Gần đây, trên diễn đàn chính trị đã thấy một số tác giả đề cập tới "Phương thức Sản xuất Á châu" khi xét đến tiến trình phát triển các hình thái kinh tế xã hội Việt Nam. Trên mạng talawas ngày 8.10.05 người viết bài này đã trình bày ý kiến của mình dưới tiêu đề «Lược khảo khái luận "Phương thức Sản xuất Á châu" của Karl Marx và Friedrich Engels
». Bài này chỉ làm công việc triển khai tiếp nối.
1. Quan điểm của Lenin về Phương thức Sản xuất Á châu
Lenin là một nhà Mácxít chính thống, hậu duệ
[1] trung thành của Marx và Engels về khái luận Phương thức Sản xuất Á châu. Mặc dù trong tác phẩm
Der Ursprung der Familie, des Privateigentums und des Staates (Nguồn gốc gia đình, tài sản tư hữu và nhà nước) Engels đã đoạn tuyệt với khái luận Phương thức Sản xuất Á châu
[2] , không làm cho Lenin - vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 - "xa lánh" khái luận Phương thức Sản xuất Á châu của hai bậc thầy. Lenin đã mặc nhiên công nhận và tiếp thu khái niệm "Hệ thống Á châu" trong đúng hai thập niên từ 1894 tới 1914.
Sau khi tham gia vào phong trào Dân chủ Xã hội năm 1893, với một thời gian tương đối ngắn, Lenin đã nghiên cứu lý thuyết của Marx và Engels, và đã chấp nhận Phương thức Sản xuất Á châu là một trong bốn hình thái kinh tế xã hội đối kháng
[3] . Trong tiểu luận
Die Entwicklung des Kapitalismus in Rußland (Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tại Nga) công bố năm 1899, Lenin cũng đã đề cập tới khái niệm "Hệ thống Á châu" khi nhận xét các quan hệ kinh tế xã hội Nga thời đó. Năm 1900, ông mô tả chính phủ của Trung Hoa cổ truyền là chính phủ mang tính Á châu
[4] . Hai năm sau ông khẳng định tính chất thâm độc của sự đàn áp Á châu
[5] . Trong những năm 1906-07 ông đã tranh luận gay gắt với Plechanow, một nhà Mácxít Nga đại diện cho nhóm thiểu số (Menschewiki[Wd1]) và lập luận rất vững chắc về "Hệ thống Á châu" và đặc tính "bán Á châu" của xã hội Nga
[6] . Năm 1911, ông lại nhấn mạnh đăc thù của "Hệ thống Đông phương", "Hệ thống Á châu" và sự "trễ nải của Đông phương"
[7] . Cùng năm đó, khi xảy ra Cách mạng Tân Hợi, ông lại đề cập tới "đặc thù Á châu" của Trung Hoa cổ truyền và còn gọi nguyên thủ của Trung Hoa thời ấy là "Tổng thống Á châu"
[8] . Trong một cuộc tranh luận với Rosa Luxemburg năm 1914, ông đã thống nhất với bà về chủ nghĩa chuyên chế Á châu là một hiện tượng bao hàm mọi khía cạnh kinh tế, chính trị, văn hoá lịch sử và cả xã hội nữa, và ông còn triển khai thêm rằng một trật tự nhà nước như thế sẽ rất bền vững ở trường hợp hình thái kinh tế của những quốc gia mang đậm nét phụ hệ, tiền tư bản và nền kinh tế hàng hoá, cũng như sự phân hoá giai cấp phát triển
không đáng kể.
[9]
2. Đệ nhất thế chiến (1914-1918), thời điểm Lenin triệt tiêu vĩnh viễn khái luận Phương thức Sản xuất Á châu của Marx và Engels
Vào khoảng tháng Mười 1914, Lenin hy vọng rằng thế chiến sẽ tạo ra tiền đề để những nhà Xã hội cực đoan có thể tiến hành một cuộc cách mạng chính trị xã hội.
Năm 1915, ông tin tưởng rằng đang xuất hiện những tiền đề của một sự lật đổ vĩ đại. Để thuyết phục những chiến hữu của mình về nhận định táo bạo trên, ông đã viết hai tiểu luận, một vào năm 1916 -
Der Imperialismus als höchstes Stadium des Kapitalismus (Chủ nghĩa Đế quốc, giai đoạn tột đỉnh của chủ nghĩa tư bản), và một vào năm 1917 -
Staat und Revolution (Nhà nước và Cách mạng). Trong hai tiểu luận này, Lenin không hề nhắc tới những đặc thù của nền kinh tế Nga, thậm chí còn nhìn nhận xã hội Nga như một xã hội Tây phương, với đặc thù tư hữu sản đóng vai trò chủ đạo. Chức năng "điều hành công vụ xã hội" của Nhà nước truyền thống Nga đã bị triệt tiêu.
[10]
Đỉnh cao của sự chia tay với khái luận Phương thức Sản xuất Á châu của Lenin được thể hiện rõ nét nhất qua diễn văn về đề tài "Nhà nước" của ông vào ngày 11 tháng Bảy năm 1919 tại Trường Đào tạo Cán bộ Xô viết Trung ương. Trong diễn văn, Lenin không hề nhắc nhở các tham dự viên tham khảo tất cả những lý luận về chủ nghĩa xã hội của Marx và Engels mà đặc biệt chỉ khuyên bảo họ nên đào sâu những luận điểm của Engels trong tác phẩm
Nguồn gốc gia đình..., khẳng định đó là kinh điển đề cập đến Chủ nghĩa Xã hội
hiện đại, [11]
3. Quá trình tranh đấu tư tưởng dứt bỏ khái luận Phương thức Sản xuất Á châu - bất chấp hậu qủa của khả năng tái lập "Hệ thống Á châu"
Xuất phát từ sự đoạn tuyệt với khái luận Phương thức Sản xuất Á châu, một sự đoạn tuyệt không có cơ sở khoa học lý luận mà chỉ vì sách lược chính trị phải cướp thời cơ làm "Cách mạng vô sản tại Nga", nên Lenin đã dao động trong việc xác định vai trò của nhà nước. Khi thì ông cho là "chuyên chính quan liêu"
[12] , lúc lại xác định "có khuynh hướng tư sản, chịu sự điều khiển của các đại tư bản và các tầng lớp quý tộc"
[13] Những phê phán cảnh cáo của Plechanow ở đại hội Đảng Dân chủ Xã hội tại Stockholm năm 1906 trước nguy cơ tái lập "Hệ thống Á châu" dựa vào nền tảng thừa kế mang tính Á châu của nước Nga, đã làm cho Lenin dao động về "Đề cương quốc hữu hoá đất đai" do ông soạn thảo. Plechanow lập luận rằng một đường lối chính trị như thế, đáng lẽ phải cắt bỏ sự ràng buộc người nông dân với nhà nước qua trung gian đất đai, lại để tồn tại những tàn dư của một trật tự xã hội "bán Á châu" và đương nhiên tạo cơ hội tái lập "Hệ thống Á châu" một cách dễ dàng.
[14] Plechanow còn dẫn luận rằng dự thảo Đề cương của Lenin như thế có nghĩa là sẽ thiết lập một chính phủ chuyên chế được tạo dựng trên cơ sở một thiểu số giai cấp vô sản quá nhỏ
[15] và chính phủ này sẽ không có đủ khả năng ngăn cản được sự tái lập "Hệ thống Á châu".
