Dịch thuáºt 30.9.2004
Nguyễn Văn Lục
Má»™t số nháºn xét vá» sách dịch tại miá»n Nam trước 1975 cá»§a má»™t ngưá»i Ä‘á»c
Ðây chỉ là bài viết của một người đọc sách dịch, không quy chiếu và dựa trên nguyên tắc phê bình văn học nào cả. Cùng lắm, nếu có ai tra vấn, tôi sẽ buộc lòng phải trả lời: đó là quyền của người đọc. Chỉ có vậy thôi.
Sách dịch từ 1954 đến 1960 còn rất thưa thớt, chưa có gì đáng kể. Nhưng từ 1960, văn học dịch lớn mạnh hẳn, và đã chiếm dần đa số thị phần sách vở được xuất bản ở miền Nam, có lúc tỉ lệ lên tới 60, 70%. Theo Võ Phiến trong Văn Học miền Nam và Trần Trọng Ðăng Ðàn trong Văn Hóa Văn Nghệ, đến năm 1972, sách dịch đã chiếm 80% thị phần toàn bộ các đầu sách xuất bản ở miền Nam.
Nguyên do nào để văn học dịch chiếm phần lớn thị phần sách vở ở miền Nam? Ðó là một câu hỏi khá táo bạo và chưa có ai đưa ra câu trả lời. Toàn bộ sách dịch trong 20 năm là 1543 cuốn, có nghĩa cứ mỗi tháng có 6 đầu sách dịch được xuất bản. Trong đó, sách dịch từ tiếng Pháp chiếm hàng đầu với 499 cuốn, tiếp sau đó là Ðài Loan và Hương Cảng với 358 cuốn và Mỹ với 273 cuốn. Nếu sách dịch từ Pháp nhắm vào tính cách văn hóa thì sách dịch từ Ðài Loan, Hương Cảng nhắm vào giải trí. Con số đó nói lên rằng, sách sáng tác của các nhà văn Việt Nam chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu người đọc ở miền Nam.
Không những chiếm một khối lượng đồ sộ, sách dịch còn có ảnh hưởng to lớn trên toàn bộ sinh hoạt văn hóa miền Nam. Vậy mà hình như nó vẫn chỉ thuộc sinh hoạt văn học bản lề, phụ thêm vào dòng văn học sáng tác truyện và thơ văn lúc bấy giờ. Nhận xét này được căn cứ vào danh sách những nhà văn, nhà thơ trong các tuyển tập văn học. Người ta thường có thói quen bỏ quên mảng văn học dịch thuật và định nghĩa văn học theo một nghĩa rất chặt là chỉ có sáng tác mới được kể là văn học. (Nhận xét này có thể đúng cho cả trong Nam lẫn ngoài Bắc).
Ðiểm thứ hai là văn học dịch có sự phát triển khá đồng bộ. Trước là các tiểu thuyết nhằm vào giới bình dân, giới nữ độc giả, từ nông thôn đến thành thị. Mỗi thành phần độc giả đều có sách dịch cung ứng thích hợp. Ðộc giả bình dân thì có các loại tiểu thuyết tình cảm, xã hội, của Quỳnh Dao do dịch giả nổi tiếng Lưu Quốc Nhĩ dịch. Ở miền Nam, chưa bao giờ lại có hiện tượng dịch sách chuyện của Tàu nhiều đến như thế. Ðó là chưa kể đến phim ảnh của Tàu, cả Ðài Loan và Hương Cảng. Cạnh đó là các truyện kiếm hiệp, chưởng Kim Dung nhằm đại đa số người đọc thuộc đủ thành phần. Thậm chí có người nói đùa, ai chưa đọc chưởng Kim Dung thì chưa (hẳn) là người Việt. Ông Vũ Ðức Sao Biển, dân cựu đại học Văn Khoa Sài Gòn, ban Việt Hán, người hiện được coi là một nhà "Kim Dung học" đã tự thú nhận rằng: Vốn liếng hiểu biết, tầm kiến thức được mở rộng của ông phần lớn đều từ những điều rút ra từ sách chưởng của Kim Dung. Có thể vì hâm mộ mà ông đã nói quá lời. Nhưng sự thực có điều gì mà chưởng Kim Dung không bàn đến? Từ vấn đề đạo đức, lịch sử, đao kiếm, tâm lý, xã hội, phụ nữ, người anh hùng, xử thế, xây dựng nhân vật, hư cấu trong tiểu thuyết, đến cả những vấn đề ẩm thực cũng đều có cả. Hay thì người ta đọc. Và hằng tỉ người đã đọc.
