Joseph E. Stiglitz
3. Phê phán định lí cơ bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi
Trong chương này và chương tiếp theo tôi quay lại các định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi. Trong chương này tôi lập luận rằng định lí cơ bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi - khẳng định tính hiệu quả của các nền kinh tế cạnh tranh - là sai về căn bản. Hoàn toàn ngược với định lí ấy, các nền kinh tế cạnh tranh hầu như không bao giờ hiệu quả (trong ý nghĩa chính xác được định nghĩa dưới đây). Chương tiếp theo trình bày một phân tích phê phán tương tự đối với định lí cơ bản thứ hai của kinh tế học phúc lợi. Trong cả hai chương tôi tập trung vào các vấn đề nảy sinh từ các giả thiết về thông tin hoàn hảo và tập đầy đủ của các thị trường. Các vấn đề khác, như các vấn đề liên đới tới các giả thiết khác của các định lí này như sự thiếu vắng của thay đổi công nghệ nội sinh, được bàn đến trong các chương sau.
Định lí căn bản thứ nhất khẳng định rằng mọi nền kinh tế cạnh tranh đều có hiệu quả Pareto. Đây là sự thể hiện hiện đại của phỏng đoán về bàn tay vô hình của Adam Smith:
Con người có nhu cầu hầu như liên tục đến sự giúp đỡ của đồng loại, và thật vô dụng đi kì vọng chỉ vào lòng nhân từ của họ. Anh ta chắc sẽ thành công hơn nếu có thể khêu gợi tính ích kỉ của họ để có lợi cho mình, và chỉ cho họ thấy rằng làm cho anh ta cái mà anh ta yêu cầu họ làm chính là vì mối lợi riêng của họ… Chúng ta có bữa ăn không phải là từ lòng nhân từ của người hàng thịt, người cất rượu bia, hoặc người làm bánh mì, mà là từ sự quan tâm của họ đến lợi ích riêng của mình. Chúng ta chăm chú, không phải vào lòng nhân đạo của họ mà vào tính ích kỉ của họ, và đừng bao giờ nói với họ về những nhu cầu riêng của chúng ta mà về các mối lợi của họ.
Smith tiếp tục mô tả tư lợi dẫn tới lợi ích xã hội ra sao:
Anh ta chỉ muốn lợi riêng của mình, và anh ta trong trường hợp này như trong bao nhiêu trường hợp khác, được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình để thúc đẩy một mục đích không phải là một phần chủ ý của anh ta. Cũng chẳng phải là tồi hơn với xã hội vì đó không phải là một phần của chủ ý. Bằng cách theo đuổi tư lợi riêng anh ta thường thúc đẩy lợi ích của xã hội hữu hiệu hơn so với khi anh ta chủ ý thúc đẩy nó.
[1]
Chính định lí phúc lợi thứ nhất tạo nền tảng cho lòng tin của chúng ta vào các nền kinh tế thị trường. Giống như bất kể định lí nào, những kết luận của nó phụ thuộc vào tính hiệu lực của các giả thiết. Khảo sát kĩ các giả thiết, tuy vậy, gợi ý rằng định lí đó có tính thoả đáng hạn chế đối với các nền kinh tế công nghiệp hiện đại.
Các định lí Greenwald-Stiglitz về tính hiệu quả của các thị trường cạnh tranh [2]
Thường lí thú khi lưu ý các giả thiết nào mà một tác giả nêu bật, bằng cách gán cho chúng các nhãn "giả thiết A.1 … A.10" và các giả thiết nào là ngầm định, bất luận cố ý hay không: các giả thiết ngầm định có trong mọi mô hình, đó là các giả thiết được đưa ra một cách tình cờ, dường như không hơn một sự nhắc nhở đến cách dùng thông thường, hoặc là các giả thiết được bao hàm trong các định nghĩa cơ bản nào đó. Ý niệm rằng cân bằng thị trường phải được đặc trưng bởi cầu bằng cung, thí dụ, được đưa ra như một phần của định nghĩa về cân bằng trong mô hình cạnh tranh chuẩn. Ngụ ý rằng phải là hiển nhiên nếu cầu không bằng cung, thì sẽ có các lực lượng thay đổi, sao cho tình trạng không phải là một cân bằng.
[3] Công trình mới đây về các nền kinh tế với thông tin không hoàn hảo đã chỉ ra rằng kết luận đó là không đúng; cân bằng thị trường cạnh tranh
[4] có thể được đặc trưng bởi cầu vượt cung (như trong các mô hình Stiglitz-Weiss 1981 về phân phối tín dụng) hoặc bởi cung vượt cầu (như trong mô hình Shapiro-Stiglitz 1984 về thất nghiệp với lương hiệu quả).
[5] Tương tự mô hình cạnh tranh chuẩn bắt đầu với giả thiết ngầm về một hệ thống giá tuyến tính (một giá cố định cho một đơn vị hàng được mua), trong khi bây giờ chúng ta biết rằng các thị trường cạnh tranh với thông tin không hoàn hảo được đặc trưng bởi hệ thống giá phi tuyến tính, trong đó, thí dụ, có giảm giá theo số lượng.
[6] Giả thiết chuẩn rằng cân bằng cạnh tranh dẫn tới lợi nhuận bằng không cũng có thể được chỉ ra là không đúng đắn trong các mô hình với thông tin không hoàn hảo.
[7]
Tầm quan trọng của các giả thiết thông tin
Sự thật, rằng có nhiều đến như vậy các kết quả chuẩn không còn đúng khi các giả thiết cực đoan về thông tin hoàn hảo được bỏ đi, nhấn mạnh đến tầm quan trọng chung -và cho đến tận mới đây, chưa được nhận ra một cách đầy đủ - của các giả thiết thông tin trong phân tích cân bằng cạnh tranh. Những lo ngại về các giả thiết ngầm định cũng có tầm quan trọng ngang thế đối với vấn đề ngay sau- đánh giá những cách khả dĩ khác nhau của tổ chức nền kinh tế. Định lí thứ nhất của kinh tế học phúc lợi dựa trên cơ sở giả thiết rằng có thông tin hoàn hảo, hoặc chính xác hơn, rằng thông tin là cố định - và đặc biệt không bị tác động bởi bất kể hành động của bất kể cá nhân nào, bất kể giá nào, hoặc bất kể biến số nào ảnh hướng bởi hành động tập thể của các cá nhân trong thị trường- và rằng có một tập đầy đủ của các thị trường rủi ro. Hễ khi nào các điều kiện này không thoả mãn thì thị trường là không hiệu quả Pareto hạn chế; tức là, có những can thiệp của chính phủ có thể cải thiện phúc lợi một cách rõ ràng. Những can thiệp này tôn trọng những hạn chế về các thị trường và chi phí thông tin (và marketing) hệt như những hạn chế ảnh hưởng đến kinh tế tư nhân. Thực vậy can thiệp của chính phủ có thể tỏ ra đáng mong mỏi, ngay cả nếu chính phủ có các công cụ rất hạn chế, thí dụ, chính phủ bị hạn chế đối với giá đơn giản (tuyến tính) và can thiệp trọn gói
[8] đồng đều. Ngoài ra, bản chất (và thậm chí độ lớn) của những can thiệp đáng mong có thể có quan hệ với các tham số thị trường có thể quan sát được, như các nhóm dân cư khác nhau phản ứng với những thay đổi về lương và giá ra sao.