[16]
Bất chấp mọi ý kiến cảnh cáo về khả năng tái lập Phương thức Sản xuất Á châu nếu thực thi chính sách "quốc hữu hoá đất đai", Lenin quyết định chấp nhận phiêu lưu, và từ đó ông luôn tìm cách giảm thiểu hoặc vô hiệu hoá ý nghĩa của khái niêm "gia tài thừa kế Á châu" của xứ Nga. Cách mạng tháng Mười thành công, nhưng Lenin nhận thấy rất nhiều khó khăn cho việc kiến tạo một nhà nước kiểu mới của chế độ Công xã (không có quan liêu, không có công an và quân đội thường trực). Vượt qua được những khó khăn vừa nêu trên - có nghĩa là ngăn chặn được khả năng tái lập "Hệ thống Á châu" - Lenin chỉ hy vọng vào sự thành công của cuộc cách mạng tại một hay nhiều quốc gia tiền tiến Tây phương. Thành quả của Cách mạng vô sản tại Tây Âu sẽ hỗ trợ tích cực cho Cách mạng tháng Mười. Vì thế, khi cuộc Cách mạng tháng Mười Một 1918 tại Đức bùng nổ, Lenin rất vui mừng. Nhưng khi hai nhà cách mạng Rosa Luxemburg và Karl Liebknecht bị sát hại vào tháng Giêng 1919, thì Lenin đã quá thất vọng vì lực lượng cách mạng Tây phương quá yếu và kỳ vọng vào sự hỗ trợ đã tan biến. Tại Hội nghị Công đoàn toàn Nga lần thứ hai, Lenin so sánh, đánh giá thành quả của cuộc Cách mạng Pháp và Cách mạng tháng Mười Nga và đã để lộ nỗi lo âu về nguy cơ tái lập "Hệ thống Á châu"
[17] . Sau cuộc khởi nghĩa thất bại Kronstadt vào ngày 21.4.1921, Lenin đã lưu ý về những hiểm họa kỵ xã hội chủ nghĩa và kỵ vô sản phát xuất ngay từ bộ máy quan liêu Xô viết. Ông không nêu rõ mối âu lo nhưng đã ám chỉ cho biết "Chủ nghĩa xã hội ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản, nhưng chủ nghĩa tư bản lại ưu việt hơn trật tự trung cổ, nền tiểu sản xuất và sự gắn bó chặt chẽ của hệ thống quan liêu với nền tiểu sản xuất".
[18]
4. Các nhà Mácxít hàng đầu của Liên Xô tranh luận về Phương thức Sản xuất Á châu
Chỉ khoảng một năm sau khi Lenin qua đời, nhóm "lý thuyết gia Mácxít" từng chia sẻ với Lenin về khái luận Phương thức Sản xuất Á châu đã nhận thấy tính thức thời của khái luận vừa đề cập của Marx và Engels nhân một lọat sự kiện xảy ra tại Trung Hoa vào những năm đầu và gần cuối thập niên hai mươi.
[19]
Năm 1925, Rjasanow, giám đốc Viện Marx-Engels của Nga thuở ấy, đã công bố nhiều tiểu luận của Marx về Ấn Độ và Trung Hoa. Trong phần dẫn nhập, ông này đã dẫn giải những quan điểm của Marx về xã hội Á châu và Phương thức Sản xuất Á châu
[20] . Cùng trong năm, kinh tế gia hàng đầu của Nga thuở ấy, Varga, đã dẫn giải rằng những công trình xây đắp bảo vệ đê điều, dẫn thủy nhập điền tạo năng xuất sản xuất do chính phủ Trung hoa điều hành thể hiện nền tảng căn bản của xã hội Trung Hoa, và chính những quan lại có học hàm học vị quản lý, các quan văn (die literati), chứ không phải đại diện giới hữu sản, chẳng hạn như giai tầng chiếm hữu ruộng đất, là biểu tượng cho giai cấp thống trị của Trung Hoa thời đó - "một giai cấp thống trị kiểu độc đáo"
[21] Trong một bài báo khác đăng trên tờ
Bolschewik,cơ quan lý luận của Đảng Cộng sản Liên Xô, Varga lại nhấn mạnh xã hội truyền thống Trung Hoa là một xã hội Á châu, mà trong xã hội này các nông dân, chủ hữu sản và tá điền đều có những tư thế khác hẳn với các nông nô trong xã hội phong kiến.
[22] Cương quyết bảo vệ khái luận Phương thức Sản xuất Á châu, Varga còn yêu cầu có những cuộc tranh luận sâu sắc hơn nữa.
Cuộc tranh luận cuối cùng cũng được tổ chức tại Leningrad vào tháng Hai năm 1931.
Thời điểm xảy ra cuộc tranh luận vào đúng lúc vừa kết thúc giai đọan công hữu và tập thể hóa mà những người của bộ máy quan liêu dưới quyền của Stalin đã củng cố được địa vị chắc chắn của ho, đồng thời cũng để kịp thời chuẩn bị thanh trừng các "lão thành cách mạng". Điều này cũng giải thích được tại sao các "lão thành" như Rjasanow, Varga, Bucharin, v.v... không được thông báo tham dự.
5. Cuộc tranh luận tại Leningrad về Phương thức Sản xuất Á châu
Những biến động tại Trung Hoa vào những thập niên hai mươi và ba mươi đã làm nổi cộm vấn đề định hướng cách mạng, tiến hành Cách mạng Dân chủ Tư sản hay "đốt cháy" giai đoạn tư bản chủ nghĩa rồi tiến thẳng lên Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa với sự giúp đỡ của Đệ tam Quốc tế. Ngoài ra, từ khoảng giữa thập niên 20, Stalin luôn khẳng định xã hội Trung Hoa là "bán phong kiến".
[23] Thôi thúc bởi tình hình thế giới vào thời điểm đó, như trên đã nêu, và mâu thuẫn giữa Trotzky "permanente Revolution" (Cách mạng thường trực) và Stalin "Sozialismus in einem Land" (Chủ nghĩa Xã hội tại một nước), nên đã có những cuộc tranh luận về Phương thức Sản xuất Á châu tại Leningrad.
Nhóm phê phán khái luận Phương thức Sản xuất Á châu đã đưa ra 3 lập luận căn bản:
- Sẽ là phi Mácxít nếu chấp nhận bộ máy quan liêu mang chức năng "điều hành công vụ xã hội" là giai cấp thống trị.
- Đả phá quan điểm lý giải với nội hàm Á châu, quan liêu về giai tầng quý tộc hạ đẳng Trung Hoa, Hoàng tộc, Vọng tộc, bộ máy quan liêu văn võ.
- Khẳng định rằng lý thuyết về Phương thức Sản xuất Á châu sẽ gây tác hại lớn cho công tác của Quốc tế Cộng sản tại các quốc gia thuộc địa và bán thuộc địa. [24]
Tại các cuộc tranh luận này, người ta không đặt vấn đề lý luận khoa học mà chỉ
chú trọng ý nghĩa chính trị của nó
[25]
Phe bảo vệ Phương thức Sản xuất Á châu thuộc nhóm thiểu số, do đó luận điểm coi Phương thức Sản xuất Á châu là một hình thái kinh tế xã hội độc lập đã không được chính thức nhìn nhận. Tuy nhiên, từ các cuộc tranh luận trên, người ta cũng thấy được ý nghĩa chính trị của nó. Cụ thể là cuộc tranh luận Leningrad không được công bố trên báo chí Quốc tế Cộng sản, và nội dung tranh cãi của hội thảo Leningrad cũng không được bàn thảo sâu rộng tại các Đảng Cộng sản ngoài Liên Xô, đặc biệt tại các quốc gia thuộc địa hay bán thuộc địa Á và Phi, bởi vì họ sợ lý thuyết Phương thức Sản xuất Á châu sẽ biện luận cho quan điểm của Marx và Engels cho rằng sự hiện diện của Tư bản Chủ nghĩa Tây phương tại các thuộc địa không phải chỉ có đàn áp, bóc lột mà còn có vai trò đóng góp "xây dựng"
[26] . Do đó, nếu các nhà lãnh đạo các phong trào giải thực tại các quốc gia thuộc địa và bán thuộc địa "thấm nhuần" lý thuyết trên, có thể sẽ không chấp nhận, thậm chí chống đối những đường lối chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, liên đới tới sự nghiệp giải phóng của họ. Từ vai trò đồng minh chiến lược có rất nhiều khả năng để trở thành đối thủ chiến lược, nếu "vũ khí Phương thức Sản xuất Á châu" để thất thoát ra những quốc gia đã đề cập này.
