trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 227 bài
  1 - 20 / 227 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học Việt Nam
Loạt bài: Phỏng vấn của talawas
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19 
2.1.2007
Nguyễn Đình Chính
Cách mạng không đào tạo được trí thức lớn
Đinh Bá Anh thực hiện
 
Nhà văn Nguyễn Đính Chính
talawas: Thưa nhà văn Nguyễn Đình Chính, hôm nay chúng tôi muốn trò chuyện với ông về ba chủ đề: về một số điều liên quan đến cố nhà văn Nguyễn Đình Thi, về tiểu thuyết Đêm thánh nhân của ông và về việc ông muốn ra khỏi Hội Nhà văn Việt Nam. Chúng ta có thể bắt đầu với Nguyễn Đình Thi, người có số phận rất đặc trưng cho giới trí thức tinh hoa của Việt Nam, trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nguyễn Đình Thi đi theo cách mạng và cuộc đời ông từ đầu tới cuối gắn với cuộc cách mạng này. Ông là một nhà chính trị, song chúng ta biết đến ông trước hết như một nghệ sĩ: một nhà thơ, nhà viết kịch, nhà văn, và một nhạc sĩ. Chính sự phức tạp này của con người Nguyễn Đình Thi là cái mà chúng tôi muốn tìm hiểu. Là con trai của Nguyễn Đình Thi, trong nhiều năm sống cùng với cha mình, ông có cảm nhận được những xung đột giữa con người chính trị Nguyễn Đình Thi với con người nghệ sĩ Nguyễn Đình Thi hay không? Và Nguyễn Đình Thi đã sống với những xung đột ấy như thế nào?

Nguyễn Đình Chính: Câu hỏi của anh về việc nhà văn Nguyễn Đình Thi là một trí thức đi theo cách mạng điển hình, tôi thấy nên nói cho minh bạch hơn. Trong thế kỉ 20, ở Việt Nam không chỉ có những người cộng sản làm cách mạng. Cho nên cái từ cách mạng ấy nó rất rộng. Nhìn lại trước đó thì còn có nhiều phong trào của các đảng phái khác, như Đông Du của Phan Bội Châu, Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học, rồi cũng phải kể tới phong trào bất bạo động của Phan Chu Trinh... Vậy phải nói thế này: Nguyễn Đình Thi là một trí thức của phong trào cách mạng cộng sản. Nguyễn Đình Thi - tôi xin được dùng chữ anh Thi thôi, vâng, về lứa tuổi thì anh Thi sinh năm 1924 và anh tham gia vào Hội Văn hoá Cứu quốc, một tổ chức của những người cộng sản. Anh Thi không tham gia các phong trào yêu nước khác mà tham gia ngay vào phong trào cộng sản từ khi còn rất trẻ. Bị Pháp bắt đi tù 2 lần (năm 1941 và 1944). Nguyễn Đình Thi vừa là một nhà chính trị nhưng cũng vừa là một nghệ sĩ thứ thiệt. Chắc chắn có sự xung đột giữa hai con người này trong anh Thi. Về vấn đề này thì trong di cảo, anh Thi viết rất nhiều, nhưng theo di chúc của anh ấy thì đến năm 2014 tôi mới được phép công bố. Nhưng tôi có thể nói rằng chỉ cần nhìn vào những sáng tác nghệ thuật đã xuất bản của Nguyễn Đình Thi, chúng ta cũng có thể thấy hiện ra sự xung đột này rồi.

talawas: Thí dụ?

Nguyễn Đình Chính: Anh Thi không chỉ là tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam mà còn là chủ tịch uỷ ban toàn quốc các Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, lãnh đạo anh chị em văn nghệ sĩ cả nước thực hiện cái phương châm sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa (HTXHCN) của Đảng Cộng sản. Nhưng bản thân Nguyễn Đình Thi thì lại không tuân thủ triệt để cái phương thức sáng tác HTXHCN. Nó biểu hiện ở tác phẩm. Cụ thể là thời kháng chiến chống Pháp, từ năm 1948, Nguyễn Đình Thi làm thơ thì đã bị Đảng không vừa ý rồi, nói thẳng ra là bị phê bình, và thậm chí người ta còn nói nên đuổi thơ Nguyễn Đình Thi ra khỏi kháng chiến, họ đã thấy trong cái con người này có cái gì đó không ổn. Và cái đó còn tiếp tục kéo dài cho đến những sáng tác tiếp theo của anh là những vở kịch như Con nai đen (1962), Hoa và Ngần (1974), Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979)... đều bị cấm lưu diễn và trở thành những "tì vết" trong sự nghiệp của Nguyễn Đình Thi.

talawas: Vở kịch đầu tiên, Con nai đen, hồi đó đụng chạm đến vấn đề gì?