[9]
Theo một nghĩa, thành tự vĩ đại của Debreu và Arrow là đã tìm ra một tập hầu như duy nhất của các giả thiết theo đó dự đoán về bàn tay vô hình của Adam Smith là đúng.
[10] Thực ra, có một vài trường hợp đặc biệt khác trong đó thị trường có thể có hiệu quả Pareto hạn chế. Thí dụ, thiếu các thị trường rủi ro sẽ không có hệ quả nào nếu mỗi người đều hệt như nhau và đối mặt với các cú sốc y hệt nhau, sao cho ngay cả nếu giả như có các thị trường rủi ro, thì sẽ chẳng có trao đổi nào trong đó;
[11] hoặc nếu giả như mọi hàng hoá do mọi cá nhân tiêu dùng đều có thể quan sát được, thì các nền kinh tế trong đó có hiểm hoả đạo đức vẫn sẽ có hiệu quả Pareto hạn chế.
[12] (Kinh tế học phúc lợi của các nền kinh tế với hiểm hoạ đạo đức được Prescott và Towsend khảo sát tỉ mỉ năm 1980. Những khác biệt trong kết luận giữa Greenwald-Stiglitz và Prescott-Towsend được cho là do những người sau tập trung vào trường hợp đặc biệt này mà Arnott và Stiglitz năm 1985 cũng như Greenwald và Stiglitz đã chứng minh là có hiệu quả).
Những tác động ngoại lai trong sự hiện hữu của thông tin không hoàn hảo và các thị trường không đầy đủ
Sự thấu hiểu cơ bản của Greenwald và Stiglitz là khi các thị trường không đầy đủ và thông tin không hoàn hảo, thì các hành động của các cá nhân có ảnh hưởng giống như ảnh hưởng ngoại lai lên những người khác, mà chúng không được tính đến. (Những tác động ngoại lai nhìn chung giống những tác động ngoại lai của "khí quyển" ở chỗ mức độ của chúng phụ thuộc vào hoạt động của tất cả mọi người cùng nhau). Một số thí dụ giúp minh hoạ vấn đề là gì:
- Các thị trường rủi ro không đầy đủ. Giả sử rằng có nhiều trạng thái tự nhiên, nhưng chỉ có một tài sản rủi ro, các cây táo. Số cây táo được trồng xác định (một cách ngẫu nhiên) số quả táo sản xuất ra trong năm tiếp theo, và số này đến lượt nó lại xác định giá và tính sinh lời của việc sở hữu một cây táo, trong mỗi trạng thái tự nhiên. Khi các cá nhân trồng nhiều táo hơn, phân bố xác suất của lợi tức từ trồng táo thay đổi, và vì các cây táo là các khoản đầu tư có rủi ro duy nhất, theo giả thiết, cứ như là một tài sản (phân bố xác suất cũ) được thay thế bằng một cái mới. Mỗi nhà đầu tư tất nhiên coi phân bố xác suất lợi tức là cho trước, ngay cả tuy nó có thay đổi khi nhiều cây táo được trồng hơn. Tác động của hành động của từng cá nhân lên phân bố xác suất như thế có thể xem như một tác động ngoại lai. [13]
- Chất lượng lao động thay đổi (chọn lọc có hại). Hãy xét vấn đề thông tin không hoàn hảo về chất lượng của người lao động. Các công ti có thể biết chất lượng trung bình của nhân công được chào trong một hội trường thuê nhân công. Họ cũng có thể biết chất lượng đó bị ảnh hưởng ra sao bởi lương được trả. [14] Cầu của họ về lao động, ở mỗi mức lương, sẽ phụ thuộc vào biến số chất lượng này. Mặt khác, mỗi người lao động, dù chất lượng cao hay thấp, lại không tính đến tác động của quyết định của mình liên quan đến lượng cung lao động lên chất lượng lao động trung bình (và một cách tương ứng lên cầu lao động). Thực ra, nếu những người lao động có chất lượng thấp quyết định cung cấp nhiều lao động hơn, ở bất kể mức lương cho trước nào, nó sẽ hạ thấp lợi nhuận của hãng. Các hành động của họ sẽ có ảnh hưởng ngoại lai đến các hãng. Theo cùng cách, là dễ đối với chính phủ để tác động đến hỗn hợp chất lượng, thí dụ, bằng cách đánh thuế hay bao cấp các hàng hoá có ảnh hưởng khác nhau lên cung lao động chất lượng thấp và các cá nhân có năng lực cao. [15]
- Các vấn đề khuyến khích (hiểm hoạ đạo đức). Các cá nhân mua bảo hiểm bởi vì họ không ưa rủi ro. Nhưng bảo hiểm có nghĩa là họ không phải chịu đầy đủ các hậu quả của các hành động của họ: Các khuyến khích của họ để loại trừ sự kiện được bảo hiểm bị yếu đi. Mỗi cá nhân coi phí bảo hiểm là cho trước. Tất nhiên, nếu tất cả mọi người ít cẩn thận hơn, thì sự kiện được bảo hiểm sẽ xảy ra thường xuyên hơn, và phí sẽ tăng lên.
Thí dụ này cũng chỉ ra chính phủ có thể đem lại một sự cải thiện Pareto ra sao. Bằng cách đánh thuế hay bao cấp các mặt hàng khác nhau, chính phủ có thể khuyến khích các cá nhân cẩn trọng hơn. Giả sử trường hợp được bảo hiểm là thiệt hại do cháy gây ra, và một nguyên nhân chính gây cháy là hút thuốc trên giường. Hút thuốc trên giường là đặc biệt nguy hiểm nếu người hút cũng uống quá nhiều. Có thể tưởng tượng, trên nguyên tắc, một hợp đồng bảo hiểm có điều kiện đòi hỏi người được bảo hiểm không được hút thuốc trên giường sau khi uống, nhưng điều này khó thực thi. (Công ti bảo hiểm có thể lắp các TV theo dõi trong mỗi phòng ngủ, nhưng một số người có thể coi điều này như xâm phạm riêng tư cá nhân). Nhưng bằng cách đánh thuế thuốc lá và rượu bia, chính phủ có thể ngăn bớt việc hút thuốc và uống rượu nói chung, và như kết quả phụ, cũng làm giảm bớt hút thuốc trên giường sau khi uống. Ít nhất với các khoản thuế nhỏ, phúc lợi tăng thêm từ giảm "hiểm hoạ đạo đức" có thể nhiều hơn khoản mất mát phúc lợi từ những méo mó (mất trắng) trong thói quen tiêu dùng do thuế gây ra.
[16] Chắc phải rõ là các khoản thuế và bao cấp phải được định sao cho chúng khuyến khích sự cẩn trọng, thí dụ, trợ cấp các mặt hàng bổ sung cho chăm sóc cẩn thận, và đánh thuế những mặt hàng thay thế. Các thuế suất tối ưu được định ra sao cho tại biên, lợi ích do sự cẩn trọng mang lại cân bằng với khoản mất trắng biên. Cả hai đại lượng này có thể được tính ra từ các đại lượng có thể quan sát được (thí dụ, các độ co giãn giá [riêng và chéo] đã được bù trừ của cầu và các độ co giãn của "cẩn trọng" đối với các giá khác nhau). Như vậy, trong khi các hãng bảo hiểm nhà nước và tư nhân không có thông tin cần thiết để ngăn ngừa hiểm hoạ đạo đức - chúng không thể trực tiếp kiểm soát các hành động- thì chính phủ lại có các công cụ để giảm nhẹ tác động của hiểm hoạ đạo đức và có thông tin cần thiết để dùng các công cụ đó.