Tiếp đến là các loại sách dịch cho nhu cầu tìm hiểu học hỏi và mở mang kiến thức, các trào lưu tư tưởng triết học Ðông Tây như các sách dịch về lịch sử, triết học, khoa học v.v...
Phần còn lại là các truyện dịch giới thiệu trào lưu văn học Tây Phương nhằm vào giới độc giả thanh niên, trí thức thành thị, nói chung là giới có học. Phần sách dịch này tuy ít, nhưng tiếng nói có trọng lượng.
Các hướng dịch thuật nói trên đã tạo được một nền sinh hoạt dịch phong phú, thỏa mãn được một phần rất lớn nhu cầu người đọc.
Ðiểm thứ ba là các dịch phẩm đó đáp ứng đúng với tình thế và tâm trạng lúc bấy giờ: Chiến tranh lan rộng. Tiếng bom đạn vang dội về thành phố. Ðêm. Giấc ngủ chập chờn. Viễn ảnh đen tối về một tương lai vô định. Lòng người xao động, bất ổn. Rồi tình cảnh và tâm lý những thanh niên bị ném ra ngoài chiến trường. Chiến tranh thực sự đã đặt ra rất nhiều vấn đề xã hội cũng như con người trong cuộc chiến. Từ đó nảy sinh ra khá nhiều tâm trạng phức tạp và đôi khi đối nghịch nhau: có tâm trạng chán chường lao vào ăn chơi, giải trí để quên đi; có tinh thần phản chiến, chống chiến tranh; có những thao thức, suy nghĩ tìm một giải pháp cho chiến trường Việt Nam; có khuynh hướng tìm về những khát vọng siêu nhiên như một lối giải thoát hay đền bù. Các tiểu thuyết dịch đủ loại đã đáp lại những tâm trạng đó.
Văn học sáng tác với một số nhà văn, nhà thơ trẻ cũng đã góp mặt. Những nhà văn trẻ như Thảo Trường, Dương Nghiễm Mậu, Thế Uyên, Thế Nguyên, Phạm Nhã Dự, Nhã Ca, Lâm Chương, Tô Đình Sự, Ngô Thế Vinh và ngay cả Nguyên Sa và nhiều nhà văn vô danh (theo nghĩa không được nhắc tới) trong các báo in photocopie, báo chui, báo nhóm... Nhưng ít ra là họ đã có mặt, và là chứng nhân của lịch sử. [Ðiều đó không thấy nơi một số lớp nhà văn đàn anh như trường hợp Mai Thảo, một nhà văn vẫn được coi là biểu tượng cho văn học miền Nam một thời, một kiểu Nguyễn Tuân trong Nam, không có một nhà văn lớn nhỏ nào dám đụng tới. Thế nhưng, những tác phẩm của Mai Thảo đã chuyên chở được gì? Ðã là tiếng nói gì của một thời? Hay ông vẫn như một người ngoài cuộc, dửng dưng? Nói một cách hơi đao to búa lớn, nếu sứ mệnh nhà văn là kẻ làm chứng, tiên tri, ông có là kẻ làm chứng không? Văn chương ông liệu có dấn thân, nhập cuộc? Ông có phản ánh thời đại của ông với những năm tháng đầy xáo trộn, chiến tranh đụng chạm đến hằng triệu giây thần kinh lớn nhỏ của mỗi một con người? Khi đó ông đang ở đâu, làm gì?]