Nguyễn Đình Chính: Cái vấn đề chính của Con nai đen nói về sự giả dối và sự thật, mà trong cái xã hội này thì hãy coi chừng sự giả dối. Cách đây hơn 50 năm, Nguyễn Đình Thi đã nhìn thấy hiểm họa của nó, giả dối ở đây là giả dối về văn hóa, về nhân cách.

talawas: Nhưng nếu chỉ như vậy thì nó có vi phạm gì cái chủ trương hiện thực xã hội chủ nghĩa đâu, vì chính chủ nghĩa HTXHCN cũng yêu cầu người nghệ sĩ phải phơi bày cái giả dối của xã hội và đề cao sự thật...

Nguyễn Đình Chính: Về lý thuyết thì là như vậy, nhưng cái văn học của mình thực hiện thì lại không phải như vậy. Chỉ đạo là: phải tuyên dương cái tốt đẹp, viết về nhiều cái tốt đẹp, còn cái xấu phải phê phán, nhưng mà chạm đến cái XẤU THẬT, những bức xúc thật của xã hội, của con người thì không được. Một ví dụ, tác phẩm Vào đời của Hà Minh Tuân, mới chỉ động vào cái xấu thật ấy một tí thôi mà đã bị cấm và tác giả thì suốt đời thân bại danh liệt. Thế cho nên cái gọi là HTXHCN ấy chỉ là một phuơng pháp què quặt, một sự nguỵ biện, để mà thực hiện một cái hiện thực nửa vời và điều đó đã hạn chế rất nhiều giá trị của các tác phẩm nghệ thuật. Chính vì thế hàng loạt tác phẩm đã bị chết yểu. Chết trước tác giả. Anh Thi và một số bạn tài năng của anh, theo tôi biết, họ cũng là những người hiểu biết, thì khi động đến cái vấn đề đó, họ đều bị vướng. Thế nên tôi thấy đấy là một điểm phức tạp trong con đường sáng tác không chỉ của riêng Nguyễn Đình Thi.

talawas: Theo cách nhìn của thế hệ trẻ hiện nay và có lẽ của nhiều độc giả nữa, thì Nguyễn Đình Thi là một trí thức, trẻ, tiêu biểu và lớn nhất của cái thế hệ cách mạng đầu tiên... Anh có thể kể về xuất thân của ông Thi?

Nguyễn Đình Chính: Tôi sẽ nói về vấn đề trí thức trước, sau đó sẽ là vấn đề xuất thân. Tôi thấy rằng ở nước ta không có đại biểu trí thức lớn. Bởi vì như thế này: anh có thể học rộng, có kiến thức rộng, nhưng chưa có trí thức lớn. Tiêu chuẩn đầu tiên của trí thức lớn là phải độc lập về tư tưởng, phải suy nghĩ bằng chính cái đầu của anh, và anh phải thể hiện ra trong các hoạt động bằng chính cái tư tưởng, suy nghĩ của anh.

talawas: Trần Đức Thảo là một trí thức lớn?

Nguyễn Đình Chính: Tôi nghĩ rằng Trần Đức Thảo là một triết gia có biệt tài hiệu đính chủ nghĩa Marx thì đúng hơn. Thế còn bây giờ chúng ta nhìn cả một cái đội ngũ bằng bằng xem sao, có thể gọi là rất nhiều ông có học vị cao, rất nhiều ông làm cái này cái kia, nhưng có cái gì là những tư tưởng, suy nghĩ độc lập của các ông ấy không? Hay là anh chỉ làm theo một cái vệt đã định trước rồi. Thế nên ông bố tôi, anh Thi, khi còn sống có nói với tôi thế này: Ở mình nó có sẵn một cái đường ray rồi, mọi người chỉ còn có một việc là chạy trên đó thôi.

talawas: Chính ông Thi đã nói như vậy?

Nguyễn Đình Chính: Vâng, Có sẵn một cái đường ray rồi, chỉ còn có một việc là chạy trên đó thôi. Thế thì làm sao có thể sản sinh ra trí thức lớn được. Tôi nghĩ rằng ở mình không có trí thức lớn. Cách mạng không đào tạo được trí thức lớn. Nguyễn Đình Thi không phải là một trường hợp ngoại lệ. Mặc dù hội tụ rất nhiều điều kiện cần, Nguyễn Đình Thi vẫn thiếu một cái điều kiện đủ để trở thành một trí thức lớn.

talawas: Còn về xuất thân?

