiên cứu nó về mặt sinh thành cá thể, ngoài mặt sinh thành quần thể đã có. Số phận con người không chỉ được đặt trên bình diện cái chung, mà còn được đặt ra trên bình diện cái riêng. Những thành tựu mới về nghiên cứu con người chưa thật nhiều, nhưng đã bắt đầu có cơ sở để giải đáp một số vấn đề cơ bản của đời sống con người:
- Con người không phải vốn là tốt hay xấu, nó ra đời và tồn tại như vốn có;
- Con người không chỉ là một thực thể xã hội, mà còn là một thực thể sinh học - xã hội (biosocial), cái sinh học nền tảng của nó biến đổi theo cái xã hội ở những mức độ nhất định, nhưng cái xã hội cũng bị qui định trong những giới hạn sinh học, dù những giới hạn này không cố định;
- Sự cải tạo con người không thể có ý nghĩa tuyệt đối, cũng không phải không có giới hạn (theo Amosov, giáo dục hiểu theo nghĩa rộng nhất chỉ có thể thay đổi bản tính con người nhiều nhất là 50%).
Như vậy, một xã hội phù hợp nhất với con người, một xã hội có nhân tính không phải là một xã hội chỉ cần dọn dẹp môi trường chung quanh để thích hợp với “tính bản thiện” của nó, cũng không phải là một xã hội khuôn theo những công thức lý tưởng nào đó do ý chí tốt lành nào đó của một số người tự coi có sứ mệnh cứu thế áp đặt, và nếu con người không thích hợp với những công thức này thì chỉ có việc là “nhào nặn lại” cho thích hợp. Một xã hội có nhân tính là một xã hội được tổ chức sao cho những bản tính tự nhiên của con người tồn tại một cách tự nhiên, tạo ra những điều kiện tối ưu cho sự phát triển toàn diện và tự do cho mỗi cá nhân con người. Trong xã hội đó, cái
ego không bị triệt tiêu, trái lại, còn được coi là đơn vị cơ sở của xã hội. Tính đồng loại, tính tập thể của con người là tất yếu (cũng giống như mọi quần thể sinh học khác) và cũng phải được coi là một giá trị cơ bản, nhưng điều đó không có nghĩa là triệt tiêu cái
ego mà chính là phải tạo ra môi trường thuận lợi và tối ưu cho mỗi
ego. Xã hội chỉ qui định ranh giới để cho
ego này không làm tổn hại
ego khác. Tất cả những giá trị vật chất và đạo đức do con người tạo dựng trong lịch sử phải trở thành tài sản riêng của mỗi
ego, và bằng cách đó mà trở thành tài sản chung của toàn xã hội. Cái xã hội (cái chung) làm phong phú cho cái cá nhân (cái riêng),và ngược lại, cái cá nhân được phát triển sẽ làm cơ sở và điều kiện cho cái xã hội phát triển theo những nhịp độ gia tốc.
Cái
ego trong những điều kiện mới không phải là chủ nghĩa cá nhân. (Trong các xã hội nguyên thủy, không có cá nhân tồn tại như vốn có, vì thế không có chủ nghĩa cá nhân. Trong các xã hội có chế độ người áp bức và bóc lột người, cá nhân bị triệt tiêu theo hai hướng: những người bị áp bức và bóc lột thì bị tước đoạt mất những điều kiện tồn tại với tư cách cá nhân, bị mất nhân tính, bị tha hóa; những kẻ áp bức và bóc lột người khác lại chiếm lĩnh nhân tính cho riêng mình, nhưng làm như thế họ cũng đánh mất nhân tính, vì nhân tính chỉ có thể tồn tại như một khái niệm loài (tộc loại) - trong các quan hệ giữa các cá thể cùng một loài - do đó, cá nhân họ cũng chỉ có thể tồn tại dưới dạng chủ nghĩa cá nhân, nghĩa là cá nhân bị tha hóa).
Mỗi
ego được phát triển, tự phát triển dến mức có thể có (trong giới hạn không gây tổn hại cho các
ego khác), do đó, tính đa dạng của con người cũng phát triển đến mức cao. Với những
ego như thế, xã hội ngay trong bản chất của nó có tính đa nguyên.