[27]
6. Các sử gia và lý thuyết gia Mácxít Việt Nam và khái luận Phương thức Sản xuất Á châu
Khái luận Phương thức Sản xuất Á châu và định đề "năm hình thái kinh tế xã hội" của Stalin [28]
Tất cả những đặc thù mà Marx và Engels đã nghiên cứu về xã hội Á châu và đã khẳng định đó là một hình thái kinh tế xã hội độc lập, đều được các sử gia và các nhà lý luận Mácxít Việt coi như một sự mô tả đặc biệt của chế độ chiếm hữu nô lệ hoặc chế độ phong kiến Á châu. Tại đây, tĩnh từ Á châu của Marx và Engels nằm trong phạm trù một hình thái kinh tế xã hội dựa vào chế độ
công hữu tài sản bộ tộc [29] được gán ghép vào một hính thái kinh tế xã hội dựa vào chế độ
tư hữu tài sản.
[30] Nguyễn Lương Bích, một sử gia Mácxít, đã biện luận khái luận Phương thức Sản xuất Á châu của Marx và Engels chẳng qua là chế độ chiếm hữu nô lệ Á châu, mà ở đây khái niệm nô lệ Á châu chính là khái niệm “nô lệ phổ biến” Marx đã đề cập.
[31] Lập luận này cho thấy vẫn còn dính chặt vào định đề “năm hình thái”. Khái niệm “nô lệ phổ biến Phương đông” của Marx cho thấy quan hệ của những người sản xuất trực tiếp, cụ thể là những nông dân Á châu, với sở hữu chủ ruộng đất Đông phương, mà ở đây Marx nhấn mạnh nông dân đồng thời “au fond” (căn bản) cũng là tài sản chiếm hữu, bởi vì tất cả ruộng đất tại các xã hội Á châu về danh nghĩa đều là tài sản Nhà nước
[32] . Các cộng đồng xóm làng chỉ là những chủ nhân của quyền sử dụng điền thổ, cho nên tất cả nông dân đều là nô lệ của Nhà nước, bị bộ máy quan liêu tước đoạt thành quả lao động thặng dư qua những phương thức áp chế phi kinh tế.
[33] Marx và Engels chỉ muốn dùng khái niệm “nô lệ phổ biến Đông phương” để biểu hiện quan hệ giữa Nhà nước chuyên chế với khối quần chúng nông dân: quan hệ “người bóc lột người” tại Đông phương.
Họ không chịu hay không dám nghiên cứu, phân tích những đặc trưng của Phương thức Sản xuất Á châu tồn tại trong xã hội Việt Nam, mà ngay từ đầu chỉ tìm cách
sắp xếp, gán ghép những đặc trưng đó vào hình thái “Xã hội Nô lệ” hoặc “Xã hội Phong kiến” mang sắc thái Á châu.
[34] Họ đã vô tình hay cố ý bỏ qua những luận điểm cảnh cáo của Marx về một sự nhầm lẫn cố ý cho rằng trật tự nông nghiêp Á châu do nhà nước quản lý nằm trong phạm trù hình thái kinh tế "Nô lệ" hay "Phong kiến".
[35]
Phương thức Sản xuất Á châu, một hình thái kinh tế xã hội đối kháng, đã tồn tại trong suốt chiều dài của lịch sử Việt Nam cho tới thời Pháp thuộc
Tất cả các đặc trưng của Phương thức Sản xuất Á châu như Marx đã phác thảo
[36] đều thấy nổi bật tại Việt Nam:
- Không tồn tại tư hữu sản ruộng đất được nhà nước bảo đảm tính cách độc lập. [37]
- Nền kinh tế tiểu nông mang đậm tính chất tự cung tự cấp dựa trên nền tảng sở hữu công cộng ruộng đất của xóm làng gắn liền với nghề thủ công gia đinh. Thực sự thì quyền tối cao duy nhất về ruộng đất là quyền vương hữu. [38]
- Vì lý do địa dư và khí hậu nông nghiệp tại Đông phương nói chung và Việt Nam nói riêng cần phải có những công trình thủy lợi quy mô. Xây dựng bảo vệ những công trình đê điều, hệ thống dẫn thủy nhập điền, chống úng thủy, vv..., tạo và tăng năng suất sản lượng nông nghiệp ở cả một khu vực rộng lớn không thể là công việc của một cá nhân hay một làng, một phủ huyện mà phải cần một trung tâm quyền lực mạnh đóng vai trò “điều hành, quản lý” (manageriale Funktion). [39]
- Chính vì những điều kiện sản xuất thiên nhiên của Việt Nam và nhu cầu tổ chức đời sống xã hội như trên đã mô tả mà một nhà nước đã ra đời với chức năng “điều hành công vụ xã hội”. Hạ tầng cơ sở của Phương thức Sản xuất Á châu tại Việt Nam đã buộc xã hội phải có một thượng tầng tương ứng: đó chính là nền chuyên chính Đông phương, hay diễn tả một cách khác, là chế độ “chuyên chế tập quyền quan liêu”. [40] Bộ máy quan liêu này trong suốt chiều dài của lịch sử Việt Nam cho tới thời kỳ Pháp thuộc đã có khả năng tước đọat những sản phẩm thặng dư của công xã nông thôn qua những phương thức áp chế phi kinh tế và mặc nhiên nắm quyền thống trị. Bộ máy quan liêu này và cấu trúc công xã nông thôn thấm đậm tính chất thị tộc [41] mà về khía cạnh kinh tế là đối kháng, nhưng về mặt chính trị xã hội lại nhượng bộ nhau ở một giới hạn nhất định. Công xã nông thôn có những “lệ làng” riêng mà nhà nước không quan tâm tới. Chỉ khi nào “gió nổi can qua” cát cứ địa phương, nhà nước sẽ thẳng tay đàn áp. Phương tiện sản xuất - ruộng đất - thuộc quyền vương hữu tuyệt đối. Nhà nước không bao giờ dung tha khuynh hướng chiếm hữu ruộng đất biến thành tư điền tư thổ mang tính triệt để.
Phương thức Sản xuất Á châu trong thời kỳ Pháp thuộc
Khoảng những thập niên đầu của chế độ thuộc địa là thời kỳ thực dân Pháp ổn định nền cai trị tại Việt Nam. Bình định về quân sự, tiến hành xây dựng một số công trình có tính cách chiến lược như thiết lập tuyến đường hỏa xa, trục lộ giao thông cho các loại xe cơ giới lên vùng cao nguyên, v.v…
Khoảng đầu thế kỷ 20, nguồn tư bản Pháp mới đổ vào Việt Nam nhưng không nhằm mục đích canh tân hóa thuộc địa mà chỉ muốn bóc lột. Chương trình đầu tư, ngân sách dành cho xây dựng hạ tầng cơ sở tại thuộc địa được duyệt y, nhưng nặng sắc thái chính trị, tài chính hơn là ý nghĩa kinh tế. Một bộ máy quan liêu quá cỡ đã được thành hình.
[42] Chế độ thuộc địa dưới thời Toàn quyền Doumer (1897-1902) được thể hiện qua hai tính chất: tạo cơ sở đầu tư cho tư bản tài chính và hình thành một tầng lớp quan lại thực dân cai trị.