Nguyễn Đình Chính: Nguyễn Đình Thi xuất thân trong một gia đình dân dã. Nghe nói cụ nội tôi là một ông Tây đen Ấn Độ gác cửa hàng vải, nên cái mũi ông Thi giống cái mũi Ấn Độ. Bà em gái tôi giống bà Gandhi như lột ấy. Ngày xưa những cửa hàng vải ở Hà Nội, người ta vẫn thuê Tây đen (Chà Và, Ấn Độ) gác. Còn vợ của cái ông Ấn Độ này là một bà người Tàu chính cống. Ông nội tôi là một thầy ký bưu điện, rất giỏi tiếng Pháp. Tính nết cụ ngang ngạnh nên bị tống sang Lào, trông coi một trạm bưu điện nhỏ ở Lu’ang Prabang. Năm 1987 khi có dịp sang Lào, tôi có đến đấy. Bé tí. Ông tôi lấy bà nội tôi ở bên Lào và đẻ ra ông Thi năm 1924 ở Lào. Gần chục năm sau gia đình mới trở lại Việt Nam.

talawas: Vậy Nguyễn Đình Thi biết tiếng Lào?

Nguyễn Đình Chính: Tôi không biết. Tôi chỉ biết bố tôi ăn của nếp rất giỏi. Cho đến già vẫn vậy, ông ấy có thể ăn của nếp từ ngày này qua ngày khác. Hồi bà nội tôi ở bên Lào, bây giờ gọi là Việt kiều đấy, bà đi làm bánh rán để bán. Và khi về Việt Nam thì bà tôi đã đi ngựa suốt từ Lu’ang Prabang về tới tận Hà Nội. Thế đấy, cái gia đình tôi nó tầm thường như vậy, có mà đốt đuốc to tướng, cháy đùng đùng cố mà tìm ra một cái gốc gác quan lại, nho học, trí thức, thượng lưu như bao gia đình khác cũng không được. Sự thật là nó không có. Thế nên bố tôi vẫn nói với anh em tôi là: nhà mình là nhà dân dã.

talawas: Và cha anh là người đầu tiên làm sáng danh dòng họ...

Nguyễn Đình Chính: Đúng rồi. Khi từ Lào về, ông bà nội tôi rất chua chát, nên quyết tâm dành dụm cho con đi học. Nhưng được cái là anh Thi học rất giỏi, học khét tiếng, nhất Đông Dương chứ không phải đùa. Anh cứ hỏi những người cùng học với anh Thi xem.

talawas: Ông ấy học trường nào?

Nguyễn Đình Chính: Trường Bưởi. Không đủ tiền vào trường Albert Sarraut. À, hồi bé anh Thi hát rất hay. Đến nỗi một ông người Pháp sẵn sàng nhận làm con nuôi để đưa sang Pháp đào tạo thành ca sĩ cơ mà. Thế nhưng gia đình thì sợ không dám cho đi xa. Anh Thi hát hay lắm, và chỉ biết đánh đàn mandolin thôi. Chứ còn piano không biết đâu. Sau này về già con cháu nó có dạy mới biết đánh. Khi sáng tác bài "Người Hà Nội", ông ấy cứ mổ cò thế này. Hồi ấy có cái piano vứt ở chỗ sơ tán, thế là anh Thi đến cứ mổ cò sáng tác. Cả "Người Hà Nội" lẫn "Diệt phát xít".

talawas: Trước năm 1945 người ta đã biết đến Nguyễn Đình Thi với các khảo cứu về triết học Nietzsche, Descartes…

Nguyễn Đình Chính: Lại phải minh bạch cái chuyện triết học này. Từ năm 1945 trở về trước, anh Thi có in 7 quyển về triết, nhưng chưa bao giờ tự nhận là một nhà triết học. Những cuốn sách đó gần giống những bài giảng tóm tắt tư tưởng của Descartes, Spinoza, Kant... Nhưng anh Thi cũng nói rằng khi tóm tắt, anh ấy có cho thêm những ý nghĩ riêng vào đấy. Nhưng mà cũng ở cái bậc rất là sơ đẳng. Tóm lại, tất cả chỉ có thế. Anh Thi không thích triết học.

talawas: Nguyễn Đình Thi không thích triết học?

