Lời nói đầu
Đây là cuốn sách nhập môn và đồng thời cũng là lời ai điếu cho chủ nghĩa cộng sản. Vì rõ ràng rằng nếu một lúc nào đó trong tương lai, việc tìm kiếm một sự bình đẳng hoàn toàn, một tư tưởng từ thời cổ đại đã thúc đẩy các chiến sĩ đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản không tưởng, có được tái tục thì cơ sở của những sự tìm kiếm như thế sẽ không phải là chủ nghĩa Marx-Lenin nữa. Chủ nghĩa này đã không còn một chút hấp dẫn nào, ngay cả những người cộng sản thời hậu Xôviết ở Nga cũng như tại nhiều nước khác, trong các chiến dịch tranh cử, đã phải thay nó bằng cương lĩnh dân chủ xã hội pha trộn thêm màu sắc dân tộc chủ nghĩa. Vì thế hôm nay chúng ta đã có đủ điều kiện lập bảng tổng kết cái phong trào đã từng giữ thế thượng phong trong suốt thế kỉ XX và xác định xem liệu sự sụp đổ của nó có phải là hậu quả của những sai lầm của một số người nào đó hay đây là kết quả của những khiếm khuyết trong chính bản chất của nó.
Từ chủ nghĩa cộng sản xuất hiện ở Paris vào năm 1840, liên quan đến ba khái niệm khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau: lí tưởng, cương lĩnh hành động và chế độ nhận lãnh trách nhiệm biến lí tưởng thành hiện thực.
Lí tưởng bình đẳng tuyệt đối (thí dụ trong một số trước tác của Platon) đòi hỏi cá nhân phải tan biến vào tập thể. Vì bất bình đẳng về mặt xã hội và kinh tế có nguyên nhân chủ yếu từ sự bất bình đẳng về tài sản, muốn bình đẳng thì từng người phải từ bỏ “của tôi” và “của anh”, nói cách khác từ bỏ tư hữu. Lí tưởng này có nguồn gốc lịch sử lâu đời và thỉnh thoảng lại tái xuất hiện trong lịch sử tư tưởng phương Tây, kể từ thế kỉ thứ VII trước công nguyên cho đến tận ngày nay.
Cương lĩnh cộng sản xuất hiện vào khoảng giữa thế kỉ XIX và gắn bó trước hết với tên tuổi của Karl Marx và Friedrich Engels. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848, Marx và Engels viết: “những người cộng sản có thể tuyên bố học thuyết của mình bằng một câu thôi: bãi bỏ tư hữu”. Engels khẳng định rằng bạn ông đã đưa ra một lí thuyết khoa học chứng minh tính tất yếu của sự cáo chung của những xã hội dựa trên khác biệt về mặt giai cấp.
Mặc dù trong lịch sử loài người lí tưởng cộng sản cũng đã đôi ba lần được đưa ra thực hiện, nhưng sử dụng toàn bộ sức mạnh của nhà nước cho một thí nghiệm như thế chỉ mới được thực hiện lần đầu tiên ở nước Nga từ năm 1917 đến năm 1991. Vladimir Lenin, người sáng lập chế độ đó, cho rằng đấy là một xã hội bình đẳng, không còn tư hữu, sinh ra nhờ chuyên chính vô sản, một nền chuyên chính gánh trên vai trách nhiệm bãi bỏ tư hữu và đặt nền móng cho con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Chúng ta sẽ theo dõi chủ nghĩa cộng sản theo đúng trình tự như thế vì như thế là hợp lôgích và vì chủ nghĩa này cũng xuất hiện theo trình tự: đầu tiên là lí tưởng, sau đó là kế hoạch thực hiện và cuối cùng là biến lí thuyết thành hiện thực. Nhưng chúng ta sẽ quan tâm chủ yếu đến việc thực hiện bởi vì tự bản thân lí tưởng và cương lĩnh là những thứ vô hại, trong khi việc thực hiện chúng, nếu lại sử dụng toàn bộ sức mạnh của nhà nước, có thể dẫn tới những hậu quả không thể lường được.
I. Lí thuyết và cương lĩnh của chủ nghĩa cộng sản
Tư tưởng về một xã hội phi giai cấp xuất hiện lần đầu tiên tại Hy Lạp cổ đại. Hy Lạp cổ đại là nước đầu tiên trên thế giới công nhận quyền tư hữu ruộng đất, ruộng đất được coi là hàng hoá vì vậy cũng là nơi đầu tiên đối mặt với sự bất bình đẳng xã hội có nguồn gốc từ quyền tư hữu. Hesiodos, một người đương thời với Homer (thế kỉ thứ VII trước công nguyên), trong trường ca Lao động và ngày tháng đã ca ngợi “Thời hoàng kim” huyền thoại, khi con người chưa “nhiễm thói xấu là chạy theo đồng tiền”, khi của cải vẫn còn dư thừa và mọi người đều được quyền sử dụng như nhau, nhân loại sống trong một nền hoà bình vĩnh viễn. Đề tài “Thời hoàng kim” còn trở lại trong tác phẩm của hai thi sĩ người Roma là Vergilius và Ovidius; Ovidius viết về những giai đoạn khi con người chưa biết đến các khái niệm như “cột mốc biên giới và hàng rào”.
Lí tưởng cộng sản lần đầu tiên được Platon định danh về mặt lí luận trong các trước tác của mình. Trong tác phẩm Cộng hoà, thông qua Socrates, Platon khẳng định rằng bất hoà và chiến tranh có nguồn gốc từ sở hữu:
“Sự khác nhau như thế thường xảy ra do bất đồng về những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của tôi’, ‘của anh ta’ và ‘không phải của anh ta’… Chả lẽ việc xây dựng một nhà nước, nơi đa số người cùng sử dụng những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của’ đối với cùng một loại đồ vật không phải là cách làm tốt nhất hay sao?”
Trong các phẩm Các qui luật, Platon còn dự báo một xã hội, nơi người ta không những sở hữu chung tất cả, kể cả vợ con mà còn:
“riêng tư và tư hữu bị loại bỏ khỏi đời sống, những thứ về bản chất là riêng, thí dụ như mắt và tay cũng trở thành của chung và ở mức độ nào đó người ta cùng nhìn, cùng nghe và cùng hành động, tất cả mọi người cùng ca tụng hay cùng lên án, cùng vui cùng buồn vì cùng những lí do như nhau”
Aristotle, học trò của Platon, lại ngờ rằng cái Utopia cộng sản đó sẽ không đem lại hoà bình vì một lí do đơn giản là khi cùng sở hữu thì người ta dễ sinh ra cãi cọ hơn là tư hữu. Hơn nữa, ông khẳng định rằng nguồn gốc của các tranh chấp không nằm ở sự tư hữu mà ở ước muốn được sở hữu: “không cần cào bằng sở hữu mà phải san bằng ước muốn của con người”.