Ðiểm thứ tư là phần đông các tác giả làm công việc dịch thuật đều đảm nhận vai trò dịch thuật một cách thỏa đáng. Ðó là những Nguyễn Hiến Lê, Vũ Đình Lưu (tức Cô Liêu), Hoài Điệp Thứ Lang, Phùng Thăng, Phùng Khánh, Chơn Hạnh, Trương Đình Cử, Văn Tự và Mậu Hải, Lê Huy Oanh, Trần Thiện Ðạo, Nhất Hạnh, Nguyễn Minh Tâm, Ðào Hữu Nghĩa, Ðỗ Kim Bảng, Tôn Thất Hoàng, Lê Ngọc Trụ, Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Minh Hoàng, Nguyễn Hữu Hiệu, Ðinh Bá Kha, Mặc Ðỗ, Huỳnh Phan Anh, Hoài Khanh, Trần Phong Giao, Hoàng Ngọc Biên, Võ Phiến, Thế Uyên, Nguyễn Quốc Trụ, Hải Triều, Vũ Minh Thiều, Thạch Chương, Bửu Y, Lê Thanh Hoàng Dân, Thạch Trung Giả, Vũ Kim Thư, Phạm Kim Khôi, Tầm Nguyên, Ðặng Thiền Mẫn, Hàn Giang Nhạn, Liêu Quốc Nhĩ, Từ Khánh Vân, Từ Khánh Phụng... Con số này có thể lên tới hằng trăm người. Các dịch giả đều có trình độ, có trách nhiệm. Các dịch phẩm đã được chọn lựa, được chăm sóc cẩn thận trước khi cho xuất bản. Không có tình cảnh sách dịch bừa bãi chạy theo nhu cầu cơm áo. Ðã hẳn là cũng có những dịch phẩm xuống cấp nhằm lợi nhuận. Trong một xã hội tương đối tự do như ở miền Nam thì điều gì cũng có thể có hai mặt. Có xấu, có tốt, có thế này, thế nọ. Nhưng rõ ràng là mặt tốt nổi bật.
Dù vậy, phần đông cách dịch giả chỉ coi việc dịch như phần thêm vào. Nghĩa là công việc dịch không hẳn là một nghề, một chuyên môn nhất định. Ðó là thứ nghề tay trái, nghiệp dư. Vì thế, ít có tác giả nào được coi là chuyên môn về dịch, trừ một số dịch giả dịch tiểu thuyết Tàu. Nhiều nhà văn đồng thời là dịch giả. Cũng chẳng thiếu những nhà giáo làm thêm công việc dịch thuật. Ðọc thấy hay thì dịch, rỗi rảnh thì dịch, dịch không nhất thiết nhắm vào thị trường người đọc, xu hướng đọc mà tùy theo cảm quan của người dịch. Thích gì dịch nấy.
Ðiểm thứ sáu là tính cách đa dạng của ngành dịch thuật. Có đủ loại sách dịch trong mọi lãnh vực: Từ sách giáo khoa, sách "Học làm người," sách chuyên môn về kỹ thuật... Nhưng quan trọng và nổi bật nhất là các sách về lịch sử, triết học, nhất là triết học Ðông Phương, triết Thiền, triết Phật giáo, triết Ấn Ðộ. Cạnh đó là các sách truyện đủ loại về các đề tài triết học, chiến tranh, giải trí, v.v. Nói nôm na là muốn gì có nấy. Muốn giải trí có giải trí, muốn thấp có thấp, muốn cao có cao, muốn chuyên môn có chuyên môn. Lãnh vực nào cũng có. Ðiều này đã phần nào đó tạo ra một thế giới văn chương, học thuật từ bên ngoài vào, như những món hàng có giá và được độc giả ưa chuộng.