Nguyễn Đình Chính: Đúng. Anh ấy bảo anh ấy không thích triết học. Nhưng tôi biết anh Thi và Trần Đức Thảo rất thân nhau. Cái thời kì khó khăn ấy, Trần Đức Thảo hay đến nhà tôi. Và khi tôi xuất ngũ thì anh Thi nói với Trần Đức Thảo: Đây là cái thằng con tôi, nó dốt nát lắm, tôi gửi anh, anh dạy cho nó một ít. Và khi ông Thảo dạy tôi, ông ấy nói với anh Thi: thằng con anh, cái đầu nó thế nào ấy, tôi nói cái gì nó cũng vặn lại. Trong kháng chiến chống Pháp, khi Trần Đức Thảo về Việt Bắc, Xuân Thuỷ lập tức mời anh Thi lên để tiếp Trần Đức Thảo vì nghĩ rằng trong đám trí thức, Thi còn biết chút ít về triết học.

talawas: Nhưng ít nhất ông Thi cũng đọc Karl Marx chứ?

Nguyễn Đình Chính: Tôi không biết. Tôi chỉ biết Nguyễn Đình Thi là cậu học trò chăm chỉ suốt đời. Tiếng Pháp rất giỏi, thế nhưng đến gần 80 tuổi vẫn học. Tôi hỏi: Tiếng Pháp bố giỏi thế còn học gì nữa. Anh ấy bảo: Cái tiếng nó chuyển động từng ngày ấy, không học sao được.

talawas: Xin tóm tắt lại một chút. Nguyễn Đình Thi có cụ tổ 4 đời là người Ấn Độ và Trung Quốc. Sinh năm 1924 ở Lào. Về Việt Nam năm 1932. Lấy vợ năm 1942 (năm 18 tuổi), đồng thời bắt đầu xuất hiện trong giới trí thức văn nghệ sĩ với các bài tóm lược triết học. Tham gia hoạt động Hội Văn hoá Cứu quốc do Đảng Cộng sản lập ra. Bị Pháp bắt đi tù 2 lần (năm 1941 và năm 1944). Năm 1946 ông là tổng thư ký của Hội Văn hoá Cứu quốc và là đại biểu trẻ nhất của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau này ông còn là tổng thư kí Hội Nhà văn và là chủ tịch uỷ ban toàn quốc các Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Như vậy có thể nói trong giới văn nghệ, Nguyễn Đình Thi là người có quyền lực thứ 2, chỉ đứng sau Tố Hữu.

Nguyễn Đình Chính: Tôi nghĩ cũng có thể là như vậy.

talawas: Ông có thể cho biết nhận xét của ông về vai trò của Nguyễn Đình Thi trong vụ trấn áp các văn nghệ sĩ tham gia phong trào Nhân văn-Giai phẩm?

Nguyễn Đình Chính: Tôi chưa tiếp xúc trực tiếp với hồ sơ của vụ Nhân văn-Giai phẩm. Vả lại những năm xẩy ra vụ NVGP tôi còn nhỏ tuổi. Tôi chỉ biết vụ này qua di cảo của Nguyễn Đính Thi để lại và nghe ngóng theo cái kiểu lê la mách lẻo. Cả hai nguồn tin này tôi đều không tin lắm. Vì vậy, cho phép tôi không trả lời câu hỏi này.

talawas: Ông ngại chăng?

Nguyễn Đình Chính: Di cảo của Nguyễn Đình Thi, theo di chúc của ông, tới năm 2014 mới được công bố. Còn đối với tôi thì đây là một vấn đề cũ rích mà người ta đã đào bới nát bươm, bốc mùi không thể ngửi được. Tuy nhiên tôi nghĩ theo kiểu ngồi lê mách lẻo thì việc hồi đó anh em văn nghệ sĩ gào lên đòi tự do sáng tác là một vấn đề ngây thơ và đáng yêu. Nhưng có lẽ chúng ta đã bị đánh lừa. Và cho đến bây giờ chúng ta vẫn bị đánh lừa. Thực chất bên trong của vụ NVGP, theo tôi không phải là vấn đề văn nghệ mà cũng chưa đủ sang trọng là một vấn đề chính trị.

talawas: Vậy thì nó là một vấn đề gì?