Nhiều người có quan niệm lầm lẫn rằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chỉ là kiến giải mang tính thế tục, hiện đại, của Thiên chúa giáo mà thôi. Nhưng sự khác nhau, như Vladimir Sovoliev đã chỉ rõ, nằm ở chỗ nếu Chúa Giêsu chỉ kêu gọi các đồ đệ của ông từ bỏ sở hữu của chính họ thì các nhà xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa lại muốn tước đoạt sở hữu của người khác. Hơn nữa, Chúa Giêsu chưa bao giờ kêu gọi người ta phải sống trong nghèo đói, ông chỉ nói rằng người nghèo thì dễ được cứu chuộc hơn mà thôi. Câu nói nổi tiếng của Thánh Phao Lồ về tiền bạc cũng hay bị người ta trích dẫn sai: ông không nói rằng “tiền là nguồn gốc của tội lỗi” mà cho rằng nguồn gốc của tội lỗi là “tình yêu đối với tiền bạc”, nói cách khác, nguồn gốc của tội lỗi là lòng tham. Thánh Augustine từng hỏi: “Vàng là vật không tốt sao?” và ông đã trả lời: “Không, vàng là tốt. Nhưng kẻ ác dùng vàng để làm điều ác, còn người thiện thì dùng vàng vào việc thiện”.
Những người sáng lập nhà thờ Thiên chúa giáo và các nhà thần học sau này đều có quan điểm thực dụng đối với vấn đề sở hữu. Theo Thánh Augustine, xã hội không có sở hữu chỉ có thể tồn tại trên Thiên đường, chỉ tồn tại trong “Thời hoàng kim”, do mắc tội tổ tông mà loài người đã đánh mất. Vì sự thiếu hoàn thiện của chính con người cho nên sở hữu là phù hợp với đạo lí nếu người ta sử dụng nó một cách thông minh và cho những mục đích từ thiện. Nhà thờ Thiên chúa giáo không những không cổ xuý cho sự nghèo đói mà còn từ bỏ, thậm chí săn đuổi những kẻ cố tình làm như thế. Những người sáng lập đạo Tin lành, đặc biệt là Calvin, coi giầu có là hạnh phúc và dấu hiệu của lòng nhân từ của Chúa.
Nhưng quan niệm về “Thời hoàng kim” luôn luôn hiện diện trong tâm trí người châu Âu. Các nhà hàng hải thời xa xưa khát khao tìm kiếm không chỉ eldorado [1] và các vùng đất huyền thoại khác, nơi vàng bạc nằm đầy dưới chân chẳng khác gì bụi đất mà còn khát khao tìm kiếm những hòn đảo thiên đường trên trái đất, truyền thuyết về những vùng đất như thế từng lưu hành ở châu Âu thời Trung cổ. Và, khi lần đầu tiên cập cảng châu Mĩ, nhìn thấy những người da đỏ trần truồng thì họ tin chắc rằng đã thành công: không có cảm giác xấu hổ không phải là dấu hiệu của cuộc sống trước khi phạm tội tổ tông đó ư? Nếu quả thật các thổ dân đó sống trong thiên đường thì nhất định họ không có khái niệm gì về sở hữu. Khi quay trở về, Columbus thông báo rằng thổ dân ở đấy là những người “chất phác” và “nếu hỏi xin thì không bao giờ họ từ chối chia sẻ những thứ họ có; ngược lại, ai họ cũng mời”. Ông không rõ họ có khái niệm về tư hữu hay không, nhưng nhận xét thêm: “Tất cả mọi người đều dùng chung, đặc biệt nếu nói về thức ăn”.
Những cảm giác ngây thơ đầu tiên về người da đỏ châu Mĩ mau chóng nhường chỗ cho những đánh giá thực tế hơn, nhưng chúng đã kịp giúp tạo ra một nền văn chương không tưởng, một phần không thể tách rời của tư tưởng phương Tây từ đó đến nay. Vùng đất Utopia đặc trưng nhất được mô tả trong tác phẩm cùng tên của Thomas More, xuất bản năm 1516, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, chính là lấy cảm hứng từ báo cáo của Columbus và các nhà thám hiểm khác. Nhưng đấy không phải là vùng đất tốt đẹp như ngày nay ta quan niệm về Utopia, đấy là một xã hội rất nghiêm khắc và tuân theo các qui định rất khắt khe, tất cả mọi người đều mặc như nhau, đều sống trong những ngôi nhà giống nhau, không được đi đâu nếu chưa có giấy thông hành, không được tự ý thảo luận các vấn đề xã hội, hình phạt có thể là tử hình. Tiền bị bãi bỏ, vàng bạc được dùng để chế tạo ra những cái bô dùng vào ban đêm. Đề tài chung của những tác phẩm không tưởng sau này, cũng như của More, đều xoay quanh việc thiếu vắng sự giàu sang cá nhân, cũng như việc sử dụng bạo lực của xã hội đối với cá nhân con người: cả trong lí thuyết lẫn trên thực tế, Utopia nghĩa là cá nhân phải khuất phục chính quyền, con người buộc phải làm cái mà nếu được tự do anh ta có thể không muốn làm.
Cần phải nói rằng lí tưởng về một “Thời kì vàng son” mà không có tư hữu chỉ là một huyền thoại, một sản phẩm của ước mơ chứ không phải là sản phẩm của trí nhớ vì các nhà sử học, các nhà khảo cổ học và các nhà nhân chủng học đã thống nhất rằng chưa ở đâu và chưa bao giờ có chuyện tư liệu sản xuất từng là của chung. Tất cả các sinh vật sống, từ những thực thể đơn giản nhất cho đến những sinh vật phát triển nhất đều cần phải kiếm thức ăn, mà như thế, phải có quyền sở hữu không gian sinh tồn. Trong hàng ngàn năm, trước khi định cư và chuyển sang chăn nuôi và làm nông nghiệp, con người đã sống bằng săn bắn và hái lượm, các nhóm người gắn bó với nhau bằng quan hệ họ hàng đã khẳng định độc quyền chiếm hữu của mình trên những vùng đất nhất định, họ luôn luôn xua đuổi hoặc giết hại những kẻ ngụ cư. Yêu sách về sở hữu càng căng thẳng thêm khi người ta chuyển sang sản xuất nông nghiệp, tức là cách đây khoảng mười ngàn năm về trước, vì làm đất là một công việc nặng nhọc và không thể có kết quả tức thời.