[17]
Sức mạnh của chính phủ
Thí dụ này cũng minh hoạ cho những năng lực mà chính phủ có thể có, còn khu vực tư nhân thì không. Có một "định lí dân gian"
[18] (hoặc cái có thể gọi là một định lí dân gian, giả như nó đúng) phát biểu rằng bất kể cái gì chính phủ có thể làm, thì khu vực tư nhân cũng có thể làm như thế hoặc tốt hơn: Những ưu thế được cho là của chính phủ chỉ nảy sinh từ những so sánh "không công bằng", thí dụ, một chính phủ với thông tin không mất chi phí có thể cải thiện phân bổ thị trường, trong khi các thị trường phải đối mặt với thông tin tốn chi phí. Để loại trừ phê phán này mà tôi tập trung vào khái niệm về tính hiệu quả Pareto
hạn chế.
Nhưng vấn đề vẫn cần được đề cập: Chính phủ khác các tổ chức kinh tế khác ra sao? Vì sao nó có thể làm những thứ mà các tổ chức khác không thể? Đây là vấn đề được trình bày trong cuốn sách của tôi,
Vai trò kinh tế của Nhà nước - The Economic Role of the State, ở đó tôi lập luận rằng sức mạnh, năng lực cưỡng chế của chính phủ (kết hợp với tính chất thành viên phổ quát của nó) cho nó những ưu thế riêng biệt (và mối lo ngại về lạm dụng các quyền hạn đó gây ra những ràng buộc tạo thành những bất lợi riêng). Như vậy chính phủ có thể cấm sản xuất thuốc lá - không tư nhân nào hay nhóm cá nhân nào có thể làm điều này. (Tất nhiên, để thực thi việc cấm đoán này, chính phủ phải có năng lực để theo dõi sản xuất thuốc lá. Nếu giả như không có tính kinh tế theo qui mô trong sản xuất, thì có thể khó cho chính phủ để thực thi cấm đoán này. Nhưng với tính kinh tế theo qui mô đáng kể, nếu chính phủ không thể thực thi cấm đoán, nó có thể ít nhất tăng chi phí thuốc lá lên đáng kể). Tương tự, chính phủ có thể áp đặt thuế lên sản xuất mọi loại thuốc lá. Có thể có khả năng quan sát, và do đó có thể đánh thuế, sản xuất thuốc lá ngay cả khi không thể quan sát các mức tiêu thụ cá thể (không thể theo dõi trao đổi thứ cấp). Không hãng bảo hiểm tư nhân hoặc công ti thu hộ bảo hiểm nào có thể "buộc" tất cả các công ti thuốc lá trả thuế trên sản lượng của họ. Giả sử rằng chúng đút lót họ, bằng cách trả một khoản phụ thuộc vào khoản gia tăng giá của họ. Khi đó một công ti mới có thể tiến vào, đặt giá bớt một chút, chiếm hết khách hàng của họ, và kiếm lời. Đây chỉ là một minh hoạ cho sự thật rằng chính phủ quả thực có những năng lực mà khu vực tư nhân không có, những quyền lực mà trong một số trường hợp nhất định (nếu được dùng khéo) có thể tạo ra cải thiện Pareto. (Về các thí dụ khác, xem Stiglitz 1989f, 1991c).
Vài lưu ý về diễn giải các định lí Greenwald-Stiglitz
Các định lí Greenwald-Stiglitz và các định lí liên quan có ba diễn giải: Thứ nhất, như chúng ta đã thấy, trong các trường hợp nhất định chúng cung cấp những hình thức được nhận diện rõ về can thiệp của chính phủ mang lại cải thiện phúc lợi. Thứ hai, chúng gợi ý rằng có thể không có khả năng phi tập trung một cách có hiệu quả, theo cách như các định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi đã gợi ý. Tôi sẽ quay lại chủ đề này muộn hơn trong chương này. Thứ ba, và có lẽ quan trọng nhất, chúng
loại bỏ điều phỏng đoán phổ biến rằng các thị trường nhất thiết là cách hữu hiệu nhất để phân bổ nguồn lực. Phải nhắc lại, chẳng có định lí chung nào làm cơ sở cho kết luận đó. (Tất nhiên có các cơ sở khác để đi đến kết luận đó, một điểm mà tôi sẽ đề cập ngay).
Trong khía cạnh này các định lí Greenwald-Stiglitz trước hết không được coi là cơ sở cho việc vạch ra can thiệp của chính phủ. Một trong những lí do chúng không tạo cơ sở cho qui định can thiệp là, làm như vậy sẽ đòi hỏi một mô hình hình thức và chi tiết hơn về chính phủ. Khi định lí trung tâm của kinh tế học khẳng định rằng không chính phủ nào - bất kể nó nhân từ đến đâu, bất kể nó duy lí đến đâu - có thể làm tốt hơn chút nào so với thị trường, chúng ta ít cần đến một lí thuyết về chính phủ: nó chỉ có thể làm tồi tệ hơn. Nhưng các định lí Greenwald-Stiglitz khẳng định rằng có một vai trò
tiềm năng cho chính phủ. Liệu chính phủ có nên can thiệp và can thiệp thế nào là một vấn đề tôi sẽ quay lại sau. (Có lẽ, do các chính phủ là các định chế chính trị, câu trả lời sẽ phụ thuộc một phần vào hình thức mà các định chế này có hoặc có thể có. Các định lí cho chúng ta biết, nếu chính phủ quyết định can thiệp thông qua, thí dụ, thuế và trợ cấp, các tham số chủ chốt dựa trên đó thuế suất và tỉ lệ trợ cấp phải phụ thuộc vào).
Các lí do khác vì sao các nền kinh tế thị trường với thông tin không hoàn hảo có thể không có hiệu quả Pareto
Trong khi các định lí Greenwald-Stiglitz đưa ra lập luận mạnh mẽ nhất bác bỏ định lí căn bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi, nhiều kết quả khác của hệ thuyết thông tin đưa ra những phê phán căn bản ngang như thế. Tôi muốn lưu ý chỉ đến ba kết quả, hai trong số đó liên quan đến cách thức những cân nhắc lí thuyết thông tin dẫn đến kết luận rằng các giả thiết
khác của mô hình cạnh tranh chuẩn (mô hình tạo cơ sở cho định lí căn bản của kinh tế học phúc lợi) sẽ không được thoả mãn. Danh mục dưới đây không phải là toàn diện. Tôi cố tập trung vào cái tôi xem là các giả thiết
kinh tế chủ yếu.
[19]
Tính không đầy đủ của các thị trường
Chúng ta đã nhấn mạnh ở chương 2 đến tầm quan trọng trong hệ thuyết cạnh tranh chuẩn - và tính phi hiện thực- của giả thiết rằng có một tập đầy đủ của các thị trường, bao gồm một tập đủ của các thị trường rủi ro và kì hạn.
Các chi phí giao dịch
Tính đầy đủ của thị trường tự nó có thể được giải thích bằng các chi phí giao dịch, một thành phần quan trọng của chúng là các chi phí thông tin. Có các chi phí liên quan đến thiết lập thị trường. Giả như nếu có các thị trường cho mỗi trong hàng triệu hàng hoá, mỗi trong hàng tỉ các tình huống tuỳ thuộc, mỗi trong vô số các thời điểm tương lai, thì quá nhiều nguồn lực của xã hội bị hút vào việc tổ chức các giao dịch này đến mức chẳng còn mấy để mà mua và bán trên mỗi trong những thị trường này!