Nguyễn Đình Chính: Ẩn giấu bên dưới là những âm mưu, những đầu cơ vốn liếng chính trị cá nhân để tự bảo vệ mình nhằm tranh giành quyền lực ở văn nghệ và cũng ở một nơi khác ngoài văn nghệ. Đám anh em văn nghệ sĩ chỉ là những quân bài, những bung xung bị đem thí như thí tốt. Tôi có thể nói rằng lịch sử của phong trào văn nghệ Việt Nam mấy chục năm qua có hai trận thư hùng tranh giành quyền lực lãnh đạo rất vô đạo đức được núp dưới hai cái vỏ bọc rất mỹ miều. Trận thứ nhất là vụ Nhân văn-Giai phẩm năm 1956 và trận thứ hai là vụ văn nghệ đổi mới năm 1990. Di cảo của Nguyễn Đình Thi có giải mã cả hai vụ này. Có đúng sự thật hay không thì tôi không biết. Nhưng đó là một quả bom. Và chúng ta hãy kiên trì đợi quả bom đó nổ vào năm 2014, nếu như từ bây giờ đến năm đó không có ai làm hộ anh Thi. Nhưng năm ngoái, một cụ nhà văn có gặp tôi và nói có đọc bài tôi trả lời phỏng vấn trên một tờ báo ở trong nước, rằng tôi có ý muốn cho di cảo Nguyễn Đình Thi một mồi lửa. Cụ nhà văn đồng ý với tôi là nên cho những phần tài liệu này trong di cảo của Nguyễn Đình Thi được hoá vàng. Theo cụ, nếu bóc mẽ cả hai vụ ra thì thảm hại quá cho cái giới văn nghệ này. Thế giới ngưòi ta cười cho thối ruột.

talawas: Thưa nhà văn Nguyễn Đình chính, đấy là ý kiến của riêng ông. Nhưng chúng tôi vẫn cứ nghĩ rằng...

Nguyễn Đình Chính: Anh cho phép tôi cắt ngang nhé. Anh cứ thoải mái suy nghĩ. Nhưng anh cũng có thể bớt xúc động nếu như anh đang xúc động. Và anh có thể vui mừng nữa nếu như anh biết rằng năm 2006, Hội Nhà văn Việt Nam đã đề nghị trao giải thưởng quốc gia cho mấy thi nhân bị đánh đập, tù đầy trong vụ Nhân văn và nghe đâu một thủ lĩnh sáng chói trong vụ đổi mới văn nghệ 1990 còn đang làm mình làm mẩy vòi vĩnh Giải thưởng Hồ Chí Minh cơ đấy. Hai vụ thư hùng đó khiến biết bao văn nghệ sĩ khốn đốn nhưng, cũng phải công bằng nói rằng nhờ đó mà có không ít ông nhà văn hạng 2, viết thì rất xoàng nhưng đã kiếm lời. Họ nổi tiếng như cồn không phải nhờ tác phẩm mà nổi tiếng nhờ sự tuẫn nạn, đấm đá và sát phạt nhau. Ô là là. Một ông bạn người Pháp của tôi đã nói, đấy là một trong những cái gì đó như là một thuộc tính thuộc địa còn rơi rớt lại trong một nền văn nghệ thô sơ. Thôi nhé, có lẽ chúng ta cho qua vấn đề mà tôi đang ăn ốc nói mò này đi, kẻo rác tai bạn đọc talawas.

talawas: Vậy chúng ta chuyển sang chủ đề thứ hai: vể quyển tiểu thuyết Đêm thánh nhân của ông, một cuốn sách mà năm 1999 đã bị cấm tái bản ngay sau khi mới phát hành được vài tháng.

Nguyễn Đình Chính: Tôi viết tiểu thuyết này từ năm 1990. Năm 1999 thì được in phần 1. Sau đó chưa kip in tiếp phần 2 thì bị cấm. Năm 2006 thì được in cả 2 phần nhưng đổi tên là Ngày hoàng đạo.

talawas: Tại sao lại đổi tên như vậy? Cái tên Đêm thánh nhân nghe thích hơn.

Nguyễn Đình Chính: Đổi tên như vậy cho đỡ bị xúi quẩy. Một vài người bạn văn của tôi khuyên như thế.

talawas: Ông tự đánh giá Đêm thánh nhân là một tiểu thuyết như thế nào trong hơn 10 tiểu thuyết ông đã cho xuất bản?

Nguyễn Đình Chính: Là cuốn sách không viết theo trường phái HTXHCN.

talawas: Mà theo trường phái gì?

Nguyễn Đình Chính: Trong một bài viết gửi cho tôi từ năm 1999 ngay sau khi Đêm thánh nhân vừa được xuất bản, nhà thơ Thanh Thảo có nhắc tôi sau khi viết xong tiểu thuyết này thì nên giật mình bừng ngộ nghiền ngẫm luận điểm của Milan Kundera về cách cấu tạo một cuốn tiểu thuyết là đặt cạnh nhau những không gian cảm xúc khác nhau và đấy là nghệ thuật tinh vi nhất của nhà tiểu thuyết. Còn ông Đặng Tiến ở Paris thì nhận định: Tóm lại Đêm thánh nhân của Nguyễn Đính Chính, tiểu thuyết vừa truyền kỳ vừa quái đản, là một thành tựu của văn chương huyền ảo, một thể loại văn học mới dù rằng đã có gốc rễ xa xưa tại Việt Nam, một thể loại đang đà phát triển trên thế giới...

talawas: Trước khi viết Đêm thánh nhân, ông có xem xét tới hai luận điểm trên?