Trong những nền văn minh cổ đại, cách đây khoảng năm ngàn năm về trước, tại Ai-Cập và Lưỡng Hà, ruộng đất là tài sản của triều đình. Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng Israel cổ đại là nước đầu tiên có sở hữu tư nhân về ruộng đất. Chúa Trời trong Cựu Ước nguyền rủa bất cứ kẻ nào dám di chuyển các phiến đá ngăn cách, trong Kinh Cựu Ước còn có mấy cuốn có những đoạn nói về các gia đình hoặc một số người có ruộng đất và bãi chăn thả riêng. Nhưng việc sở hữu ruộng đất ở Israel cổ đại còn bị hạn chế bởi một loạt qui ước về tôn giáo và chủng tộc. Chỉ ở Hy Lạp cổ đại là từ xa xưa đất đai đã là tài sản riêng. Nói cách khác, không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng ở một thời rất xa nào đó đã từng có những xã hội không biết đến “cột mốc biên giới và hàng rào”, chưa từng có xã hội nào không công nhận “của tôi” và “của anh”.
Bằng cách đưa ra quan niệm về bản chất của con người, các nhà tư tưởng thời Khai sáng đã có đóng góp to lớn vào lí thuyết của chủ nghĩa xã hội. Tại phương Tây người ta thường quan niệm rằng con người gồm có hai phần là thể xác và tinh thần, do Chúa Trời sáng tạo nên; người ta tin rằng tinh thần đã mang sẵn các tư tưởng và giá trị ngay từ khi lọt lòng mẹ. Đấy là quan điểm bảo thủ vì nó khẳng định sự bất biến của bản chất con người: bản chất của một người đã và sẽ mãi mãi như thế. Nói cách khác nếu một người nào đó có máu tham thì anh ta sẽ mãi mãi là một người tham lam.
John Locke, triết gia người Anh đã phản đối quan điểm như thế; trong tác phẩm Kinh nghiệm về nhận thức của con người, ông đã phủ nhận sự tồn tại của “các tư tưởng bẩm sinh”. Theo Locke, trí não (hay tâm hồn) khi mới sinh ra vốn là một tờ giấy trắng: tất cả các tư tưởng và giá trị đều có nguồn gốc từ kinh nghiệm. Lí thuyết này cho rằng bản chất của con người là mềm dẻo, không cố định, vì vậy có thể giáo dục được, trong khuôn khổ mà tính thiện của họ - các nhà triết học công nhận rằng bản chất con người vốn là thiện – có thể lấn lướt được thói ích kỉ. Claude Adrien Helvetius, một tư tưởng gia người Pháp thế kỉ XVIII còn chứng minh rằng việc giáo dục đúng cách và pháp luật không những có thể tạo điều kiện mà còn bắt buộc người ta đạt được phẩm hạnh hoàn hảo. Lí thuyết về tâm lí học cực kì đáng ngờ này đã trở thành di sản của chủ nghĩa tự do phóng khoáng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; các chủ nghĩa này, ở những mức độ khác nhau, đều dựa vào giáo dục và/hoặc bạo lực nhằm đạt được các mục đích của mình. Ở một số khía cạnh nào đó, nhà nước cộng sản do Lenin thành lập ở nước Nga vào tháng 11 năm 1917 chính là một cuộc thí nghiệm vĩ đại trong việc giáo hoá xã hội, theo mô hình của Helvetius nhằm tạo ra con người hoàn toàn mới, con người đã giải thoát khỏi những thói hư tật xấu cũ, kể cả ước muốn tìm kiếm sự giầu sang.
Các nhà tư tưởng cấp tiến người Pháp thế kỉ XVIII là những người đầu tiên đưa ra cương lĩnh cộng sản, kêu gọi bãi bỏ tư hữu vì đấy là nguyên nhân của mọi tai hoạ trên đời. Morelly, trong bản luận văn Le Code de la Nature, đã viết như sau:
“Thói xấu duy nhất ở trên đời mà tôi biết chính là lòng tham, tất cả những cái khác, dù có gọi là gì thì cũng chỉ là hình thức hoặc mức độ của nó mà thôi… Hãy phân tích thói háo danh, tính kiêu ngạo, giả dối, đạo đức giả, sự độc ác; hãy tự khảo sát phần lớn các đức tính tốt của chúng ta, hoá ra tất cả đều hoà tan trong cái bản năng quỉ quyệt và tai hại, là khát vọng chiếm hữu.”
Như vậy, luận điểm cho rằng tâm lí của con người được quyết định bởi các điều kiện kinh tế chính là nền tảng của tất cả các học thuyết xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Cho đến giữa thế kỉ XIX lí tưởng bình đẳng vẫn chỉ là hoài bão, đôi khi cũng gây ra những vụ bạo lực, nhưng chưa hề có lí luận hay chiến lược gì. Thí dụ, thế kỉ XVII ở Anh có Winstanley, lãnh tụ của một nhóm cấp tiến lấy tên là Digger, kêu gọi những ngưởi ủng hộ mình chiếm các công điền và biến chúng thành các khu chăn nuôi gia súc. Ông ta đưa ra lí luận tương tự như học thuyết cộng sản: bãi bỏ việc buôn bán đất đai và các sản phẩm của nó. Một thế kỉ rưỡi sau, trong thời Cách mạng Pháp, một nhà cách mạng cấp tiến tên là Francois-Noel Babeuf đã thành lập một tổ chức gọi là “Âm mưu vì sự công bằng”, kêu gọi tập thể hoá toàn bộ tài sản. Nhưng cả hai ông này đều không thể đưa ra được lí luận chứng tỏ cho người ta thấy cuộc cách mạng xã hội mà họ hướng tới sẽ được thực hiện như thế nào. Vào đầu thế kỉ XIX, những nhà xã hội không tưởng khác như Saint-Simon Fourier hi vọng có thể thuyết phục được những người giàu có từ bỏ một phần tài sản của mình.