Tư bản đầu tư tại Việt Nam không nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu kinh tế của thuộc địa, mà nhắm vào đạt lợi nhuận cấp thời cho các nhà đầu tư Pháp. Thực dân Pháp không quan tâm thật sự đến sự phát triển thuộc địa. Nhịp độ, định hướng phát triển một số lãnh vực như các tuyến hỏa xa, khai thác mỏ, v.v... cho thấy tính cách bất bình thường
[43] . Lợi nhuận tư bản Pháp thu được không được đầu tư trở lại tại Việt Nam, mà được chuyển ra ngoại quốc. Việt Nam trước sau chỉ là một thị trường tiêu thụ hàng hóa của chính quốc. Hàng công nghiệp của chính quốc đưa sang tiêu thụ tại Việt Nam đã gây 3 tác hại cho nền kinh tế thuộc địa:
- Qua sự cạnh tranh hàng hóa của chính quốc nền thủ công của bản địa đã phần nào bị suy thóai. [44]
- Ngăn cản sự xây dựng một nền công nghiệp hiện đại năng xuất cao với vốn của tư bản phương Tây. [45]
- Kìm hãm sự phát triển của nền công nghiệp với tư bản bản địa. [46]
Những lập luận trên cho ta thấy mặc dù nguồn tư bản Pháp chảy vào Việt Nam, nhưng phương thức sản xuất tư bản không thật sự triển khai có bài bản sâu rộng tại thuộc địa. Nó đã biến thái.
[47] Nền kinh tế tiền tệ, bước đầu xây dựng nền công nghiệp, xuất hiện những khu vực canh tác nông nghiệp rộng lớn kèm theo những ảnh hưởng tư tưởng Tây phương đã làm cho xã hội truyền thống Việt Nam xáo trộn ở một mức độ khá lớn nhưng không hoàn toàn xóa bỏ triệt để được Phương thức Sản xuất Á châu.
[48]
Về chế độ chiếm hữu ruộng đất, chỉ còn tồn tại loại công điền công thổ. Các lọai lộc điền, quân điền đã được tư hữu hóa hoặc khoán nhượng. Tuy nhiên, phương thức phát triển tư điền buổi ban sơ không thông qua bóc lột. Sự hình thành của nó thể hiện qua mấy phương cách sau đây:
- Điền thổ được nhà nước thực dân tặng cho các cộng sự viên đắc lực trong quá trình ổn định nền thống trị của thực dân Pháp tại Việt Nam.
- Ruộng đất thuộc công xã trước kia nay bọn quan lại triều đình cũ hay đám cường hào nơi xóm làng cưỡng chiếm làm tư điền.
- Đất đai được chính quyền thực dân nhượng quyền sử dụng. [49]
Diện tích công điền, công thổ của các công xã nông thôn đã bị thu hẹp lại tương xứng. Tại miền Bắc, theo thống kê chỉ còn lại 20% công điền, miền Trung 25%. Ở những công xã nông thôn ven biển tỉ lệ công điền cao hơn, đạt 77,5%.
[50]
Nhìn chung, nền tiểu nông, gắn bó với thủ công gia đình tại các công xã nông thôn miền Bắc và miền Trung, trong thời gian Pháp thuộc, vẫn đóng vai trò chủ đạo.
[51] Nền thủ công xóm làng vẫn sử dụng sức lao động nơi thôn dã là chính và phục vụ cho nền kinh tế tự cung tự cấp. Sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu xóm làng. Một phần rất nhỏ sản phẩm được đưa tới chợ do người sản xuất trực tiếp mang đi trao đổi. Người ta không bao giờ nghĩ tới kiếm nhiều lợi tức bằng cách cải tiến vật liệu hay đầu tư sức lao động nhiều hơn.
[52] Thị trường không phải là mục tiêu của sản phẩm thặng dư.
Tại các công xã nông thôn, người ta nhận thấy từ thời Pháp thuộc và sau khi hình thành một cơ chế chiếm hữu đại điền địa đã tồn tại một quan hệ sản xuất của một tầng lớp sở hữu tư điền bóc lột nông dân không được bắt nguồn từ quá khứ. Chế độ chiếm hữu ruộng đất với quy mô rộng lớn được ra đời do sự thâu tóm các loại lộc điền, quân điền, công điền công xã, sau cùng là ruộng đất của trung bần nông. Chính quyền thực dân buổi ban đầu đã ủng hộ khuynh hướng hình thành cơ chế ruộng đất này do tinh thần hình thức của luật nước Pháp và do vô ý thức.
[53] Thực tế đã cho thấy cơ cấu đại điền địa về phương diện kinh tế đã không có hiệu quả nhiều, nên về sau chính quyền Pháp dự tính dùng luật để triệt tiêu cơ chế chiếm hữu kiểu đại điền địa này và chia cho tiểu nông gia.
[54] Như thế đủ biết phương thức sản xuất kiểu đại điền địa này không đủ mạnh đẩy lùi được Phương thức Sản xuất Á châu trong thời gian Pháp thuộc. Công xã nông thôn vẫn tồn tại với cơ chế tự cung, tự cấp và cấu trúc chính trị làng xóm vẫn không thay đổi. Đại diện cho làng xóm vẫn là anh lý trưởng, thực thi những nhiệm vụ truyền thống như thu thuế và chịu trách nhiệm với chính quyền thuộc địa về các công vụ xã hội như trong quá khứ. Hội đồng hương chánh, kỳ mục và các chức sắc tại các làng xóm vẫn hoạt đông như xưa. Bộ máy quan lại của triều đình vẫn được sử dụng nhưng dưới quyền kiểm sóat của các quan thực dân.
Duy trì Phương thức Sản xuất Á châu ở giai đoạn 1945-1954
Nhìn chung, chính quyền thực dân, tầng lớp tân địa chủ, các quan lại triều đình cũ, các chức sắc nơi xóm làng đã tước đọoạt thành quả lao động thặng dư của xã hội qua các lọai thuế khóa. Nông dân bị bóc lột qua tô tức cũng như công sai cho chính quyền thuộc địa và tạp dịch cho các địa chủ lớn nhỏ. Như vậy, ta thấy trong xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc đã tồn tại song song 2 phương thức sản xuất: phương thức sản xuất thuộc địa và phương thức sản xuất Á châu đã bị suy yếu, vẫn trễ nải trong quá trình triệt tiêu để nhường chỗ cho một phương thức sản xuất với cấu trúc tư hữu hóa một cách triệt để về kinh tế nói chung và về ruộng đất nói riêng.
[55]
Vào giai đoạn đầu của cuộc trường kỳ kháng chiến, hình thái kinh tế xã hội Việt Nam vừa thoát thai khỏi chế độ thuộc địa không có một sự thay đổi nào đáng đề cập. Phương thức sản xuất vẫn mang đậm tính “bán Á châu”.
[56] Trong quá trình chiến tranh giải phóng, để động viên tầng lớp nông dân cống hiến cho cuộc Kháng chiến, một số chính sách ruộng đất đã được thực thi
[57] , đồng thời cũng nhằm tăng năng xuất sản lượng phục vụ cho cuộc chiến. Một cuộc cải cách ruộng đất thật sự triệt để chưa có thể tiến hành được vì ly do chiến cuộc.
Ở thời điểm khi cuộc kháng chiến chuyển sang giai đọan quyết định, khẩu hiệu “người cày có ruộng” được thực thi. Người nông dân canh tác đã nhận được ruộng đất phân chia . Nhưng mục tiêu thực sự của cuộc cách mạng nông nghiệp là giải phóng sức sản xuất nơi thôn xóm ra khỏi cấu trúc truyền thống, có nghĩa là cấu trúc đã suy thoái của Phương thức Sản xuất Á châu hay cấu trúc “bán Á châu”, đã không được coi trọng. Thật sự nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó chỉ muốn đạt được một tác dụng tâm lý nơi tầng lớp nông dân để họ dồn hết nhân, vật lực cho giai đoạn dứt điểm của cuộc chiến.