Chủ nghĩa nhân văn mới dựa trên những cơ sở vật chất mới, đặc biệt là những phương tiện tin học. Con người có trong tay những phương tiện vật chất có hiệu quả để phát triển theo hai hướng: cá thể hóa và toàn cầu hóa (tộc loại hóa). Sự khẳng định về mặt cá thể ngày càng được đẩy sâu do được bảo đảm tính độc lập của mình trong lao động và các mặt đời sống khác. Đồng thời những phương tiện tin học giúp cho con người nắm bắt các quá trình toàn cầu một cách nhanh nhạy và sâu sắc, con người ngày càng cảm thấy mình là một tế bào hữu cả của tộc loại. Tác động giữa các cá nhân diễn ra không chỉ trong phạm vi từng nước, từng vùng, mà cả trên phạm vi toàn cầu. Tính toàn cầu trở thành một trong những nền tảng chủ yếu của tổ chức xã hội. Nó trở thành một thước đo của xã hội. Sự tiến hóa của xã hội không chỉ được đo theo chiều dọc thời gian, mà còn được đo theo chiều ngang không gian. Hai yếu tố thời gian và không gian của con người thâm nhập nhau, tạo thành một khái niệm “thời gian - không gian” thống nhất (chiều rộng không gian sẽ bù đắp cho những nhịp độ chậm chạp về thời gian, và chiều sâu thời gian sẽ bù đắp cho những chênh lệch, khập khiễng về không gian).
Chủ nghĩa nhân văn mới đặt con người vào đúng chỗ trong tự nhiên. Nhận thức của con người về bản thân mình càng sâu, thì nhận thức về tự nhiên của nó cũng càng sâu. Con người vừa tự coi mình là một thực thể sống cao nhất trong tự nhiên, vừa thấy rõ hơn mình là một bộ phận không tách rời và không đối lập với tự nhiên, Quan niệm coi con người là trung tâm (anthropocentrisme) của chủ nghĩa nhân văn cổ điển sẽ được thay thế bằng quan niệm hòa hợp, hòa nhập giữa con người và tự nhiên. Bản tính tự nhiên của con người được khôi phục và phát triển ngày càng cao, cùng với quá trình ấy sẽ diễn ra quá trình tự nhiên được người hóa, theo nghĩa được con người làm cho hoàn thiện hơn.
Không phải ngẫu nhiên mà gần đây các trào lưu sinh thái học nảy sinh và tăng lên nhanh chóng, thu hút sự quan tâm của mọi người. Chưa bao giờ con người cảm thấy nguy cơ thoái hóa, thậm chí hủy diệt của mình gắn liền với sự thoái hóa và hủy diệt môi trường tự nhiên như bây giờ. Bảo vệ tự nhiên đồng nghĩa với bảo vệ con người. Bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên, vì thế, là một đòi hỏi và cũng là một trong những nền tảng tổ chức xã hội trong nền văn minh mới.
Chưa nói tới những khả năng mới của con người trong các quan hệ của nó với vũ trụ. Những thám hiểm của con người về vũ trụ đang mở rộng tầm nhìn của nó để có thể đi tới một vũ trụ quan đích thực (dựa vào những dữ kiện hiện thực được khám phá ngày càng nhiều, mà không chỉ dựa vào những khái quát triết học, những dự cảm tôn giáo). Những nghiên cứu về các nền văn minh ngoài trái đất (đang được bắt đầu một cách dè dặt) có thể mang lại cho con người những biến đổi mới về nhận thức đối với sự tồn tại của chính bản thân mình. Trong trường hợp có những nền văn minh như vậy và có những giao tiếp với chúng, con người sẽ phải tư duy và sống khác đi để tạo ra một sự hòa hợp với những “người vũ trụ” khác. Trong trường hợp không có những nền văn minh ấy, con người cũng sẽ phải tư duy và sống khác đi để tự bảo tồn tộc loại của mình như sản phẩm cao nhất và độc nhất của tiến hóa vũ trụ một cách có trách nhiệm hơn nhiều.
Tóm lại, chủ nghĩa nhân văn mới không cần đến những “con người chí thiện”. Nó chỉ cần có những con người như vốn có với tất cả những khả năng và hạn chế và, do đó, cũng cần tới một tổ chức xã hội phù hợp với những khả năng và những hạn chế ấy.
(Tiểu luận này còn tiếp một kỳ)