Thỉnh thoảng ở phương Tây lại xuất hiện các công xã cộng sản tự nguyện. Một trong những công xã như thế là Công ty Virgin ở Jamestown, được thành lập vào năm 1607; năm 1825 Robert Owen thành lập một công xã lấy tên là “Sự hoà hợp mới” ở Indiana. Tất cả các thử nghiệm như thế trước sau gì cũng thất bại vì không thể giải quyết được vấn đề “những kẻ lười biếng”, tức là những thành viên công xã chỉ muốn ăn mà không muốn làm.
Đóng góp của Karl Marx và Friedrich Engels cho chủ nghĩa xã hội là lí thuyết chứng tỏ rằng thiên đường bình đẳng không những là đáng mong muốn mà còn có thể xây dựng được, hơn nữa còn là tất yếu. Để chứng minh, họ đã sử dụng các phương pháp của khoa học tự nhiên là những môn khoa học đã có uy tín rất cao trong xã hội lúc đó.
Marx và Engels đưa ra học thuyết “chủ nghĩa xã hội khoa học”, nói rằng lí tưởng về một xã hội bình đẳng không còn tư hữu không những có thể thực hiện được mà nhất định sẽ phải được thực hiện, đấy chỉ là kết quả phát triển tự nhiên của nền kinh tế mà thôi. Quan điểm Mác-xít về tiến hoá xã hội xuất hiện dưới ảnh hưởng của học thuyết Darwin, được trình bày trong Nguồn gốc các loài (1859). Cuốn sách của Darwin giải thích sự xuất hiện của các loài sinh vật như là kết quả của chọn lọc tự nhiên, chính sự chọn lọc này đã giúp cho các loài thích nghi với môi trường thù địch. Đây là một quá trình động, các loài phát triển từ thấp lên cao theo các qui luật đã được xác định. Các nhà nghiên cứu về hành vi của con người lập tức chớp lấy lí thuyết này, họ còn thành lập cả trường phái gọi là “Tâm lí học tiến hoá”, mô tả lịch sử như là quá trình phát triển theo “giai đoạn”, từ thấp đến cao. Ảnh hưởng của Darwin đối với Marx và Engels cao đến nỗi Engels, trong đám tang bạn mình, đã nói: “Giống như Darwin phát minh ra qui luật phát triển của thế giới hữu cơ, Marx phát minh ra qui luật phát triển của lịch sử loài người”.
Đưa tư duy về sự tiến hoá vào lí thuyết xã hội chủ nghĩa làm nảy sinh khái niệm không thể đảo ngược. Theo “chủ nghĩa xã hội khoa học” thì hoạt động của con người chỉ góp phần thúc đẩy hay làm chậm lại sự tiến hoá của xã hội nhưng không thể làm thay đổi được xu hướng vì xu hướng tiến hoá phụ thuộc vào các nhân tố khách quan. Như thế, theo các nguyên nhân sẽ được trình bày dưới đây, chủ nghĩa tư bản nhất định phải nhường chỗ cho chủ nghĩa xã hội. Tác động về mặt tình cảm của niềm tin này cũng chẳng khác gì niềm tin vào ý Chúa, nó là nguồn động viên rất lớn đối với những người tin tưởng tuyệt đối rằng dù có phải vượt qua biết bao nhiêu trở ngại, nhất định họ sẽ giành được thắng lợi cuối cùng. Lí thuyết này đã có một hấp lực rất mạnh đối với các nhà trí thức, vì nó hứa hẹn sắp xếp lại cuộc đời đầy lộn xộn này, biến đời sống thành ra có trật tự mà trí thức chính là những người thày, người hướng dẫn cho cái trật tự đáng mong ước đó. Marx đã giải thích điều đó bằng một câu nổi tiếng sau đây: “Các nhà triết học giải thích thế giới bằng những cách khác nhau, nhưng vấn đề là cải tạo nó”. Ai là người sẵn sàng cho việc cải tạo thế giới? Không phải trí thức thì còn ai nữa?
Dù tuân theo phương pháp khoa học nhưng chủ nghĩa Marx đã vi phạm một yêu cầu căn bản của phương pháp này, đấy là không định kiến và sẵn sàng làm cho lí thuyết thích nghi với các nhân tố mới. (Theo lời của Bertrand Russell thì chủ nghĩa Bolshevik, con đẻ của chủ nghĩa Marx, là một “tôn giáo” vì “không được phép tranh luận ngay cả khi nói về những vấn đề còn chưa rõ ràng về mặt khách quan”). Đây là một học thuyết cứng nhắc, không chấp nhận bất kì một quan điểm khác biệt nào. Marx không hề che giấu thái độ đối với những người bất đồng ý kiến với ông: phê bình, có lần ông đã viết “không phải là con dao mổ mà là vũ khí. Đối tượng của nó cũng là kẻ thù của nó, một đối tượng mà nó không muốn cải chính mà là muốn tiêu diệt”. Vì vậy có thể khẳng định rằng chủ nghĩa Marx là một giáo điều đeo mặt nạ khoa học.
Làm cho chủ nghĩa Marx thích nghi với truyền thống khoa học chỉ là một trong những khía cạnh hấp dẫn của nó mà thôi. Khía cạnh khác có liên quan đến những biến đổi của điều kiện xã hội diễn ra trong thời gian đó. Trước cuộc cách mạng công nghiệp, sản xuất nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế thế giới. Cho đến lúc đó, 80 cho đến 90 phần trăm người châu Âu và Mĩ sống bằng canh tác nông nghiệp hoặc nhờ canh tác nông nghiệp: họ giầu là nhờ thu hoạch từ ruộng đất hoặc phát canh thu tô. Dĩ nhiên là công thương nghiệp đã từng tồn tại từ những ngày xa xưa, nhưng chỉ có vai trò thứ yếu trong nền kinh tế. Đất là tài sản chủ yếu cho nên các phong trào đòi bình đẳng cũng dành nhiều sức lực cho đòi hỏi bãi bỏ quyền tư hữu ruộng đất.
Quan điểm của các phong trào đòi bình đẳng đã thay đổi hoàn toàn kể từ khi xuất hiện nền sản xuất công nghiệp đại trà. Tiền từ công thương nghiệp, chứ không phải địa tô, đã trở thành tài sản chủ yếu. Xuất hiện một hình thức nghèo đói mới vì quá trình cơ khí hoá làm hạ giá thành sản phẩm, các nghề sản xuất truyền thống trở nên lỗi thời, nhiều thợ thủ công thất nghiệp.