Phục hồi Phương thức Sản xuất Á châu sau 1954
Tiến hành một cuộc cách mạng nông nghiệp triệt để là cần thiết ở vào giai đoạn lịch sử sau 1954, nhưng phải dựa trên phân tích Mácxít chính thống về sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội.
[58]
Khi Marx và Engels nghiên cứu các xã hội nông nghiệp như Trung Hoa và Ấn Độ, hai ông đã quan tâm rất nghiêm túc tới những đặc điểm về cấu trúc điền địa của những xã hội này. Khi Marx phát hiện hai hình thức sở hữu điền địa do thực dân Anh kiến tạo tại Ấn Độ, ông đã mô tả hai kiểu tư hữu điền địa “Samindari” và “Raiatwairi” là những hiện tượng ghê tởm, nhưng đó lại là hai hình thức tư hữu ruộng đất nổi trội mà các xã hội đậm nét Phương thức Sản xuất Á châu cần phải có.
[59] Mục tiêu chính của cuộc cách mạng điền địa tại các xã hội với Phương thức Sản xuất Á châu là giải phóng lực lượng sản xuất ra khỏi sự kìm kẹp của cấu trúc Phương thức Sản xuất Á châu, nâng cao sức sản xuất nông nghiệp, chứ không phải tiền hành một cuộc đấu tranh giai cấp tại nông thôn. Theo quan điểm của Marx thì sự hình thành các giai cấp đối kháng nằm trong phạm trù bóc lột cổ điển tại các xã hội mà Phương thức Sản xuất Á châu rất mờ nhạt, thậm chí không xuất hiện.
[60] Do không thấm nhuần khái luận Phương thức Sản xuất Á châu của Marx nên đã có lầm lẫn mâu thuẫn giữa quan hệ thống trị với các tầng lớp bị trị, với mâu thuẫn kinh tế đối kháng giữa giai cấp sở hữu điền địa với tầng lớp nông dân.
[61]
Sau khi chia ruộng đất, người nông dân chỉ được hưởng quyền chủ sử dụng, còn trên danh nghĩa sở hữu vẫn thuộc nhà nước. Trong khi đó, việc thực thi khẩu hiệu “người cày có ruộng” phải nhằm mục đích tư hữu hóa triệt để, vốn là điều kiện tiên quyết để giải phóng sức sản xuất, công phá nền tảng kinh tế của Phương thức Sản xuất Á châu, nâng trật tự nông nghiệp lên một mức cao hơn trước.
[62]
Sau khi kết thúc đợt đầu tiên về cải cách ruộng đất vào năm 1955, nhà nước đã bắt đầu tiến hành dần tập thể hóa và quốc hữu hóa đất đai. Thành lập hợp tác xã nông nghiệp, và cao hơn một mức là các nông trường tập thể. Tất cả đã được kiến tạo kèm theo một chiến dịch vận động trên qui mô toàn quốc, và do không khai phóng được tư duy khi phân tích hình thái kinh tế xã hội nên đã giáo điều rập khuôn, mà hậu quả đẫm máu của cải cách ruộng đất đã quá hiển nhiên.
[63] Tập thể và công hữu hóa nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau, đặc biệt trên lãnh vực nông nghiệp, theo quan điểm của các nhà lãnh đạo Đảng, là điều kiện tiên quyết, cần thiết để kiến tạo một quan hệ sản xuất mới.
[64]
Một hạ tầng cơ sở với Phương thức Sản xuất Á châu không bị phá vỡ, ngược lại còn được phục hồi, thì nhà nước Xã hội Chủ nghĩa bắt buộc phải biến thái sang một nhà nước chuyên chế quan liêu của một thiểu số hưởng đặc ân, thống trị, bóc lột toàn bộ các tầng lớp nhân dân còn lại kể cả giai cấp công nhân. Như vậy, quá trình phục hồi Phương thức Sản xuất Á châu sẽ tạo nên một nhà nước toàn trị quan liêu và một tập thể nô lệ phổ thông như Marx đã dự phòng,
[65] và cả Lenin trước Cách mạng tháng Mười cũng đã đấu tranh tư tưởng rất nhiều. Hậu quả của sự “phục hồi Phương thức Sản xuất Á châu”, đặc biệt tại Nga nói riêng, tại Liên Bang Xô Viết trước kia nói chung, đã dẫn tới sự cáo chung của Liên Xô và theo sau là cả một khối trên thực tế đã tồn tại và được ngộ nhận là Xã hội Chủ nghĩa.
Tháng 12.2005
© 2005 talawas
[1]Ở đây không đề cập đến những nhà Mácxít thuộc hai trường phái khác nhau của Đệ nhị Quốc tế tiêu biểu như Kautsky và Bernstein. Vì Lenin ngay từ buổi ban đầu đã tiếp thu rõ nét khái luận “Phương thức Sản xuất Á châu“ của Marx và Engels, nên người viết bài này chỉ đề cập đến Lenin và những nhà Mácxit Nga cùng thời và sau khi Lenin tạ thế.
[2]Trong tác phẩm
Der Ursprung…, MEW, Bd. 21, Berlin, 1969 (
Nguồn gốc gia đình…, Toàn tập, tập 21), Engels hầu như không nhắc đến Phương thức Sản xuất Á châu. Nổi bật của tác phẩm là những ý tưởng chính Engels dựa vào ý tưởng của Morgan Lewis H. trong tác phẩm
Ancient Society or Researches…. through Barbarism to Civilisa-tion, Chicago, 1877 (Xã hội Cổ Đại hay Khảo cứu… qua những thời đại man dại đến thời văn minh) có kết hợp với một số quan điểm của Marx. Khi đề cập đến nguồn gốc nhà nước, Engels đã cố ý quên đi đặc thù „điều hành công vụ xã hội“ (gesellschaftliche Amtstätigkeit oder manageriale Funktion), nền tảng của sự thống trị chính trị nói chung và của nền chuyên chế Đông phương nói riêng. Xem Karl A. Wittfogel,
Die Orientalische Despotie, Köln/Berlin, 1962, bản chánh tiếng Anh:
Oriental Despotism (Nền Chuyên chê Đông phương), trang 479.
[3]Lenin,
Werke, Berlin, 1961/65, Bd.1, (Lenin, Toàn tập, tập 1), trang 121.
[4]Sđd., tập 3, trang 56.
[5]Sđd., tập 6, trang 43.
[6]Sđd., tập 13, trang 300+.
[7]Sđd., tập 17, trang 31.
[8]Sđd., tập 18, trang 145.
[9]Lenin,
Ausgewählte Werke, 2 Bde, Bd.1, Berlin, 1955 (Tuyển tập, 2 tập, tập 1, trang 679). Với lập luận này, Lenin đã thấm nhuần sâu sắc khái luận Phương thức Sản xuất Á châu của Marx và Engels.
[10]Lenin,
Toàn tập, sđd., tập 25 và 22.
[11]Lenin,
Vortrag über den Staat, Berlin, 1929, (Diễn văn về Nhà nước). Lenin dùng khái niệm „Chủ nghĩa Xã hội hiện đại“ (moderner Sozialismus) chứ không dùng khái niệm „Chủ nghĩa Xã hội khoa học“ (wissenschaftlicher Sozialismus) như các tiền bối đã từng phân tích và đúc kết thành hệ thống lý luận.
[12]Lenin,
Toàn tập, sđd., tập 5, trang 271, 275. Marx là một lý thuyết gia; Lenin, tuy có viết nhiều tác phẩm, nhưng nhìn chung thiên về phần chiến lược và chiến thuật.
[13]Lenin,
Sđd., tập 4, trang 350.
[14]Plechanow, G.,
Protokoll des VereinigungsParteitags der RSDAP in Stockholm 1906, Moskau, 1907, (Biên bản Đại hội Đảng thống nhất Công nhân Xã hội Dân chủ Nga, 1906 Mạc Tư Khoa), trang 116.