Một khi chúng ta thừa nhận có vô số sự kiện ảnh hưởng đến chúng ta, chúng ta công nhận là không thể có thậm chí một tập đầy đủ của các thị trường rủi ro (bảo hiểm mọi tình huống rủi ro). Mỗi xí nghiệp bị ảnh hưởng không chỉ bởi các sự kiện tác động đến ngành mà cả bởi các sự kiện cá biệt - bệnh tật của giám đốc, sự hỏng hóc của một chiếc máy, việc bỏ đi của một người bán hàng chủ chốt. Bản thân xí nghiệp có thể mua bảo hiểm cho nhiều rủi ro mà nó đối mặt, như bảo hiểm khi xe tải của nó gặp tai nạn hoặc cho cháy nhà máy, nhưng hầu hết các rủi ro mà nó phải đối mặt không thể được bảo hiểm. Quan niệm rằng có các thị trường cho mỗi trong những rủi ro này là không thể tin được.
Sự Không nhất quán giữa các giả thiết về "Các thị trường đầy đủ" và "các thị trường cạnh tranh"
Hệt như số chiều rất lớn của "các trạng thái tự nhiên" làm cho hiển nhiên rằng một tập đầy đủ của các chứng khoán đơn giản là không thể tồn tại, cũng thế do số chiều rất lớn của không gian các sản phẩm làm cho rõ ràng rằng một tập đầy đủ của các thị trường cho các mặt hàng không thể tồn tại, một khi chúng ta nhớ lại rằng các sản phẩm được định nghĩa bởi một đặc tả đầy đủ của các đặc trưng của chúng: Các sản phẩm có chất lượng khác nhau được coi là các mặt hàng khác nhau, và các sản phẩm được giao ở các thời điểm và các địa điểm khác nhau được coi là các mặt hàng khác nhau. Ý tưởng của Arrow và Debreu coi các mặt hàng tại các thời điểm và các trạng thái tự nhiên khác nhau như các mặt hàng khác nhau xem ra giống như một thủ thuật toán học khéo léo, cho phép mở rộng mô hình chuẩn tới một dải mới, rộng hơn của các vấn đề, nhưng khi khảo sát kĩ hơn thì linh hồn cơ sở của mô hình mất hiệu lực: Hoặc đơn giản không thể tồn tại một tập đầy đủ của các thị trường (giả như thế thì phải có một
thị trường cạnh tranh hoàn hảo cho việc giao một chiếc máy có đặc điểm kĩ thuật chi tiết đến một nhà máy tại một ngày nhất định vào một giờ cụ thể) hoặc, nếu giả như tồn tại một tập đủ các thị trường, thì khó có thể hình dung mỗi thị trường đó như một thị trường cạnh tranh "hoàn hảo" được (tức là có rất nhiều nhà buôn ở cả bên mua và bên bán sao cho mỗi thương gia tin rằng mình có ảnh hưởng không đáng kể lên giá). Tất yếu, các thị trường hẳn phải lèo tèo và cạnh tranh không hoàn hảo.
[20] Hãy xét, thí dụ, thị trường lao động. Mỗi cá nhân là khác biệt, theo vô số cách. Một tập đầy đủ của các thị trường sẽ bắt phải có thị trường khác nhau cho mỗi loại lao động - một thị trường cho lao động của Joe Stiglitz, thị trường này khác với thị trường cho lao động của Paul Samuelson, cái đến lượt nó lại khác thị trường cho các thợ ống nước, cái đến lượt nó lại khác với thị trường cho lao động không có kĩ năng, vân vân. Nếu chúng ta thận trọng trong định nghĩa các thị trường cho các mặt hàng đồng đều (lao động của Joe Stiglitz được tiến hành tại một ngày, trong một trạng thái, ở tại một địa điểm cụ thể), thì chỉ có một thương gia duy nhất ở mỗi bên bán và bên mua (Joe Stiglitz). Nếu chúng ta mở rộng các thị trường để bao trùm tất cả các nhà kinh tế học lí thuyết, thì hiển nhiên có cạnh tranh hơn. Nhưng chúng ta phải từ bỏ các giả thiết rằng các mặt hàng là đồng đều và tập của các thị trường là không đầy đủ; không có một thị trường
tách biệt cho mỗi mặt hàng đồng đều.
Thông tin bất đối xứng và các thị trường đầy đủ
Thông tin không hoàn hảo hiển nhiên đảm bảo rằng tập của các chứng khoán là không đầy đủ, vì các cá nhân chỉ có thể trao đổi trên các trạng thái cùng quan sát được.
[21] Nếu tôi hứa giao cho anh cái gì đó trong một tập các trạng thái cụ thể, nó phải được quan sát với cả hai chúng ta rằng trạng thái ấy đã xảy ra; để dùng hệ thống pháp luật để thực thi một hợp đồng như vậy, nó phải là có thể xác minh được đối với một bên thứ ba, đứng ngoài. Sự bất lực để làm thế rõ ràng sẽ hạn chế tập của các chứng khoán.
Nhưng vượt ra ngoài điều đó, tính bất đối xứng của thông tin hạn chế rất nhiều các cơ hội trao đổi, một ý niệm được thâu tóm trong một châm ngôn quen thuộc: Tôi không muốn mua thứ gì đó từ người muốn bán thứ đó cho tôi. Tất nhiên nguyên lí lâu đời về sự khác biệt sở thích và ưu thế cạnh tranh tạo động cơ cho trao đổi vẫn đúng, nhưng có động cơ khác cho trao đổi, có thể nói trắng ra là "lừa bịp". Trong khi trong các trao đổi truyền thống cả hai bên đều thắng, nếu tôi có thể khiến anh trả nhiều hơn cho cái gì đó hơn nó đáng - mua một xe cũ vô dụng - thì tôi thắng và anh thua thiệt. Những người nông dân có động cơ mạnh để bán thu hoạch mùa vụ của họ trên thị trường kì hạn, nhưng hầu hết không sử dụng cơ hội này, vì lí do chính đáng. Những thị trường đó bị khống chế bởi bốn-năm công ti thương mại lớn, những người có mọi khuyến khích để có nhiều thông tin hơn các nông dân nhỏ lẻ. Sự chênh lệch thông tin có nghĩa rằng người nông dân ở thế bất lợi; các công ti thương mại có thể kiếm lời từ sự kém hiểu biết tương đối của nông dân. Biết điều này, sự chọn lựa là chịu rủi ro hơn là trả giá.