Công nghiệp hoá không chỉ tạo ra những xáo động đầy đau đớn trong xã hội mà còn dẫn đến những thay đổi căn bản và thường xuyên trong quan hệ giữa người sử dụng lao động và kẻ làm thuê. Điền chủ và tá điền là những người hàng xóm và theo một nghĩa nào đó thì họ chính là những đối tác của nhau. Mặc dù thỉnh thoảng tá điền vẫn bị đuổi hàng loạt, thí dụ như ở Anh thời kì có Luật hàng rào, nhưng nói chung cuộc sống nông thôn tương đối ổn định, đặc biệt là những nước như Mĩ, nơi đa số nông dân cũng là chủ mảnh đất mà họ canh tác.
Trong các xã hội kĩ nghệ, mối liên hệ giữa chủ tư sản và người làm thuê đã yếu hơn lại không bền vững vì người chủ có thể cho công nhân thôi việc khi nhu cầu giảm. Sự khác biệt lối sống là một thách thức đối với xã hội, những tên nhà giầu mới cố tình trưng ra tài sản của mình.
Sự phát triển như thế đã làm phát sinh lòng căm thù đối với “chủ nghĩa tư bản”. Chủ nghĩa xã hội, cho đến lúc đó mới là một lí tưởng được giới trí thức chia sẻ, bắt đầu nhận được sự ủng hộ của những nhóm công nhân nhất định.
Các trước tác của Marx và Engles gồm hàng chục tập, riêng bộ Tư bản đã là một ngàn bốn trăm trang in với rất nhiều thuật ngữ chuyên môn. Ít người đủ sức đọc hết những tác phẩm cực kì khó như thế, giải thích cho dễ hiểu lại càng khó khăn hơn. Nhưng vấn đề là các nguyên lí căn bản của học thuyết “chủ nghĩa xã hội khoa học” có thể qui về một vài luận điểm tương đối đơn giản.
Trong điếu văn đọc tại đám tang của Marx, Engles đã trình bày “qui luật của lịch sử nhân loại”, theo lời ông là được Marx phát minh như sau:
“Người ta trước hết phải ăn, uống, có nhà ở và quần áo mặc, trước khi có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo v.v…, nghĩa là sản xuất các tư liệu trực tiếp của đời sống và như vậy mỗi một nấc phát triển kinh tế của một dân tộc hay một thời đại đều tạo ra hạ tầng cơ sở, trên đó sẽ phát triển các cơ quan nhà nước, các quan điểm pháp lí, nghệ thuật và ngay cả các quan niệm tôn giáo của người dân, vì vậy chúng phải được giải thích trên cơ sở đó chứ không phải ngược lại như người ta vẫn làm lâu nay.”
… Tóm lại kinh tế là hạ tầng cơ sở của một đời sống có tổ chức, tất cả những cái khác đều là “thượng tầng kiến trúc”.
Từ tiền đề đó, Marx và Engels đã đưa ra lí thuyết về sự phát triển của xã hội mà luận điểm cơ bản của nó nói rằng chính tư hữu tư liệu sản xuất đã dẫn đến việc hình thành các “giai cấp” xã hội. Khởi kì thuỷ chưa có tư hữu tư liệu sản xuất: mọi người cùng nhau sở hữu ruộng đất. Nhưng cùng với thời gian, chế độ “cộng sản nguyên thuỷ” nhường chỗ cho sự phân chia giai cấp, một nhóm người đã giành được độc quyền đối với các nguồn tài nguyên quan trọng sống còn và sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để bóc lột và áp bức nhân dân thông qua các thể chế chính trị và pháp lí, những thể chế chỉ có nhiệm vụ bảo vệ những quyền lợi giai cấp của họ. Nhóm người này đã sử dụng văn hoá bao gồm tôn giáo, luân lí, văn học và nghệ thuật cho cùng mục đích như thế. Các phương tiện này đã tạo điều kiện cho giai cấp cầm quyền bóc lột nhân dân.
Dĩ nhiên là các giai cấp hạ lưu không chấp nhận bị bóc lột; họ luôn đấu tranh chống lại, nhưng khi còn tư hữu thì thành quả của họ chỉ là thay một hình thức bóc lột này bằng hình thức bóc lột khác mà thôi. Vì vậy, nói theo Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, cho đến nay lịch sử xã hội loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Những suy tư như thế về quá khứ chỉ là khúc dạo đầu của vấn đề mà Marx quan tâm hơn cả, đấy là phân tích thế giới “tư bản” đương thời với ông. Ông đã bỏ ra nhiều năm ròng rã để nghiên cứu lịch sử kinh tế nước Anh nhằm tìm cách chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản là giai đoạn tột cùng của xã hội có giai cấp và chế độ này sẽ phải sụp đổ trong một cuộc cách mạng do những người công nhân công nghiệp đang bị bóc lột tiến hành. Đấy sẽ là cuộc cách mạng cuối cùng vì nó sẽ dẫn đến việc thành lập xã hội không còn giai cấp nữa. Và đấy sẽ là sự cáo chung của lịch sử.