[15]Vào thời điểm Cách mạng tháng Mười, nước Nga mới có độ chừng 3 triệu công nhân công nghiệp (bao gồm cả công nhân lưu manh „Lumpenproletarier“?) so với dân số lúc đó khoảng chừng 140 triệu. Đến 1921, trải qua nội chiến, chỉ còn lại khoảng ¼ triệu. Chính Lenin cũng phải thú nhận rằng „giai cấp vô sản Nga đã bị xem hầu như không tồn tại nữa“ (xem: John Molyneux,
Was ist Marxismus? [Chủ nghĩa Mác là gì?]) mạng linksruck.de/zeitung/archiv. Trong khi đó, theo học thuyết của Marx và Engels giai cấp công nhân phải chiếm đa số tổng dân số (ungeheure Mehrzahl) và còn không chủ hữu một chút tài sản nào trừ sức lao động thì mới tạo cách mạng vô sản được (xem: Marx và Engels,
Das Kommunistische Manifest, 1848, [Tuyên Ngôn Cộng Sản], 1848). Lenin đã lấy giai cấp nông dân (5/6 dân số, 70% mù chữ) thay thế (Xem: W. Leonhard,
Die Dreispaltung des Marxismus [Tam hướng phân hóa chủ nghĩa Mác], Düsseldorf/Wien, 1970) và đặt vấn đề „liên minh“, chỗ dựa cho giai cấp vô sản quá ít ỏi.
[16]Xem Plechanow,
Sđd., trang 45.
[17]Lenin,
Toàn tập, sđd., tập 28, trang 401.
[18]Lenin,
Tuyển tập, sđd.,tập 2, trang 846.
[19]Điển hình là phong trào 4.5.1919 chống lại Hiệp ước Versailles mà theo đó nước Đức đã phải nhường lại tất cả những nhượng địa của họ tại Trung Hoa cho Nhật. Năm 1927, 1928, Tưởng Giới Thạch đàn áp cách mạng tại Thượng Hải, lập chính phủ tại Nam Kinh, hành quân chiếm Bắc Kinh. Năm 1923, Xô Viết Nga giúp đỡ Tôn Nhật Tiên. Stalin ủng hộ tất cả các khuynh hướng tại Trung Hoa. Xem Jacques Gernet,
Die chinesische Welt (chính bản:
Le Monde chinois [Thế giới Trung Hoa], Paris, 1972), Frankfurt am Main 1979, trang 647+, 506.
[20]Rjasanow, D., „Einleitung zu: Karl Marx: Über China und Indien“, 1925, in
Unter dem Banner des Marxismus, Moskau-Wien-Berlin, I. Jahrgang, (Dẫn nhập trong luận văn công bố các tiểu luận của Marx bàn về Ấn Độ và Trung Hoa, trong tạp chí
Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác), trang 270+.
[21]Varga, xem Inprekorr (Internationale Presse-Korrespondenz), 1925, Berlin-Wien (Trao đổi Thông tin Báo chí Quốc tế), trang 2270.
[22]Varga,
Sđd., 1928, trang 19+.
[23]Xem: Stalin
Werke, Berlin, 1973, Bd. 15, „Über dialektischen und historischen Materialismus“ in „Geschichte der Kommunistischen Partei der Sowjetunion“ – kurzer Lehrgang (Stalin Toàn tập, tập 15, “Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử“ – Tài liệu chỉnh huấn ngắn hạn).
[24]Khái luận Phương thức Sản xuất Á châu có khả năng tạo cho các nhà lãnh đạo quốc gia các phong trào giải thực nhận thức được chủ nghĩa tư bản với vai trò „Cứu rỗi“ (Messias) mang tính tích cực cho các quốc gia nằm trong khu vực Phương thức Sản xuất Á châu đang trễ nải trên đường phát triển tiến hóa. Do đó, có thể sẽ bất tuân những chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản hoặc thậm chí ly khai. Về vai trò „Cứu rỗi“ của chủ nghĩa tư bản, xem
Die britische Herrschaft in Indien (Sự thống trị của Anh quốc tại Ấn Độ), Marx quan niệm rằng chủ nghĩa tư bản phải giải phóng những xứ còn nửa man dại nửa văn minh ra khỏi cái gông cùm khởi thủy (primäres Joch) mang tính hoang dại như „phủ phục trước con bò, giết người để cúng tế như ở Ấn Độ“, v.v… Xem: Marx,
Die künftigen Ergebnisse der britischen Herrschaft in Indien (Những hệ quả tương lai của sự thống trị Anh tại Ấn Độ), sđd, tập 9.
[25]Xem: Wittfogel,
Sđd., trang 501.
[26]Xem: Marx, D
ie künftigen Ergebnisse… (Những hệ quả…), sđd, trang 221. Sau khi phân tích lịch sử tiến triển của Ấn Độ và khẳng định chỉ là những quá trình tiếp nối của các cuộc thôn tính lẫn nhau mà hình thái kinh tế xã hội không hề thay đổi, Marx đã nói vấn đề đặt ra ở đây không phải là xem người Anh có quyền đi xâm chiếm Ấn Độ hay không, mà là lựa chọn người nào, Thổ, Nga, Ba Tư, hay Anh thích hợp hơn cho một cuộc cách mạng xã hội mang ích lợi cho Ấn Độ đứng trên quan điểm tiến hóa của nhân loại.
[27]Cuối năm 1927 kiến thức về Phương thức Sản xuất Á châu đã được thể hiện trong Đề cương Nông nghiệp của Đảng Cộng Sản Trung Hoa, được Hội nghị Ban chấp hành Trung ương tháng Mười Một thông qua. Nhưng đến Đại hội Đảng lần thứ sáu được tổ chức tại Mạc Tư Khoa vào khoảng tháng 6, 7.1928 thì khái luận Phương thức Sản xuất Á châu đã bị gạt bỏ và phải nhường chỗ cho luận điểm „quan hệ ruộng đất phong kiến“. Hiển nhiên đây là một sự áp chế của Đệ Tam Quốc tế. Xem: Felber, R. „Asiatische oder feudale Produktionsweise in China“ in
Zeitschrift für Geschichtswissenschaft 19. Jahrgang, Heft 1,Berlin, 1971 („Phương thức sản xuất Á châu hay Phong kiến“, trong Tạp chí Khoa học Lịch sử - Năm thứ 19, cuốn 1) trang 79+.
[28]Stalin,
Toàn tập, tập 15, sđd, trang 156.
[29]Xem: Marx,
Grundriß der Politischen Ökonomie (Khái quát Kinh tế Chính trị luận), Frankfurt/Wien, tr. 376.
[30]Xem: Marx,
Sđd., tr. 392, 395; Marx triển khai rất rõ từ chế độ công hữu tài sản bộ tộc phát triển tới chế độ tư hữu tài sản - chiếm hữu nô lệ và phong kiến - hình thái kinh tế Phương thức Sản xuất Á châu phát triển rất trễ nải do sự gắn bó quá bền chặt giữa tiểu nông và thủ công gia đình.
[31]Nguyễn Lương Bích, Đào Tử Khải, Lê Trọng Khanh, v.v..., Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, Hà Nội, 10.1960. Các sử gia này khẳng định là lịch sử Việt Nam có trải qua thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nhưng theo Trần Ngọc Vương trong tác phẩm
Văn học Việt Nam – Dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998, trang 15, thì „giới sử học hầu như nhất trí rằng ở Việt Nam không tồn tại hai phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ và tư bản chủ nghĩa.“. Phan Huy Lê trong Tạp chí
Cộng sản, Hà Nội, 10.1982, trang 30+, cho rằng lịch sử Việt Nam đã kinh qua 4 hình thái kinh tế xã hội: xã hội cộng sản nguyên thủy không giai cấp, có giai cấp là phương thức sản xuất Á châu, phong kiến, thực dân. Và hiện nay là hình thái thứ 5. Thực ra đây cũng là một kiểu phân định giai đoạn lịch sử nhồi nhét vào khung „năm hình thái“.