Nguyễn Đình Chính: Thú thực là không. Tôi đã trả lời nhà văn Hoà Vang trong bài phỏng vấn đăng trên báo Tiền phong ngày 22 tháng 7 năm 1999 là tiểu thuyết Đêm thánh nhân tôi viết theo trường phái văng mạng. Có vậy thôi.

talawas: Những cuốn sách khác của ông được giới phê binh nhắc đến, nhưng Đêm thánh nhân từ lúc in ra mấy tháng nay rồi vẫn không được một nhà phê bình văn học nào trong nước động bút tới, ngoại trừ dăm nhà báo trẻ tuổi viết một cách vội vàng, phần lớn chỉ chăm chú vào cái việc ông không dùng dấu phẩy trong câu văn và ca ngợi sách bán chạy.

Nguyễn Đình Chính: Nói như nhà văn Hoàng Hũu Các thì Đêm thánh nhân là một cuốn sách rất khó đọc vì khi đọc xong ta lại rơi vào trạng thái mơ hồ, hình như khó nắm bắt được một cái gì rõ ràng, tất cả đều hư hư, thực thực. Ai cũng có thể đọc một mạch hết ngàn trang sách nhưng thật khó đọc hết Đêm thánh nhân, cho dù người đó là một nhà văn, một nhà thơ, một nhà văn hoá hay một nhà triết học, nhất là những người lâu nay vẫn được dạy dỗ cách tìm tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Vả lại Đêm thánh nhân vốn là một cuốn sách đã có tì vết. Cũng có thể vì thế mấy ông nhà giáo làm cái công việc phê bình chưa động bút tới vì họ đang còn đang thận trọng nghe ngóng.

talawas: Có chắc như vậy không, hay là vì những nhà phê bình chưa tìm được cách đi vào tác phẩm này?

Nguyễn Đình Chính: Cũng có khi như vậy. Nếu anh nghĩ nhiều về vấn đề này thì anh có thể trực tiếp hỏi họ xem sao. Đã mấy năm nay rồi tôi không còn quan tâm tới người đọc sách của tôi, dù đó có là một học giả oai phong chữ nghĩa, hay đấy là cả một đám đông cuồng nhiệt mắc bệnh lên đồng, a dua.

talawas: Vì sao vậy?

Nguyễn Đình Chính: Vì tôi không còn tin vào họ nữa.

talawas: Ông không tin vào giới phê binh văn học trong nước hiện nay?

Nguyễn Đình Chính: Tôi nghĩ rằng có lẽ họ không tồn tại. Nếu như họ tồn tại thì hỏi rằng bao nhiêu năm tháng qua họ đã làm được những việc hữu ích gì cho nền văn học nước nhà, hay chỉ đua nhau làm đảo lộn mọi giá trị nghệ thuật, tha hoá thẩm mỹ của đám đông người đọc.

talawas: Dù sao thì đội ngũ phê bình văn học trong nước hiện hữu rất hùng hậu. Hai hội nghị bàn về văn học ở Tam Đảo và Đồ Sơn chẳng đã chứng minh điều đó hay sao?

Nguyễn Đình Chính: Đó là hai hội nghị vô bổ chẳng có tác động gì tới nền văn học trong nước hiện nay. Cái họ đạt được là đã tiêu xài hai món tiền thuế khá lớn của nhân dân và gặt hái được khá không ít chê bai của dư luận ở cả trong nước và ngoài nước.

talawas: Đâu có vô bổ. Trong hội nghị ở Đồ Sơn, nhà thơ Hoàng Hưng đã đọc một bài tham luận về tự do sáng tác rất được dư luận quan tâm.

Nguyễn Đình Chính: Tự do sáng tác là một thuộc tính rất cá biệt chỉ thuộc riêng nhà văn. Không một thế lực nào có thể tước đoạt cái quyền đó ngoại trừ chính nhà văn. Có gì mà phải mang ra tham luận ở chỗ đông người.

talawas: Bản tham luận của ông Hoàng Hưng nhấn mạnh vấn đề cơ chế xuất bản các tác phẩm...