Hệ thống tư bản đặt cơ sở trên sự bóc lột lao động làm thuê theo ý nghĩa là nhà tư sản chiếm đạt “giá trị thặng dư” của món hàng mà người công nhân sản xuất ra. Theo Engels thì khái niệm “giá trị thặng dư” là phát hiện vĩ đại thứ hai của Marx, giúp ta hiểu được xã hội loài người. Toàn bộ giá trị đều được tạo ra bởi lao động. Nhưng trong hệ thống tư bản, người sử dụng lao động chỉ trả cho công nhân một phần nhỏ giá trị mà người công nhân này làm ra, chỉ đủ cho người lao động sống qua ngày mà thôi. Phần còn lại, tức là “thặng dư” thì người chủ đút vào túi mình.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, lãi suất của nhà tư sản cũng như tiền lương trả cho công nhân sẽ liên tục giảm. Đấy là do trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, nhà tư bản phải chi tiêu nhiều hơn cho việc trang bị máy móc, nguyên liệu v.v… và phải trả lương cho người lao động ít đi. Giá nhân công rẻ đi, tiền lương hạ xuống, mức sống sẽ thấp đi. Thêm nữa, trong các cuộc khủng hoảng, xuất hiện thường xuyên do kết quả của sản xuất thừa, các xí nghiệp lớn sẽ nuốt chửng các xí nghiệp nhỏ hơn, năng lực sản xuất công nghiệp sẽ ngày càng tập trung vào tay một số ít người hơn. Như vậy nghĩa là nhà tư bản và người công nhân cùng ngồi trên một con thuyền: tư bản thì bị mất nghiệp vào tay những kẻ giàu có hơn, còn công nhân thì trở thành nạn nhân của quá trình “bần cùng hoá”. Cùng với thời gian, tiến trình này nhất định sẽ dẫn đến cách mạng:
“Cùng với việc giảm liên tục số nhà đại tư bản, những kẻ chiếm đoạt và giữ độc quyền tất cả các món lợi của quá trình chuyển hoá này thì quần chúng nghèo khổ, bị áp bức, nô lệ, suy đồi, bị bóc lột cũng tăng thêm, nhưng đồng thời cũng gia tăng sự bất mãn của giai cấp công nhân, một giai cấp đang ngày càng tăng về số lượng, họ sẽ học tập, sẽ liên kết lại và tham gia tổ chức theo đúng cơ chế của chính quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Độc quyền tư bản sẽ trở thành gông cùm đối với phương thức sản xuất đã từng phát triển bên trong và bên dưới nó. Việc tập trung phương tiện sản xuất và xã hội hoá lao động sẽ đạt đến mức mà tự chúng sẽ trở thành không còn phù hợp với vỏ bọc tư bản chủ nghĩa nữa. Nó sẽ nổ tung. Giờ cáo chung của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã điểm. Những kẻ tước đoạt sẽ bị tước đoạt.” [2]
Những cuộc cải cách của chủ nghĩa tư bản cũng không có khả năng ngăn chặn cái kết cục ấy: sự cáo chung của chủ nghĩa tư bản là tất yếu.
Kết quả cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ là sự giải phóng hoàn toàn con người. “Tự do” trong quan niệm của Marx và Engels không có gì chung với quan điểm phóng khoáng về quyền công dân và sự bảo vệ những quyền đó từ phía nhà nước: “Tự do chính trị là tự do ảo”, Engels đã viết như thế, “là một dạng nô lệ thấp kém nhất; nó chỉ có vẻ tự do và vì vậy mà trên thực tế là nô lệ [3] ”. Tương tự như Engels, Marx cũng coi các quyền tự do và quyền công dân là sự lừa mị vì chúng làm cho con người trở thành nô lệ của phúc lợi vật chất; tự do chân chính sẽ giải phóng con người khỏi tình trạng nô dịch như thế. George Lukacs, một lí thuyết gia Mac-xít giải thích điều đó như sau:
“Tự do” của những người đang sống hiện nay là tự do của các cá nhân, bị phân tán bởi sở hữu… Đấy là tự do của những cá nhân vis-à-vis (so với) những người khác. Tự do của một kẻ ích kỉ; tự do của một người tự tách mình khỏi những người khác.” [4]
Vì vậy việc loại bỏ tư hữu chính là điều kiện cần thiết của tự do chân chính. Phải giải thoát khỏi sự phụ thuộc đó thì nhân loại mới đạt đến sự tự thể hiện hoàn toàn. Phân công lao động sẽ biến mất và người ta có thể tự do chuyển từ công việc này sang công việc khác. Marx mơ mộng:
“Trong xã hội cộng sản, nơi không có ai bị giới hạn lĩnh vực hoạt động nhất định… xã hội điều tiết toàn bộ quá trình sản xuất và vì vậy sẽ tạo điều kiện cho tôi hôm nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, sáng đi săn, giữa trưa đi câu cá, chiều chăn gia súc, sau bữa ăn tối thì làm phê bình - tuỳ thích – và không vì thế mà biến tôi thành thợ săn, ngư dân, người chăn nuôi hay nhà phê bình.” [5]
Lí thuyết của Marx và Engels đặt nền móng cho cương lĩnh của Hiệp hội Công nhân Quốc tế, vẫn thường được gọi là Quốc tế I, do họ lập ra ở London vào năm 1864 nhằm chuẩn bị cho người lao động ứng phó với cuộc khủng hoảng tư bản chủ nghĩa đang đến gần. Tổ chức này đã bị chia rẽ ngay từ đầu bởi những cuộc tranh cãi bất tận giữa những người xã hội và những người vô chính phủ. Mặc dù những người vô chính phủ và những người xã hội có chung mục đích, đấy là xã hội phi giai cấp, không còn chính phủ và cùng coi cách mạng bạo lực là phương tiện, nhưng họ lại khác những người xã hội ở ba điểm. Những người vô chính phủ cho rằng không chỉ công nhân công nghiệp mà nông dân không có ruộng và những người vô nghề nghiệp cũng là lực lượng tiềm tàng của cách mạng. Thứ hai, những người xã hội cho rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một giai đoạn chuyển tiếp (đôi khi vẫn được gọi là “chuyên chính vô sản”), đấy là giai đoạn mà giai cấp cầm quyền mới sử dụng sức mạnh cưỡng bức của nhà nước nhằm tước đoạt giai cấp tư sản và tiến hành quốc hữu hoá tư liệu sản xuất. Trong khi đó những người vô chính phủ phủ nhận mọi hình thức nhà nước, họ tiên đoán rằng “chuyên chính vô sản” sẽ biến thành phương tiện nô dịch mới, lần này là do những người trí thức giật dây vì quyền lợi của chính họ. Cuối cùng, nếu những người xã hội tin vào sự tiến bộ diễn ra một cách tự nhiên của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chính sự tiến bộ này sẽ dẫn tới cách mạng thì những người vô chính phủ lại kêu gọi “hành động trực tiếp”, nói cách khác, tấn công ngay lập tức vào hệ thống hiện hành.
Thời gian đã chứng tỏ rằng những người vô chính phủ đã dự đoán đúng cả ba vấn đề: các cuộc cách mạng xã hội không bùng nổ trong các nước công nghiệp mà diễn ra trong các nước nông nghiệp, còn “chuyên chính vô sản” thì biến nhà nước cộng sản thành một nền chuyên chính vĩnh cửu của những người không phải là công nhân đối với những người lao động chân tay và tầng lớp nông dân. Cuộc cách mạng Bolshevik vào năm 1917 ở Nga là kết quả của một cuộc tấn công trực diện vào chính phủ của một nước, nơi mà chủ nghĩa tư bản còn đang ở trong giai đoạn phát triển ban đầu.