Một số sách dịch gây dư luận ồn ào trong giới người đọc bao gồm: Buồn ơi chào mi của F.Sagan, do Nguyễn Vĩ dịch, 1959. (Sau đó, Lê Huy Oanh, một giáo sư Anh Văn dịch lạ là Buồn ơi, xin chào); Bố già của Mario Puza, Ngọc Thứ Lang dịch; Quần đảo ngục tù của Soljenitsine, do Ngọc Thứ Lang dịch, đăng trên tờ Sóng Thần của Chu Tử; Bác sĩ Jivago của Boris Pasternak, Nguyễn Hữu Hiệu dịch với nhan đề Vĩnh Biệt tình em. (Văn Tự và Mậu Hải dịch với nhan đề Bác sĩ Zivago theo đúng nguyên tác). Mặc dầu nổi tiếng, gây nhiều tiếng vang, nhưng thực sự số người đọc tác phẩm này lại không nhiều, vì tác phẩm dày đến 800 trang và vốn không dễ đọc.
Truyện dịch tình cảm, xã hội, như của Quỳnh Dao đã ăn đứt các nhà văn nữ nổi tiếng và thành công như bà Tùng Long. Số đầu sách của hai nhà văn nữ này tương đối ngang bằng, trên dưới 6, 7 chục đầu sách. Nhưng số lượng độc giả có khác. Bà Tùng Long nhắm vào giới nữ độc giả ở các tỉnh và giới bình dân thành thị. Quỳnh Dao nhắm vào toàn bộ giới nữ sinh trẻ trên toàn miền Nam. Sách Kim Dung kể như không có đối thủ. Cuốn Bố già và một loạt sách cùng loại của Mario Puzo ăn đứt các tác giả Hoàng Hải Thủy. Cuối cùng thì nhà văn này cũng đầu quân vào lãnh vực dịch thuật mà nhiều cuốn chỉ có giá trị thương mại thuần túy.
Mặc dầu trong một nước có chiến tranh, lại có khá nhiều nhà văn nổi tiếng nói về cuộc chiến này, và họ đã để lại một số tác phẩm đáng kể, (có thể kể tên một số tác giả như Phan nhật Nam, Thảo Trường, Thế Uyên, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Xuân Vũ, Phan Lạc Tiếp...), nhưng sách dịch về chiến tranh vẫn tràn ngập thị trường sách vở miền Nam, chẳng hạn tác phẩm của các nhà văn Erich Remarque, Ernest Hemingway, Gheorghiu, Tolstoi. Nếu đem so sánh sách của các nhà văn được coi là chống cộng nổi tiếng nhất miền Nam, của các nhà văn hàng đầu như Võ Phiến, Mai Thảo, Nguyễn Mạnh Côn, Nhã Ca với những Soljénitsyne, Boris Pasternak thì sẽ thế nào? Trên thực tế, không có cuốn sách chống cộng nào được nói tới nhiều và gây sóng gió như cuốn Quần đảo ngục tù do Ngọc Thứ Lang dịch. Ông này đã dịch thành công hai cuốn sách nổi tiếng là Bố Già và Quần đảo ngục tù.
Về phía các nhà văn nữ, có ai sánh được F. Sagan, cả về mặt chiều kích tác phẩm và độ lớn của tác phẩm? Hay về mặt ảnh hưởng? Ai có thể phủ nhận sự xuất hiện hàng loạt của họ, kể như những nhà văn đầu tiên của miền Nam? Nói về chiều kích tác phẩm thì nhà văn nào của chúng ta đủ lớn, đủ chiều kích để có thể so sánh với St Exupéry, A. Camus, J.P Sartre, Hermann Hesse, André Gide, Dostoievsky. Tất nhiên, việc so sánh giữa sáng tác trong nước và sách dịch này chỉ từ vị thế của một người đọc. Ðây là chủ quan của người đọc, có thể đi ra ngoài những phê phán của các nhà phê bình. Nhưng đối với người viết thì cuối cùng, độc giả bao giờ cũng có lý. Cái lý của người tiêu thụ.