Bất đối xứng thông tin gây ra những bất hoàn hảo thị trường trong nhiều thị trường, khác so với thị trường bảo hiểm, thị trường kì hạn, và thị trường xe cũ. Hãy xét, thí dụ, thị trường cho "lao động đã dùng", tức là những người lao động đang có việc làm. Người sử dụng lao động hiện tại thường có nhiều thông tin liên quan đến năng lực của họ hơn là những người sử dụng lao động sắp tới. Một người sử dụng lao động sắp tới biết rằng nếu nó đưa ra lời chào mời để thu hút một nhân viên của một công ti khác, thì công ti đang sử dụng sẽ thoả mãn nhu cầu để giữ, nếu nhân viên đó xứng đáng, và sẽ không nếu nhân viên không xứng đáng. Như thế, lần nữa, người sử dụng lao động sắp tới ở tình trạng ngửa anh thắng, sấp tôi thua: Nó chỉ thành công trong thuê nhân viên mới nếu nó chào mức lương cao hơn mức người sử dụng hiện tại cho là xứng đáng. Chắc chắn, có các trường hợp khi năng suất của nhân viên đó ở hãng mới sẽ cao hơn ở hãng cũ - nhân viên hợp hơn với công việc - hoặc có các lí do khác (ngoài lương) mà cá nhân ấy muốn đổi chỗ làm (để được gần họ hàng hơn, hoặc để thoát khỏi họ). Kết quả là có một số trao đổi trong thị trường lao động đã được dùng, nhưng ngoài những lao động trẻ muốn cho hợp với một công ti nào đó, các thị trường này có xu hướng lèo tèo.
Tương tự, vốn cổ phần tạo chia sẻ rủi ro hữu hiệu hơn giữa các nghiệp chủ và những người cung cấp vốn so với tín dụng; các nhà cung cấp vốn cổ phần chia sẻ rủi ro, trong khi với tín dụng (vay ngân hàng hay trái phiếu) thì các nghiệp chủ hay các cổ đông gốc của công ti phải chịu rủi ro còn lại.
[22] Thế mà các thị trường vốn cổ phần khét tiếng không hoàn hảo; chỉ có một phần nhỏ của đầu tư mới được cung cấp bởi vốn cổ phần.
[23] Một trong những lí do của điều này là những bất đối xứng thông tin: Những người bán cổ phần có thông tin tốt hơn những người mua; họ khao khát nhất để bán cổ phần trong công ti của họ khi thị trường định giá quá cao cổ phần của họ. Những người mua biết điều này. Như vậy sự sẵn lòng của các hãng để phát hành cổ phần gửi một tín hiệu cho thị trường, rằng những người bán nghĩ là cổ phần được định giá cao. Thị trường phản ứng, và giá cổ phần xuống.
Chắc chắn, có các lí do
khác - bên cạnh cổ phần của hãng được định giá cao - để một hãng phát hành cổ phần. Những người chủ của công ti có thể không ưa rủi ro, và, như chúng ta đã nhắc tới, vốn cổ phần tạo một phương pháp hữu hiệu hơn cho phân chia rủi ro so với các phương pháp tăng vốn khác. (Trong một số khu vực, như bảo hiểm, các qui chế đòi hỏi rằng hãng phải tăng vốn qua vốn cổ phần). Những người ngoài ("thị trường") tuy vậy không thể nói liệu lí do mà công ti bán cổ phần là do giá cổ phiếu cao, hay do các ngân hàng từ chối cho công ti vay, hoặc những người chủ của công ti nhận ra rằng vốn cổ phần là cách hữu hiệu hơn để phân chia rủi ro. Thật vậy, khi công ti phát hành cổ phần, tính trung bình, giá rớt (trung bình, mức giảm về giá trị của các cổ phần hiện hành là khoảng 30 phần trăm của khoản tăng vốn;
[24] và trong một số trường hợp sự sụt giảm lớn hơn nhiều khoản vốn được tăng): Thị trường gắn một xác suất nào đó cho khả năng là công ti phát hành cổ phần bởi vì chúng được định giá cao. Nhìn từ triển vọng của công ti điều này làm cho việc phát hành cổ phần rất tốn kém. Và đây chính là cái (ít nhất một phần) lí giải vì sao người ta tương đối ít trông cậy vào vốn cổ phần như một công cụ để kêu gọi tăng vốn mới.
Hiểm hoạ đạo đức
Những bất đối xứng thông tin gây ra hai vấn đề, được nhắc tới như vấn đề chọn lọc có hại (adverse selection)
[25] và vấn đề khuyến khích hoặc hiểm hoạ đạo đức (moral hazard).
[26] Cả hai có thể thấy rõ nhất trong bối cảnh của các thị trường bảo hiểm, nhưng chúng cũng nảy sinh trong một loạt các hoàn cảnh khác nữa. Vấn đề thứ nhất dẫn đến các xí nghiệp không có khả năng nhận được bảo hiểm cho lợi nhuận của chúng: rõ ràng là xí nghiệp có nhiều thông tin hơn về triển vọng của mình so với hãng bảo hiểm, và hãng bảo hiểm lo rằng nếu xí nghiệp sẵn lòng trả phí bảo hiểm, thì xí nghiệp có thương vụ quá hời. Tức là, có xác suất cao là hãng bảo hiểm sẽ phải trả hết theo đơn bảo hiểm.
Hiểm hoạ đạo đức cũng dẫn đến bảo hiểm bị hạn chế. Độ bao phủ của bảo hiểm càng đầy đủ, thì càng có ít khuyến khích để các cá nhân hay xí nghiệp hành động nhằm đảm bảo rằng sự cố được bảo hiểm sẽ không xảy ra. Bởi vì các hành động cần thiết để giảm khả năng xảy ra các sự cố được bảo hiểm thường không quan sát được (và/hoặc không thể xác minh được liệu người được bảo hiểm đã thực hiện các hành động cần thiết), cho nên khoản trả bảo hiểm không thể định ra tuỳ thuộc vào việc cá nhân hay xí nghiệp thực hiện các hành động đó. Như vậy các hãng bảo hiểm y tế mong muốn những người được họ bảo hiểm không hút thuốc hoặc không ở những nơi mà họ chịu hệ quả của "người hút thuốc gián tiếp", tức là của khói thuốc do người khác hút. Nhưng các hãng bảo hiểm không quan sát được các hành động này, và như thế không thể yêu cầu những người được họ bảo hiểm đừng hút thuốc.
[27]
Điều khoản bảo hiểm
đầy đủ sẽ làm giảm đáng kể các khuyến khích, đến mức trong nhiều trường hợp để hãng bảo hiểm hoà vốn sẽ cần đòi phí bảo hiểm cao làm cho đơn bảo hiểm không hấp dẫn. Như thế, nhìn chung, khi có hiểm hoạ đạo đức, thì sẽ không có bảo hiểm đầy đủ.
[28] Các vấn đề khuyến khích tương tự nảy sinh trong nhiều thị trường khác. Tiền lương của hầu hết các xí nghiệp không đơn thuần được trả trên thành tích. Đầu vào (nỗ lực) là khó có thể giám sát được. Có thể giám sát đầu ra, nhưng nếu tiền lương chỉ phụ thuộc vào đầu ra, thì sự đền bù sẽ thay đổi rất nhiều, bởi vì có nhiều yếu tố quyết định đầu ra, bên cạnh nỗ lực. Thực ra, để tiền lương chỉ phụ thuộc một phần vào thành tích, thì các xí nghiệp đã cung cấp một số bảo hiểm cho người lao động của mình, mặc dầu bảo hiểm là không đầy đủ. Nếu tiền lương không phụ thuộc gì vào thành tích, thì người làm không có khuyến khích để có bất kì nỗ lực nào.
[29] Như thế cả hiểm hoạ đạo đức lẫn chọn lọc có hại tạo ra các lí do cho các thị trường là
mong manh, lèo tèo (thin); trong một số trường hợp thị trường có thể thực tế bị đóng. Khi kết hợp với các chi phí giao dịch khác, chúng củng cố kết luận rằng các thị trường là không đầy đủ.