Như vậy nghĩa là, hoá ra trên thực tế tất cả các dự đoán của Marx đều sai, ngay từ khi Marx còn sống điều đó càng ngày càng trở nên rõ ràng và sau khi ông mất thì trở thành sự kiện không thể tranh cãi.
Mặc dù chủ nghĩa tư bản đã trải qua những giai đoạn khủng hoảng, nhưng khủng hoảng có thể dẫn tới sụp đổ thì chưa. Đấy là nhờ một phần ở các bộ luật chống độc quyền, phần khác là nhờ sự phát triển của kĩ thuật, mở ra khả năng mới cho các doanh nghiệp nhỏ, phần nữa là nhờ sự phát triển không ngừng của lĩnh vực dịch vụ, một lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn ngành công nghiệp chế biến, quá trình tập trung tư bản và sản xuất đã không dẫn đến việc bóp chết các xí nghiệp nhỏ và chỉ còn lại các tập đoàn khổng lồ. Sự ra đời của các công ty cổ phần lại góp phần vào việc tái cấu trúc tài sản của xã hội.
Còn về những người lao động thì họ cũng không trở thành nạn nhân của quá trình bần cùng hoá. Ngay lúc Marx đang viết Tư bản, ở Anh đã có những bằng chứng chứng tỏ tiền lương của người lao động đã gia tăng, nhưng Marx cho rằng đấy là điều không đáng quan tâm. Một sự kiện còn quan trọng hơn, đấy là sự ra đời của các chương trình bảo trợ xã hội của chính phủ. Các nước có nền dân chủ đã công nghiệp hoá lo lắng về thành tựu của các tổ chức của người lao động cũng như việc các đại biểu của họ trúng cử vào quốc hội đã phải ban hành các đạo luật về bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế cũng như các ưu tiên ưu đãi khác, không để giai cấp công nhân bị chìm đắm mãi trong cảnh bần hàn. Đức là nước đầu tiên bước chân lên con đường ấy, Đảng Dân chủ Xã hội Đức là một đảng rất mạnh có thể đạt được đa số trong quốc hội. Cùng với việc nhiều nước châu Âu theo gương Đức, công nhân cũng ngày càng quan tâm hơn đến việc bảo tồn hiện trạng (Status-Quo), họ không còn nghe theo lời hiệu triệu cách mạng của những người xã hội nữa: họ có thái độ hoàn toàn ngược lại với khẳng định của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản rằng “giai cấp vô sản không có tổ quốc”. Người lao động đã không còn là vô sản theo nghĩa ban đầu của từ này nữa, nghĩa là không còn là giai cấp chỉ có nhiêm vụ sinh con (cu li) cho nhà nước nữa. Người lao động coi trọng hoạt động công đoàn hơn, họ chấp nhận trật tự tư bản và hướng tất cả cố gắng của mình vào việc giành thêm phần từ lợi nhuận mà chủ nghĩa tư bản mang lại. Như vậy là người lao động đã trở thành một phần của chính cái hệ thống mà theo Marx là phải bị tiêu diệt.
Vì tất cả những lí do đó mà cách mạng đã không nổ ra ở bất cứ nước tư bản chủ nghĩa phát triển nào: trong suốt một trăm năm sau khi Marx qua đời, những cuộc cách mạng như thế chỉ diễn ra, theo đúng dự đoán của những người vô chính phủ, trong các nước thuộc thế giới thứ ba, những nước có nền kinh tế tư bản vừa mới thành hình, với khối quần chúng nông dân không ruộng đất hoặc có rất ít ruộng đất và chế độ độc tài.
Các khiếm khuyết của học thuyết Mác-xít sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu nó vẫn nằm trên giấy như một sơ đồ lí luận. Nhưng đây còn là một cương lĩnh hành động cho nên ngay khi các dự đoán của nó mới có vẻ là sai - chuyện này đã trở nên rõ ràng ngay sau khi Marx mất – thì những người xã hội và sau đó là chính những người cộng sản, dù vẫn tuyên bố trung thành với học thuyết, đã bắt đầu xem xét lại học thuyết Mác-xít. Trong các nước dân chủ phương Tây việc xét lại này thường chỉ làm giảm đi tinh thần cách mạng và đưa chủ nghĩa xã hội đến gần hơn với chủ nghĩa tự do phóng khoáng mà thôi. Kết quả là sự xuất hiện của phong trào dân chủ xã hội. Ngược lại, trong các nước Đông Âu và các nước thuộc thế giới thứ ba việc xét lại lại làm nổi rõ thêm thành tố bạo lực trong chủ nghĩa Marx. Chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện như thế. Còn chủ nghĩa Marx nguyên chất, không pha tạp thì chưa được chấp nhận ở bất kì đâu như một cương lĩnh chính trị vì nó không phù hợp với thực tế.
Quốc tế thứ nhất tan rã vào năm 1876, nhưng được tái sinh vào năm 1889, sau khi Marx đã qua đời. Đấy là Quốc tế II, tổ chức tập hợp các đảng xã hội tất cả các nước (không còn những người vô chính phủ nữa), với hạt nhân là Đảng Dân chủ Xã hội Đức. Cách mạng trên các biểu ngữ, tiệm tiến trong thực tế, trước Thế chiến thứ nhất, Quốc tế II đã giữ thế thượng phong trong chính sách của những người xã hội. Cương lĩnh chính thức của tổ chức này, thường được gọi là Cương lĩnh Erfurt, được thông qua vào năm 1891, tuyên bố rằng quyền lợi của nhà nước “tư bản” và quyền lợi của giai cấp công nhân là không thể dung hoà, người công nhân không có trách nhiệm gì đối với đất nước: họ chỉ trung thành với giai cấp mình mà thôi. Cương lĩnh khẳng định tình đoàn kết quốc tế của những người lao động và tính tất yếu của cách mạng, một cuộc cách mạng sẽ đập tan chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản trên toàn thế giới.