Nguyễn Đình Chính: Tôi có đọc bản tham luận đó rồi. Đây là ý kiến của tôi. Hiện nay ở trong nước, đồng hành với những tác phẩm sáng tác theo trường phái HTXHCN, rất nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật (văn, thơ, nhạc, hoạ...) sáng tác theo các khuynh hướng, trường phái nghệ thuật khác vẫn được xuất bản, công bố rộng rãi. Đó là một thực tế không thể phủ nhận. Việc đình bản, thu hồi một vài tác phẩm phải được xem xét ở trách nhiệm, quyền hạn của cái nơi thu hồi đó có thực thi đúng như bộ luật xuất bản đã ban hành hay không, có lạm quyền hay không. Ông Hoàng Hưng có thể chưa thoả mãn với các điều mục trong bộ luật xuất bản. Theo tôi, ông Hoàng Hưng nên tìm một nơi khác để bày tỏ ý kiến của mình thì có hiệu quả hơn. Nơi đó là Quốc hội. Đáng lẽ ra thì Hội Nhà văn Việt Nam và báo Văn nghệ phải rất coi trọng vấn đề này. Nhưng tôi e rằng đây là một việc quá sức của họ. Chao ôi! Hội Nhà văn...

talawas: Nhắc đến Hội Nhà văn… Nghe nói ông đang muốn xin ra khỏi Hội này?

Nguyễn Đình Chính: Đã rất lâu rồi Hội Nhà văn không còn hấp dẫn với tôi nữa. Năm 1999 tôi đã viết đơn xin ra khỏi Hội với lý do tôi chẳng giúp gì được cho Hội và Hội cũng chẳng giúp gì được cho tôi. Nhưng rồi mấy ông lãnh đạo Hội bảo rằng tôi làm như thế là có ý tạo xì-căng-đan gây phiền nhiễu Hội. Ông Nguyễn Đình Thi là thành viên sáng lập Hội. Nay ông Nguyễn Đình Chính lại xin ra Hội. Phiền hà lắm, sẽ gây hiểu lầm ảnh hưởng tới đại hội toàn quốc các nhà văn sẽ khai mạc vào năm 2000.

talawas: Và thế là ông lại không ra khỏi Hội nữa?

Nguyễn Đình Chính: Tất nhiên.

talawas: Bây giờ ông lại muốn xin ra?

Nguyễn Đình Chính: Tôi chẳng quan tâm tới cái việc vào hay ra này nữa. Tôi đang có ý tưởng cùng một số anh em tổ chức một cái câu lạc bộ gần giống như một công ty để giúp đỡ nhau hoạt động văn nghệ cho đỡ buồn. Rất tiếc là chưa được phép ra báo tư nhân. Nếu được phép thì mấy anh em bạn văn chúng tôi sẽ ra một tờ báo văn nghệ cho... vui.

talawas: Dù sao thì bây giờ Hội Nhà văn cũng là tổ chức duy nhất tập hợp các nhà văn Việt Nam ở trong nước. Ông nghĩ gì về sự tồn tại của tổ chức này?

Nguyễn Đình Chính: Đây là một tổ chức độc quyền về văn học được ra báo, tạp chí, có nhà xuất bản riêng và được trả lương, được bao cấp kinh phí hàng tỷ đồng một năm, gần giống như một cơ quan, xí nghiệp của nhà nước. Có lẽ chính vì vậy mà hàng chục năm nay nhiều cá nhân, nhiều bè cánh, nhiều phe phái các nhà văn trong nước đã đấm đá tranh nhau nhẩy vào ban chấp hành để nắm lấy Hội Nhà văn. Theo thiển nghĩ của tôi thì lịch sử hấp dẫn nhất, đáng nhớ nhất và cũng buồn cười nhất của Hội Nhà văn hai chục năm qua chính là những cuộc đấu đá tranh giành quyền lực vừa hèn hạ vừa khôi hài qua mấy kỳ đại hội nhà văn toàn quốc gần đây. Và cũng theo thiển nghĩ của tôi thì Hội Nhà văn hiện nay là mầm mống, là cái nơi gây mất đoàn kết, chia rẽ, làm tổn hại tới tình bằng hữu của các nhà văn. Đại hội toàn quốc các nhà văn Việt Nam vừa rồi dự kiến 15 vị trong ban chấp hành nhưng chỉ bầu được chính thức có 3 vị. Sau đó bầu lần 2 vớt vát thêm 3 vị nữa. Hình như thế. Tôi không đi bầu nhưng nhận được thông tin như vậy. Chỉ riêng điều đó thôi đã thấy sự bè phái, chán ngán của đội ngũ các nhà văn Việt Nam hiện nay như thế nào rồi. Nghe nói bây giờ mấy ông già và mấy ông bà trẻ trong ban chấp hành đang cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt. Có đúng như vậy không nhỉ? Nếu thế thì còn chờ gì nữa, nên giải tán Hội Nhà văn và tìm một phương thức tổ chức khác.

talawas: Giải tán Hội Nhà văn?