Sự thiếu nhất quán giữa các giả thiết về thông tin hoàn hảo và các thị trường đầy đủ
Một cách tinh tế hơn, số các thị trường tồn tại ảnh hưởng tới cơ cấu thông tin của các thương gia; tức là, giá ở các thị trường khác nhau truyền đạt thông tin. Nếu giá kì hạn của lúa mì là rất cao, có thể suy luận rằng những cá nhân am hiểu trên thị trường tin rằng hoặc cầu trong tương lai sẽ cao hoặc cung sẽ thấp. Các thương gia không am hiểu, như thế, có thể lượm một số thông tin từ các thương gia am hiểu bằng cách ngó vào giá; và lượng thông tin mà họ có thể lượm được phụ thuộc vào thị trường nào tồn tại. Trong một số trường hợp các thương gia không am hiểu có thể lượm được tất cả thông tin từ các thương gia am hiểu. (Thảo luận của các nhà kinh tế học hàn lâm đôi khi gợi lại các cuộc tranh luận tôn giáo Thời Trung cổ về liệu có bao nhiêu nàng tiên có thể nhảy múa trên đầu một chiếc kim: Đã có thảo luận dài về liệu có thể suy luận ra trạng thái tự nhiên của nền kinh tế từ giá cả thị trường.
[30] Nếu, thí dụ, giả như có một biến số ngẫu nhiên duy nhất ảnh hưởng đến lợi tức của một chứng khoán nào đó, và nếu giả như có các cá nhân am tường biết giá trị của biến số ấy, thì giá sẽ tiết lộ hoàn toàn biến số đó. Nếu giả như điều đó đúng với
mọi chứng khoán rủi ro, giá cả sẽ tiết lộ toàn bộ trạng thái tự nhiên. Nhưng không gian "sự kiện" là lớn hơn rất nhiều so với không gian giá - có hàng trăm biến số ảnh hưởng đến tính sinh lời của xí nghiệp - nên dường như ngớ ngẩn đi hi vọng rằng ai đó nhìn vào giá có thể suy ra trạng thái của tự nhiên).
Phải rõ tất nhiên rằng, để cho các thương gia có khuyến khích thu thập thông tin thì nhất thiết thông tin không được phát tán hoàn hảo trong thị trường. Nếu, đơn thuần nhìn vào giá cả thị trường, những người không chi tiền để kiếm thông tin lại có thể lượm được mọi thông tin mà những người am tường đã phải bỏ tiền ra mới có được, thì các thương gia am tường sẽ chẳng có ưu thế nào về thông tin; họ sẽ chẳng có khả năng nhận được bất kể khoản lợi nào cho khoản chi phí kiếm thông tin của họ. Như thế,
nếu giả như có tập đầy đủ của các thị trường, thông tin sẽ được truyền đạt tốt đến mức các nhà đầu tư không có khuyến khích nào để thu thập thông tin. (Tất nhiên với tất cả những người tham gia cùng có lượng thông tin bằng không [zero], thì các khuyến khích để trao đổi sẽ bị giảm đi đáng kể). Phát biểu một cách khác, giả thiết về các thị trường "am hiểu"
[31] và giả thiết về "một tập đầy đủ của các thị trường" có thể loại trừ lẫn nhau.
[32]
Tính không thể về mặt ý niệm của tập đầy đủ của các thị trường
Các vấn đề với giả thiết về một tập đầy đủ của các thị trường ăn sâu hơn. Muộn hơn trong các bài giảng này tôi sẽ nhấn mạnh tầm quan trọng của đổi mới sáng tạo, nhưng khó có thể hình dung là có các thị trường cho các tình huống (trạng thái) chưa được hình dung tới: Chắc chắn một sự kiện như phát minh ra các nguyên lí cơ sở cho năng lượng nguyên tử và sự phát triển tiếp theo của năng lượng nguyên tử thương mại là một sự kiện
kinh tế cực kì quan trọng, đặc biệt đối với những người chủ sở hữu các nguồn năng lượng khác. Thế nhưng làm sao mà các thị trường về những rủi ro này - hoặc về những rủi ro gắn với laser hoặc transistor- lại có thể tồn tại trước khi các khái niệm cơ bản này được phát triển? Đây là sự không nhất quán căn bản giữa ý tưởng về một tập đầy đủ của các thị trường và quan niệm về đổi mới sáng tạo.
[33]
Tôi đã chi tiết hoá một số lí do căn bản vì sao các thị trường chắc là không đầy đủ. Cho nhiều mục đích không quan trọng vì sao chúng lại không đầy đủ. Cái chính là chúng không đầy đủ.
Thiếu cạnh tranh
Một phê phán khác của định lí căn bản của kinh tế học phúc lợi là nó
giả thiết rằng có cạnh tranh hoàn hảo, rằng mọi xí nghiệp đều là một người chấp nhận giá. Hầu hết các thị trường thực ra là không cạnh tranh hoàn hảo. Một lí do là, khi thông tin là không hoàn hảo và tốn kém, thì các thị trường sẽ thường không là cạnh tranh hoàn hảo. Thông tin không hoàn hảo ban cho các xí nghiệp một mức độ quyền lực thị trường nhất định. Mặc dù có cạnh tranh, nó không là cạnh tranh hoàn hảo của các sách giáo khoa kinh tế học, với các xí nghiệp chấp nhận giá; nó hơi giống cạnh tranh độc quyền, loại được Chamberlin thảo luận nửa thế kỉ trước.
[34] (Tôi sẽ quay lại điểm này muộn hơn; bây giờ tôi đơn thuần muốn nhấn mạnh rằng các kết quả phúc lợi phụ thuộc nhiều vào giả thiết về các xí nghiệp chấp nhận giá, tức là, về cạnh tranh
hoàn hảo). Do thông tin không hoàn hảo, nếu một xí nghiệp tăng giá, không phải khách hàng của tất cả các xí nghiệp sẽ lập tức có khả năng tìm ra một xí nghiệp định giá thấp hơn cho cùng một mặt hàng; thực ra các khách hàng có thể suy luận rằng các xí nghiệp khác cũng đã tăng giá của họ. Cũng tương tự, nếu nó hạ giá, nó sẽ không lập tức hút được toàn bộ khách hàng từ các cửa hàng có giá cao hơn. Tìm kiếm là tốn kém, và như thế những người trên thị trường hiếm khi biết hết giá được định ra bởi mọi xí nghiệp bán mọi thứ hàng mà họ quan tâm.
Tính không hoàn hảo của cạnh tranh nảy sinh, tuy vậy, không chỉ từ thông tin không hoàn hảo, mà cũng từ các chi phí cố định, nhiều loại chi phí này có liên quan đến thông tin. Có các chi phí cố định nảy sinh trực tiếp trong sản xuất - chi phí chung để vận hành một xí nghiệp- và các chi phí cố định gắn với thông tin về sản xuất thế nào. Điều này có nghĩa rằng không chắc là có rất nhiều xí nghiệp sản xuất mọi loại chất lượng của mỗi loại hàng hoá ở mỗi địa điểm tại mỗi thời gian trong mọi trạng thái tự nhiên. Như chúng ta đã nhắc tới trước đây, với thậm chí các chi phí cố định rất nhỏ, nhiều "thị trường" này sẽ chỉ có ít nhà cung cấp.