Không phải tất cả những người xã hội đều chấp nhận cương lĩnh cấp tiến này. Trên khắp châu Âu đã vang lên những lời cảnh báo rằng điều kiện sống của giai cấp công nhân sẽ được cải thiện bằng các biện pháp chính trị và kinh tế chứ không phải bằng một cuộc cách mạng bạo lực. Jean Jaures, một đảng viên xã hội người Pháp tiên đoán:
“Giai cấp vô sản sẽ giành được quyền lực không phải bằng một cú bùng nổ bất ngờ của công tác cổ động chính trị mà phải dựa vào việc tổ chức công khai, có phương pháp lực lượng của mình trong điều kiện của nền dân chủ và phổ thông đầu phiếu. Xã hội chúng ta sẽ tiến dần đến chủ nghĩa cộng sản không phải bằng cách đập tan chế độ tư bản mà bằng việc tăng cường lực lượng của giai cấp vô sản một cách thường xuyên và liên tục.”
Ủng hộ mạnh mẽ nhất cho đường lối này là tổ chức gọi là Fabian ở Anh, trong đó có những thành viên vốn là những danh nhân văn học như George Bernard Shaw và Herbert George Wells. Cương lĩnh của tổ chức này yêu cầu “thuyết phục” đất nước giải thoát khỏi chủ nghĩa tư bản bằng cách quốc hữu hoá nền công nghiệp; cũng như các nhà xã hội chủ nghĩa tiền Mác-xít, những người Fabian cũng hướng đến lương tâm của dân tộc.
E. Bernstein là người tiến hành một cuộc công kích táo bạo nhất vào các nguyên lí và cương lĩnh của chủ nghĩa Marx. E. Bernstein là một yếu nhân của Đảng Dân chủ Xã hội Đức, người sáng lập ra “chủ nghĩa cải lương” trong phong trào xã hội. Ông đã sống nhiều năm ở Anh và đã từng tiếp xúc với phong trào Fabian. Cuối những năm 1890 ông kêu gọi những người dân chủ xã hội cải tiến lí thuyết của mình cho phù hợp với thực tiễn là chủ nghĩa tư bản chưa thể sụp đổ, còn quần chúng lao động cũng không rơi vào cảnh bần hàn. Vẫn tin vào chủ nghĩa xã hội, nhưng giống như Jaures, ông coi đấy là kết quả của quá trình phát triển kinh tế và chính trị một cách hoà bình trong lòng chủ nghĩa tư bản
Đảng Dân chủ Xã hội Đức, đảng mạnh nhất và có ảnh hưởng nhất ở châu Âu phủ nhận lí thuyết xét lại của Bernstein và tiếp tục đi theo cương lĩnh cách mạng được thông qua tại Erfurt. Nhưng trên thực tế, đảng này lại làm chính những điều mà Bernstein bảo vệ, tức là dành nhiều sức lực cho phong trào công đoàn và các cuộc bầu cử vào quốc hội. (Mãi đến năm 1959 đảng này mới chính thức li khai chủ nghĩa Marx).
Như vậy là trong giai đoạn sung sức nhất, tức là khoảng một phần tư thế kỉ trước khi nổ ra Chiến tranh Thế giới I, phong trào xã hội chủ nghĩa ở phương Tây trên thực tế đã từ bỏ con đường bạo lực và chuyển sang đường lối cảo tạo xã hội một cách hoà bình, tuy về mặt lí luận không phải lúc nào họ cũng nói như thế. Phong trào giữ vững niềm tin vào tình đoàn kết quốc tế của những người lao động. Quốc tế II cho rằng công nhân tất cả các nước đều là anh em và nhiệm vụ cao cả nhất của họ chính là ngăn chặn các cuộc chiến tranh mà chủ nghĩa tư bản cố tình gây ra. Đề tài này thường được đưa ra thảo luận tại các cuộc hội nghị của Quốc tế. Người ta đã đưa ra nhiều đề nghị nhằm ngăn chặn chiến tranh cũng như đã thảo luận về các hành động cần phải làm nếu chiến tranh vẫn cứ bùng nổ. Nghị quyết được thông qua tại Hội nghị ở Stuttgart vào năm 1907 (có V. Lenin và L. Martov tham gia) kêu gọi, trong trường hợp xảy ra chiến tranh, “phát động quần chúng và bằng cách đó đẩy nhanh quá trình sụp đổ của chính quyền tư sản”, nói cách khác, biến chiến tranh giữa các nước thành nội chiến giữa các giai cấp. Trong hội nghị tiếp theo vào năm 1910 các đại biểu thống nhất thông qua nghị quyết đòi các nghị sĩ xã hội biểu quyết phản đối ngân sách chiến tranh.
Nhưng hoá ra các đảng viên xã hội cũng như Quốc tế II của họ không đủ sức ngăn chặn sự bùng phát của cuộc chiến tranh trên toàn châu Âu vào mùa hè năm 1914. Những câu chuyện về một cuộc tổng đình công chẳng đưa đến đâu. Hơn thế nữa, cả những người dân chủ xã hội Đức lẫn các đảng viên xã hội Pháp, trái ngược với những thề bồi trước đây, đều biểu quyết thông qua ngân sách chiến tranh và bằng cách đó đã làm mất uy tín của chính tư tưởng về tình đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản. Lòng trung thành với tổ quốc hoá ra cao hơn tình hữu ái giai cấp; A. Hitler và B. Mussolini, hai kẻ mị dân và rất háo danh, sau khi chiếm được chính quyền dựa vào cơ sở cương lĩnh hợp nhất giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc, đã không bỏ qua sự kiện này.
Số phận của Quốc tế II đã được định đoạt khi nó không có khả năng thực hiện những lời hứa chống chiến tranh của mình. Chiến tranh rồi cũng qua đi, các đảng xã hội vẫn còn tồn tại nhưng càng ngày họ càng gắn bó với đất nước của mình hơn.
Sự nghiệp của quốc tế xã hội chuyển từ phương Tây, lúc đầu là sang Nga và sau đó là sang các nước càng ngày càng xa phương Tây hơn.
Bản tiếng Việt © 2007 talawas
[1]Vùng đất thần tiên (ND)
[2]Karl Marx, Tư bản, Q 1, XXIV
[3]K. Marx, F. Engels, Toàn tập, tập 1, Moskva 1955, trang 526
[4]George Lukacs, History and Class Consciousness. Cambridge, Mass, 1971, p. 32
[5]K. Marx, F. Engels, Toàn tập, tập 3, Moskva 1955, trang 32