[32]Xem: Marx,
Toàn tập, sđd., tập 9, trang 218; Marx coi nông dân cũng như đất đai; Trần Ngọc Vương mô tả là „công cụ biết nói“,
Sđd., trang 24, 26, 32.
[33]Xem: Trần Ngọc Vương,
Sđd., trang 32+.
[34]Xem: Marx,
Sđd., „Die Deutsche Ideologie„ (Hệ tư tưởng Đức), tập 3, trang 27.
[35]Xem: Wittfogel,
Sđd., trang 465.
[36]Xem: Trương Quang Tiến, „
Lược khảo khái luận "Phương thức Sản xuất Á châu" của Karl Marx và Friedrich Engels»
, mạng talawas.org, 8.10.2005.
[37]Xem: Trần Ngọc Vương,
Sđd., trang 30+. Tác giả đã dẫn giải lý do không hình thành tầng lớp địa chủ và lãnh chúa, diện tư điền quá nhỏ, không đáng kể. Xem: Nguyễn Khắc Viện,
Histoire du Vietnam,Paris, 1974, (Lịch sử Việt Nam) trang 26+; cùng tác giả,
Experiences vietnamiennes, Paris, 1970, (Kinh nghiệm Việt Nam), tr. 26, 77. Lê Thành Khôi,
3000 Jahr Vietnam, (3000 năm Việt Nam), München, 1969, trang 171, 142, 312; Xem
Lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Tập I, Hà Nội, 1971, trang 154+.
[38]Trần Ngọc Vương,
Sđd., trang 32, 26. Tác giả mô tả „vua chuyên chế là địa chủ lớn nhất“; Lộc điền và quân điền do triều đình quản lý và phân phối. Các công xã nông thôn chỉ quản lý, thay mặt Vương quyền chia công điền, theo qui định từng thời kỳ; Xem
Lịch sử Việt Nam, sđd., trang 17.
[39]Xem: Nguyễn Khắc Viện,
Sđd., trang 25. Xem: Pierre Gourou
Les paysans du Delta Tonkinois, Paris, 1936 (Nông dân châu thổ Bắc bộ), trang 55-65, 74+.; Xem: Cao Xuân Dục
Đại Nam dư địa chí ước viên, quyển 6, trang 70-81 xác định đê đập đã có từ khoảng thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên ở vùng Sơn Tây và Hưng Hóa. Theo Nguyễn Khắc Viện,
Sđd., các triều đại Lý Lê, Trần đều có xây dựng các hệ thống đê đập để ngăn lũ lụt. Xem: Lê Thành Khôi,
Sđd.,; Xem
Lịch sử Việt Nam, sđd, trang 264.
[40]Xem: Trần Ngọc Vương,
Sđd., trang 17, Xem
Lịch sử Việt Nam, sđd, trang 269.
[41]Trần Ngọc Vương mô tả tính chất huyết tộc tại các công xã nông thôn Việt Nam. Nó làm giảm thiểu yếu tố chuyên chế của bộ máy quan liêu,
Sđd., trang 20+.
[42]Xem: Lê Thành Khôi,
Sđd., trang 367; Sử gia này cho biết trước thế chiến thứ hai có khoảng 4700 công chức Pháp tại Việt Nam so với dân số lúc đó khoảng 25 triệu, tại Ấn Độ cùng số lượng công chức Anh so với dân số thời đó 350 triệu.
[43]Xem: Lê Thành Khôi,
Sđd.; Nguyễn Khắc Viện,
Sđd. Tuyến hỏa xa Sài gòn - Hà Nội phục vụ cho mục đích quân sự nhiều hơn là mục đích kinh tế như những tuyến khác, thí dụ tuyến Sài Gòn - Đà Lạt hay Phan Rang - Đà Lạt chỉ nhằm phục vụ những dịch vụ nghỉ mát của các quan thực dân.
[44]Xem: Chesneaux, Jean,
Geschichte Vietnams (bản gốc:
Contribution a l’ histoire de la nation vietnamienne) Berlin, 1963, trang 188. Sự phá sản của ngành dệt tại Phát Diệm. 2500 khung cửi chỉ còn họat động 2 tháng trong năm.
[45]Sau khoảng 8 thập niên đô hộ những cơ sở công nghiệp đếm được trên đầu ngón tay như: Nhà máy xay gạo tại Chợ Lớn, nhà máy rượu, nhà máy đường, nhà máy bia, 2 nhà máy dệt tại Nam Định và Hải Phòng, nhà máy giấy tại Bắc Ninh, nhà máy xi măng tại Hải Phòng, nhà máy thủy tinh tại Sài Gòn và Hải Phòng. Những cơ sở công nghiệp này phải suy thoái, bởi vì chúng không được làm ảnh hưởng tới thị truờng tiêu thụ hàng hóa của Pháp. Xem: Chesneaux,
Sđd.,, trang 190.
[46]Hãng Messageries Sauvages của Pháp đã làm cho hải đội thương thuyền của nhà đại tư sản Bạch Thái Bưởi họat động trên sông Hồng và ven biển phải giải thể. Xem: Chesneaux,
Sđd., trang 201+.
[47]Xem: Pierre Philippe Rey,
Colonialisme, neo-cololialisme et transition au capitalisme, Exemple de la “Comilog” au Congo-Brazzaville, (Chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa thực dân mới và quá độ tới chủ nghĩa tư bản, điển hình tại Congo-Brazzaville), Paris, 1971. Sau khi phân tích sâu sắc tính chất của phương thức sản xuất tư bản tại các xứ thuộc địa, tác giả đã đưa ra khái niệm „ Mode de production coloniale“ (Phương thức sản xuất thuộc địa).
[48]Chesneaux dẫn giải sự song hành của khu vực sản xuất hiện đại (hầm mỏ, hỏa xa, đồn điền, v.v...) và khu vực sản xuất truyền thống - nền kinh tế tiểu nông gắn bó với thủ công gia đình nơi làng xóm - mà ảnh hưởng của khu vực này cũng không nhỏ, vì thế nên Chesneaux đã khẳng định Phương thức Sản xuất Á châu đã có thể tồn tại trong thời ký Pháp thuộc,
Sđd., trang 198.
[49]Xem: Henry,Yves,
Economie agricole de l’Indochine, Hanoi, 1932. Tác giả cho biết tài liệu thống kê được trong những năm 1929, 1930 và 1931, diện tích đại điền địa chiếm 20% tổng diện tích ruộng đất miền Bắc Việt Nam, 10% tại miền Trung. Con số đại địa chủ miền Bắc là 180, chiếm 0,02%; miền Trung 50, chiếm 0,01% tất cả các sở hữu chủ ruộng đất của mỗi miền.
[50]Xem: Henry,Yves,
Sđd.[51]Xem: Gourou, Pierre,
Sđd., trang 10, 514+.
[52]Gourou,
Sđd., trang 10.
[53]Gourou,
Sđd.,trang 362+; Có thể đây chính là lọai hình tư hữu ruộng đất „Samindari“ và „Raiatwairi“ tại Ấn Độ mà Marx đã đề cập tới với sự biểu đồng tình trong
Die künftigen Ergebnisse…. (Những hệ quả tương lai…),
Sđd., tr. 221.
[54]Gourou,
Sđd., trang 364.