Vì những lí do này và các lí do khác, các xí nghiệp đối mặt với các đường cầu dốc xuống. Các thị trường có thể rất cạnh tranh-nhưng không phải cạnh tranh hoàn hảo. Mỗi sự lệch khỏi cạnh tranh hoàn hảo có thể là nhỏ, như khi cộng lại, chúng có thể lên tới mức - vô số sự lệch nhỏ có thể dẫn tới một bức tranh về nền kinh tế khác xa bức tranh của hệ thuyết chuẩn. Đặc biệt, chỉ với các điều kiện ngặt nghèo thì nền kinh tế mới có hiệu quả Pareto (ràng buộc [hay hạn chế]).
[35]
Lí do cho việc này có thể trình bày đơn giản. Với các đường cầu dốc xuống, giá - đo lợi ích biên hoặc sự sẵn lòng trả tiền của người tiêu dùng - vượt chi phí biên. Lerner (1944) đã chỉ ra rằng nếu tất cả các xí nghiệp đối mặt với cùng một độ co giãn về cầu, giả như phát sinh từ riêng lao động, và độ co giãn của cung lao động giả như bằng không, thì ngay cả với các xí nghiệp độc quyền nền kinh tế vẫn có thể có hiệu quả Pareto. Nhưng đây là trường hợp cá biệt. Nhìn chung, cung lao động không phải không co giãn, như vậy độc quyền trong thị trường hàng hoá ảnh hưởng đến lương thực tế và, đến lượt nó, đến cung lao động; Cũng thế mức độ độc quyền (độ co giãn của cầu) là khác nhau giữa các sản phẩm.
Lerner (và các nhà nghiên cứu khác) đã tập trung vào sản lượng tương đối của các mặt hàng khác nhau được sản xuất ra dưới cạnh tranh không hoàn hảo. Cũng đúng là tập các sản phẩm được sản xuất ra có thể không phải là tập đáng mong mỏi. Một xí nghiệp sản xuất một sản phẩm nếu thu nhập vượt quá chi phí. Trong ra quyết định, xí nghiệp chẳng để ý đến mức độ lợi nhuận nó thu được do làm tổn hại đến xí nghiệp khác. Nếu nó sản xuất một mặt hàng mới, nó sẽ di đường cầu của các xí nghiệp khác sang trái như ở hình 3.1. Nó có thể di đường cầu của một số xí nghiệp sang trái đến mức không còn lợi nhuận để sản xuất. Có sự mất mát thặng dư của người tiêu dùng (diện tích gạch sọc ABC). Sự mất mát thặng dư tiêu dùng có thể vượt thặng dư tiêu dùng nhận được từ sản xuất mặt hàng mới.
|
Hình 3.1
Đưa ra một mặt hàng mới có thể không làm tăng phúc lợi xã hội. Mặt hàng mới dịch đường cầu sang trái, làm cho không còn có lợi nhuận để sản xuất. Sự mất mát về thặng dư tiêu dùng (diện tích kẻ sọc ABC) có thể lớn hơn thặng dư tiêu dùng gắn với sản phẩm mới.
|
Các thị trường tạo ra nhiễu
Cuối cùng, chúng ta nghĩ về một ưu điểm lớn của các nền kinh tế thị trường là khả năng của nó để "giải" các vấn đề thông tin một cách hiệu quả. Thế mà khi thông tin là tốn kém, thì các xí nghiệp hành động để kiếm lợi thế từ đó. Làm như vậy, chúng có thể tạo ra nhiễu
[36] - chúng tạo ra, đôi khi cố ý, các vấn đề thông tin cho người tiêu dùng.
Các đợt giảm giá tạm thời ("bán hạ giá") gây ra tán xạ giá, mặc dù chúng thường không được xem xét từ khía cạnh này. Việc tìm kiếm tốn kém tạo cho các xí nghiệp các lí do tốt để tính giá khác biệt, hoặc để giảm giá tạm thời. Các xí nghiệp hạ giá có thể thu hút lượng khách hàng lớn cho mình, nhưng các xí nghiệp giá cao vẫn có thể sống sót, phục vụ chỉ những người có chi phí tìm kiếm cao và người không có may mắn tìm được một xí nghiệp giá hạ. Các xí nghiệp giá cao bù cho qui mô bán hàng nhỏ hơn bằng lợi nhuận (giá bán) cao hơn trên mỗi đơn vị được bán. Hình 3.2 minh hoạ một trường hợp trong đó cân bằng duy nhất phải kéo theo sự tán xạ giá. Giả sử rằng mọi xí nghiệp đã tính giá như nhau. Mỗi xí nghiệp dự tính điều gì sẽ xảy ra nếu nó hạ (hay tăng) giá của mình. Nếu tăng giá, nó mất khách hàng cho các xí nghiệp khác. Nếu hạ giá, nó "lấy trộm" khách hàng từ các xí nghiệp khác. Nó "lấy trộm" những khách hàng có truy cập thông
|
Hình 3.2
Điểm cân bằng duy nhất có thể kéo theo tán xạ giá. Với tìm kiếm tốn kém, tăng doanh thu bán hàng từ hạ giá có thể lớn hơn sự thiệt hại về doanh thu bán hàng từ tăng giá. Nếu tất cả các xí nghiệp đã tính giá như nhau, sẽ có một điểm kì dị (gãy khúc) trong đường cầu (d) tại mức giá đó. Khi ấy không thể tồn tại một cân bằng lợi nhuận bằng không, với giá duy nhất: Tại điểm tiếp tuyến giữa đường cầu và đường chi phí trung bình (AC), xí nghiệp được lợi để tính giá hoặc tăng lên hoặc giảm xuống.
|
tin dễ nhất (những người tìm kiếm có chi phí thấp). Có thể chỉ có tương đối ít những người như vậy (với mức giảm giá nhẹ) tại bất kể xí nghiệp nào, nhưng lại có nhiều xí nghiệp mà từ đó nó có thể lấy trộm khách hàng. Tổng phần trăm tăng trong doanh thu do 1 phần trăm giảm giá có thể hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn mức giảm doanh thu do tăng 1 phần trăm giá, tuỳ thuộc vào số các xí nghiệp khác mà từ đó nó có thể lấy trộm khách hàng, và số khách hàng nó lấy trộm từ mỗi xí nghiệp (cái đến lượt mình lại phụ thuộc vào số lượng các cá nhân có chi phí tìm kiếm thấp là bao nhiêu). Hình 3.2 mô tả trường hợp khi số phần trăm tăng doanh thu do giảm giá là khá lớn, so sánh với số phần trăm giảm về doanh thu do tăng giá: Đường cầu có một điểm gãy khúc. Nhưng rõ ràng là, nếu đúng là trường hợp này, thì không thể tồn tại một cân bằng với lợi nhuận bằng không, và giá duy nhất. Chúng tôi đã vẽ đường chi phí trung bình qua điểm giá duy nhất - điểm mà đường cầu gãy khúc. Rõ ràng là xí nghiệp được lợi để hoặc tăng hoặc giảm giá của mình. Trong cả hai trường hợp, nó kiếm được một khoản lời.