Ðáng tiếc là trong các tác phẩm dịch thời Việt Nam Cộng Hòa, một phần không nhỏ có tính cách tụt hậu. Nhiều dịch giả đã dịch những tác phẩm in từ 50 năm đến một thế kỷ trước đó. Nó thiếu tính cách hiện đại, thiếu những tác phẩm đương đại, thiếu sự đuổi kịp những trào lưu tư tưởng thế giới. Ðại để, khi triết lý hiện sinh Tây phương đi vào thoái trào thì ở miền Nam triết lý đó bắt đầu xâm nhập. Khi phong trào Tiểu thuyết mới được giới thiệu, thì ở bên Pháp nó đã đi vào dĩ vãng. Lại nữa, người dịch có khuynh hướng chung là thích lựa chọn những tác phẩm có giá, nghĩa là được các giải thưởng văn chương thế giới. Ðã có công dịch thì chọn những sách có giá trị, đã được nhìn nhận của nước ngoài. Ai hơi đâu chọn những tác giả vô danh tiểu tốt. Nghĩa là chọn dịch tên tác giả hơn là tác phẩm. Ðiều đó không hẳn là dở, nhưng nó không đủ. Nó chứng tỏ một sự lệ thuộc tinh thần, chiều theo sự đánh giá và thị hiếu của người ngoại quốc. Cái gì người ta cho là hay thì mình cũng cho là hay và ngược lại. Xu hướng đó có thể vì thế đã bỏ sót một số tác phẩm hay đáng lẽ nên được dịch.
Một điểm khác cũng quan trọng không kém, có thể coi như mấu chốt mở rộng cửa cho ngành dịch thuật: Vai trò của các nhà xuất bản. Sách hay, dịch hay, đã đành là tốt. Nhưng nó vẫn có thể bị bỏ xó, nếu không có một số nhà xuất bản có lòng với văn chương, nghệ thuật. Theo một nghĩa nào đó, họ là những nhà văn hóa. Biết chọn sách hay để in. In ấn, trình bày đẹp mắt, trang trọng, có thẩm mĩ. Cầm cuốn sách, người đọc trân trọng nâng niu công sức nhà xuất bản đã bỏ ra. Mỗi tác phẩm trở thành một công trình nghệ thuật. Phải gọi họ là những nhà văn hóa vì họ đặt nặng chuyện văn hoá, nghệ thuật lên trên chuyện tiền bạc. Ðó là những nhà xuất bản Lá Bối, An Tiêm, Trí Ðăng, Ca Dao, Trình Bầy, Sống Mới, Cảo Thơm, Trí Dũng, Diên Hồng, Sáng Tạo, nhà Kim Lai ấn quán, rồi còn Cơ quan Văn Hóa Á châu, Nguyễn Đình Vượng, Nam Chi, Ðại Ngã, Sống Mới, v.v. Mỗi nhà chuyên một mặt, từ chọn đầu sách, chọn giới người đọc, chọn thể loại, chọn xu hướng sáng tác, chọn lãnh vực sáng tác và chọn tác giả. Có thể nói, nếu không có những nhà xuất bản này, việc xuất bản sách hẳn khó có thể đạt được những thành quả tốt đẹp như vậy. Trong số các nxb nói trên, hai nhà đáng lưu ý nhất là Lá Bối và An Tiêm.
Dầu sao, nếu phải nói một lời chót, thì có lẽ phải thừa nhận rằng sách dịch đã đóng góp một phần rất lớn về nhiều mặt vào văn học miền Nam. Nhưng dù thế nào đi nữa thì nó chỉ thêm vào chứ không bao giờ có thể thế chỗ của các nhà văn miền Nam. Không sách vở ngoại quốc nào có thể nói thay tiếng nói của người Việt Nam được. Mặt khác, cũng không thể phủ nhận sự đa dạng và phong phú của văn học dịch. Ðó là cái may của độc giả miền Nam mà độc giả miền Bắc đã không có được.
© 2004 talawas
|