[55]Xem Trần Ngọc Vượng,
Sđd., trang 36. Tác giả đã nhìn nhận “hơn tám mươi phần trăm cư dân vẫn sống đời sống kinh tế tiểu nông cổ truyền với sức sản xuất vẫn chưa có đột biến về chất lượng”. Phương thức sản xuất phong kiến còn đang ở tình trạng manh nha; thậm chí còn bị làm cho trễ nải trên con đường phát triển. Xem: Gourou,
Sđd., trang 364. Trên báo
Phụ nữ tân văn ngày 29.11.1934, Phan Khôi khẳng định xã hội Việt Nam không tồn tại chế độ phong kiến qua bài báo của ông “Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến”.
[56]Trường Chinh trong tác phẩm
la voie tracee par Karl Marx, Hà Nội, 1969, (Đi theo con đường của Karl Marx đã vạch), trang 39, đã khẳng định xã hội Việt Nam là bán phong kiến. (Xem dẫn giải chú thích số 23). Mặc dù có thể Trường Chinh đã nghĩ tới khái luận “Phương thức Sản xuất Á châu” hay “bán Á châu“ của Marx, nhưng tư duy khai phóng chưa thật chín mùi nên chỉ nhắc qua cho có lệ mà thôi,
Sđd., tr. 21.
[57]Xem: Chesneaux, J.,
Sđd., tr. 313+; Nguyễn Khắc Viện,
Sđd., tr. 197.
[58]Phân tích Mácxít đòi hỏi phải có kiến thức và thấm nhuần khái luận Phương thức Sản xuất Á châu của Marx (Xem: «
Lược khảo khái luận "Phương thức Sản xuất Á châu" của Karl Marx và Friedrich Engels») và phải có một tư duy khai phóng, đọan tuyệt với định đề “năm hình thái kinh tế xã hội” của Stalin. Phan Huy Lê tuy có đề cập tới Phương thức Sản xuất Á châu có tồn tại ở Việt Nam nhưng chỉ là khái niệm thay thế cho “Chế độ nô lệ Á châu” theo cách lập luận của Nguyễn Lương Bích,
Sđd.[59]Marx và Engels,
Die künftigen Ergebnisse… (Những kết quả tương lai…),
Sđd., tr. 221. Ngược với đòi hỏi của Marx phải triệt tiêu lọai tư hữu tiểu nông tại phương Tây, ông lại cho rằng ở các xã hội nằm trong phạm trù Phương thức Sản xuất Á châu việc kiến tạo và củng cố loại tư hữu tiểu nông là cần thiết, bởi ở xã hội với Phương thức Sản xuất Á châu hầu như không tồn tại cấu trúc tư hữu ruộng đất theo nghĩa triệt để. Hình thành một cấu trúc tư hữu sản ruộng đất là điều kiện tiên quyết để các xã hội với Phương thức Sản xuất Á châu thóat ra khỏi sự trì trệ (Stagnation) nâng hình thái kinh tế lên một trật tự cao hơn.
[60]Do xác định hình thái kinh tế xã hội sai lầm - xã hội thuộc địa nửa phong kiến - nên đã đặt mục đích chính của cải cách ruộng đất là đấu tranh giai cấp do đó đã phạm những sai lầm rất nặng như các nhà lãnh đạo Việt Nam đã từng thú nhận. Xem: Nguyễn Khắc Viện,
Experiences vietnamiennes,
Sđd., tr. 77; Võ nguyên Giáp đã thú nhận sự cường điệu giai cấp địa chủ trong cải cách ruộng đất trong diễn văn đọc trước công chúng ngày 29.10.1956, trích trong
Experiences vietnamiennes,
Sđd., tr. 91. Lê Hồng Hà khẳng định tại Việt Nam không có chế độ phong kiến. Xem:
Mấy suy nghĩ về tiền đồ phát triển đất nước Việt Nam trong đầu thế kỷ XXI, mạng Ykien.net ngày 11.12.05, tiểu mục 15.
[61]Xem: Nguyễn Khắc Viện,
Sđd., tr. 89.
[62]Xem Bucharin, N., „Die Neue Ökonomische Politik und unsere Aufgaben“ (Đường lối Kinh tế Mới và nhiêm vụ của chúng ta), Tạp chí
Bolschewik, 1.Juni 1925. Khác với Lenin, năm 1925 Bucharin, một người Bolschewik cấp lãnh đạo thời Lenin, đã dề nghị phát triển hình thức tư hữu cá thể nông nghiệp tại Nga. Ông ta góp ý xóa bỏ những quy chế kìm hãm sự tăng trưởng thịnh vượng của các cơ sở phú nông. Với các nông dân chúng ta phải kêu gọi: hãy phát triển bành trướng các cơ sổ nông nghiệp, hãy làm giàu thật nhiều và hãy gạt bỏ những biện pháp áp chế. Nghe thì thấy có vẻ ngược đời, nhưng chúng ta phải khai thác thúc đẩy phát triển những cơ sở phú nông thịnh vượng để tương trợ những tầng lớp bần và trung nông.
[63]Cùng thời điểm Trung Hoa phát động phong trào „Nhảy Vọt“ và „Thành lập Công Xã“ 1958, Nghị quyết Trung Ương lần thứ 14 vào tháng 11.1958 của Đảng Lao Động Việt Nam cũng gấp rút thúc đẩy hoàn thành quá trình hợp tác xã và tập thể hóa nông nghiệp. Năm 1957, khoảng 0,03% số hộ nông dân vào hợp tác xã. Đến năm 1958, tỷ lệ là 4,74%. Sau Đại hội Đảng Lao Động 1960, số hộ nông dân vào hợp tác xã nhảy vọt tới 85,83%. Xem: Võ Nhân Trí,
Croissance economique de la Republique Democratique du Vietnam, (Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa) Hanoi, 1967, tr. 285. Xem: Freyberg, Jutta/ Steinhaus,Kurt,
Dokumente und Materialien der vietnamesischen Revolution (Tài liệu và Tư liệu về cuộc Cách mạng Việt Nam), Frankfurt/a.Main, 1969, tr. 39. Quá trình tập thể hóa này không tránh khỏi không áp dụng những biện pháp áp chế. Xem Nguyễn Khắc Viện: „Experiences…“ , s.đd., tr. 116.
[64]Xem: Lê Duẩn,
Die vietnamesische Revolution (Cách Mạng Việt Nam), Berlin, 1971, tr. 79. Trong khi sức sản xuất chưa được giải phóng ra khỏi sự trì trệ của Phương thức Sản xuất Á châu, thì quan hệ sản xuất đã được cải tạo do áp đặt. Về phương diện lý luận Mácxít quan điểm này đã không biện chứng. Marx quan niệm rằng sức sản xuất phát triển sẽ quyết định quan hệ sản xuất. Tại các đô thị lớn phát động chiến dịch đánh tư sản. Phong trào quốc doanh hóa và hợp tác xã (từ cắt tóc đến cửa hàng ăn uống quốc doanh) được tiến hành cưỡng bức trên phạm vi toàn quốc.
[65]Marx không mô tả rõ, nhưng ông đã dao động khi Bakunin, một lãnh tụ huynh huớng vô chính phủ, đả kích luận thuyết của Marx về Chủ nghĩa Xã hội Nhà nước. Xem: Wittfogel,
Die orientalische Despotie, sđd., tr. 482. Một khi Nhà nước độc quyền phương tiện sản xuất, sở hữu chủ toàn bộ đất đai của quốc gia, sẽ đòi hỏi phải có một bộ máy quan liêu quy mô. Dựa trên những đặc thù của Phương thức Sản xuất Á châu: truyền thống huyết tộc, ảnh hưởng tư tưởng Khổng giáo, tầng lớp quan liêu có nghiệp vụ và tầng lớp có dính dáng huyết tộc chứa đựng tranh chấp, đưa đến những yếu tố phân hóa thành giai tầng có quyền lực (Nomenklatura) và bộ phận có quyền uy (bürokratischer Gentry). Mâu thuẫn nội bộ tầng lớp quan liêu sẽ dẫn tới hậu quả tất nhiên chuyên chế, toàn trị.