Nguyễn Đình Chính: Vâng. Hình như anh có vẻ ngạc nhiên. Có gì mà ngạc nhiên.

talawas: Theo ông thì nên tìm một phương thức tổ chức nào cho các nhà văn nếu giải tán Hội?

Nguyễn Đình Chính: Tôi không quan tâm tới việc này. Tốt nhất là các nhà văn Việt Nam không nên ngồi nhận lương viết văn. Ai giỏi thì nên tự trả lương cho mình bằng nhuận bút, còn thì nên kiếm sống bằng một nghề nào đó trong xã hội. Như thế cũng là thiết thực giúp cho chính phủ tinh giảm biên chế. Trước tiên hãy giải tán Hội Nhà văn ở trung ương. Vì sao? Hiện nay hầu như tỉnh nào cũng có Hội Nhà văn của tỉnh đó rồi. Nếu mấy ông nhà văn nào không ưng vào Hội Nhà văn tỉnh mà lại cứ thích đàn đúm thì họp nhau lại thành nhóm, thành câu lạc bộ mà đi lại với nhau, giúp đỡ nhau sáng tác nghệ thuật, nếu cái công việc sáng tác nghệ thuật ấy cần đông người.

talawas: Nhưng nếu rất nhiều nhà văn có nguyện vọng xin thành lập Hội Nhà văn thì sao?

Nguyễn Đình Chính: Thì cứ cho họ thành lập, giống như cho thành lập các hội nuôi ong, hội cây cảnh... Nhưng chính phủ không nên trích tiền thuế của dân ra hàng tỷ đồng, thậm chí hàng chục, hàng trăm tỷ đồng để nuôi báo cô mấy ông nhà văn lười viết văn, chỉ ham hố say mê hội hè. Chiều chuộng quá là... Con hư tại mẹ đấy.

talawas: Nhưng dù sao thì hiện nay Hội Nhà văn Việt Nam cũng có tác dụng tập hợp, quản lý các nhà văn để họ không… nổi loạn.

Nguyễn Đình Chính: Đấy là một ý kiến độc ác, bôi nhọ các nhà văn Việt Nam hiện nay. Tôi cam đoan các nhà văn không bao giờ dám nổi loạn. Thế lực chính trị nào ở trong nước và ở ngoài nước mà hy vọng và mong muốn các nhà văn Việt Nam nổi loạn thì thật là ngây thơ.

talawas: Tại sao, thưa ông?

Nguyễn Đình Chính: Vì các nhà văn Việt Nam hiện nay (trong đó có tôi) là những người vô cùng nhút nhát và đặc biệt là rất tôn trọng, nếu không muốn nói là rất sợ pháp luật. Người liều mạng nhất đã tự thiến mình đi để sẵn sàng làm giặc là nhà văn Dương Thu Hương thì cũng vừa chạy sang xin định cư ở Pháp để chuyên tâm vào công việc viết tiểu thuyết rồi. Những ai e sợ các nhà văn sẽ nổi loạn thì hãy yên tâm. Còn những ai hy vọng các nhà văn Việt Nam sẽ nổi loạn thì tôi thành thật khuyên các vị hãy tự mình dập tắt niềm hy vọng đó đi. Dã tràng xe cát biển Đông mà thôi.

talawas: Rất cám ơn nhà văn Nguyễn Đính Chính đã trả lời phỏng vấn này. Ông có cần nói thêm điều gì với độc giả talawas?

Nguyễn Đình Chính: Tôi rất biết rằng nhà văn thì nên đứng ra ngoài lề xã hội, ngậm miệng ăn tiền, ngồi quay mặt vào tường mà viết văn thì mới là nhà văn lớn, mới là nhà văn khôn ngoan, biết điều. Nói nhiều là ngu. Càng nói càng dại. Có lẽ tôi đang là một ví dụ cụ thể. Nhưng anh đã hỏi thì tôi cũng xin có nhời. Đất nước đang tiến vào vận hội mới. Toàn dân tộc đã thoát ra khỏi cơn ngái ngủ bao cấp, ỷ lại rồi. Thú thực nhé, là một người trong cuộc mà tôi cũng chẳng hiểu văn nghệ Việt Nam hôm nay đã chạy thoát ra khỏi cơn ngái ngủ bao cấp đó chưa?

talawas: Chân thành cám ơn ông.

© 2007 talawas