Như thế, trong khi tán xạ giá làm cho việc tìm kiếm và các hoạt động khác nhằm làm giảm "nhiễu" của thị trường, và việc tìm kiếm hạn chế mức giá có thể chênh lệch trên thị trường, thì sự thực là sự tồn tại của thông tin không hoàn hảo- tìm kiếm là tốn kém- là nguyên nhân hàng đầu gây ra tán xạ giá. Tán xạ giá bản thân nó xuất hiện, một phần, không phải như phản ứng đối với những thay đổi
ngoại sinh về các điều kiện kinh tế, hoặc những khác biệt về các điều kiện kinh tế đối mặt các xí nghiệp khác nhau, mà một cách nội sinh, như một phần của cân bằng thị trường trong đó mỗi xí nghiệp thừa nhận các hệ quả của sự thực rằng việc tìm kiếm là tốn kém. (Tức là, trong khi Grossman và Stiglitz 1976 và Lucas 1972 đã nhấn mạnh vai trò của thông tin tốn kém trong hạn chế mức độ kinh doanh chênh lệch giá, giảm tác động phân biệt của các cú sốc bên ngoài, trên thực tế thì các thị trường tạo ra nhiễu).
Những khuyết tật thị trường mới và cũ
Những kết quả này, kết hợp với định lí Greenwald-Stiglitz, giảm lòng tin mà chúng ta có về giả định rằng các thị trường có hiệu quả. Có hai sự khác biệt quan trọng giữa các khuyết tật thị trường mới, dựa trên cơ sở của thông tin không hoàn hảo và tốn kém cũng như các thị trường không đầy đủ, và các khuyết tật thị trường cũ liên quan đến, thí dụ, các hàng hoá công cộng và những ảnh hưởng ngoại lai của ô nhiễm môi trường: các khuyết tật thị trường cũ, hầu hết, đều dễ xác định và có phạm vi hạn chế, đòi hỏi những can thiệp được xác định rõ ràng của chính phủ. Bởi vì hầu như tất cả các thị trường đều là không đầy đủ và thông tin thì luôn luôn không hoàn hảo- các vấn đề hiểm hoạ đạo đức và chọn lọc có hại là phổ biến với mọi tình huống thị trường- các khuyết tật thị trường (mới) tràn lan trong nền kinh tế. Phân tích của Greenwald-Stiglitz về các khuyết tật thị trường này nhằm mục đích không chỉ để nhận diện sự tồn tại của khuyết tật thị trường mà cũng nhằm chỉ ra các loại can thiệp của chính phủ, những can thiệp sẽ mang lại cải thiện Pareto. Phân tích của họ còn đi xa hơn để nhận diện các tham số ứng xử (thí dụ, các độ co giãn cung và cầu) xác định các tỉ suất thuế hiệu chỉnh tối ưu. Thế nhưng một chính sách hiệu chỉnh đầy đủ sẽ kéo theo các loại thuế và trợ cấp cho hầu như mọi mặt hàng, dựa trên những ước lượng về độ co giãn cầu và cung cho tất cả các mặt hàng (bao gồm tất cả các độ co giãn chéo). Thông tin
thực tiễn cần thiết để thực hiện việc đánh thuế hiệu chỉnh vượt quá xa mức sẵn có hiện thời, và chi phí quản lí loại thuế như vậy (chi phí này đã bị bỏ qua trong phân tích của Greenwald-Stiglitz) có thể vượt quá xa lợi ích thu được khi sự méo mó thị trường là nhỏ. Như vậy có lẽ là chính phủ phải tập trung chú ý vào những trường hợp mà khuyết tật thị trường là lớn và quan trọng- thí dụ, như trong các thị trường bảo hiểm chính (y tế, và có thể cả bảo hiểm xe hơi), những rủi ro gắn với an ninh việc làm, và những bất hoàn hảo của các thị trường vốn. Tôi sẽ quay lại những vấn đề thực tiễn này muộn hơn trong cuốn sách này. Hiện tại tôi đơn giản muốn nhấn mạnh đến sự khác biệt căn bản giữa các khuyết tật thị trường cũ và mới: tính phổ biến tràn lan của các vấn đề do thông tin không hoàn hảo và các thị trường không đầy đủ gây ra.
Thông tin, giá cả, và tính hiệu quả của các nền kinh tế thị trường
Đối với một số độc giả, khẳng định rằng các nền kinh tế thị trường là không hiệu quả khi thông tin không hoàn hảo có thể xem ra lạ lùng, và xung khắc với truyền thống Áo. Một trong những khẳng định thường được đưa ra về hệ thống giá cả là tính hiệu quả thông tin của nó. Như chúng ta giảng cho sinh viên trong các khoá nhập môn, chẳng xí nghiệp nào cần biết đến phải sản xuất thậm chí một chiếc bút chì ra sao; không xí nghiệp nào cần biết đến sự khan hiếm của bất kể đầu vào nào để sản xuất bút chì, hoặc những sở thích của người tiêu dùng. Tất cả cái mà mỗi người cần biết là giá nhận được của đầu ra và giá phải trả cho đầu vào. Tầm sâu thấu hiểu của định lí thứ nhất của kinh tế học công cộng, của bàn tay vô hình của Adam Smith, là ở chỗ ngay cả với thông tin cực kì hạn chế này thì các nền kinh tế thị trường vẫn có thể tạo ra các kết quả có hiệu quả Pareto.
Chắc chắn, có tính hiệu quả thông tin to lớn: Dưới các điều kiện lí tưởng hoá của mô hình Arrow-Debreu, giá cả truyền đạt thông tin một cách hiệu quả từ các nhà sản xuất đến những người tiêu dùng, và ngược lại. Thế nhưng đây là một vấn đề thông tin rất hạn chế. Khi các gánh nặng về thông tin được đặt lên thị trường- khi phải lựa chọn giữa những người lao động có năng lực khác nhau hoặc giữa các chứng khoán có chất lượng khác nhau, khi phải tạo các khuyến khích cho người lao động do giám sát không hoàn hảo, khi phải nhận và xử lí thông tin mới về một môi trường thay đổi - thì các thị trường không làm tốt như vậy, thậm chí tính với tiêu chuẩn phúc lợi hạn chế của tính hiệu quả Pareto ràng buộc.
Chủ nghĩa xã hội thị trường và các khuyết tật thị trường
Chương này đã giải thích tầm quan trọng của thông tin không hoàn hảo và các thị trường không đầy đủ như một lí giải vì sao các nền kinh tế thị trường lại không có hiệu quả Pareto ràng buộc, vì sao chúng không đạt các chuẩn mực về hiệu quả kinh tế mà hệ thuyết tân cổ điển đã tiên đoán. Chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa xã hội thị trường, đã dự kiến để đạt tính hiệu quả kinh tế cao hơn mà không đi kèm các chi phí xã hội của chủ nghĩa tư bản. Nhưng chủ nghĩa xã hội thị trường, bằng cách trao cho chính phủ trách nhiệm điều hành các "thị trường" (hoặc "giả như" thị trường), khi các thị trường như vậy không hoạt động tốt trong khu vực tư nhân, thì nó đã chẳng giải quyết được các vấn đề này: Lí thuyết chủ nghĩa xã hội thị trường, hầu hết, đã không dựa trên phân tích về các khuyết tật thị trường này, và về lí do vì sao chính phủ có thể có khả năng giải quyết chúng, mà lại dựa vào sự so sánh ấu trĩ về thành tích thực tế của các nền kinh tế thị trường với thành tích được giả thiết của một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường với một cách nhìn lí tưởng hoá về chính phủ. Sự lí tưởng hoá này chẳng những không tính đến những thực tiễn chính trị, mà quan trọng hơn nhìn từ bối cảnh của chương này, đã không tính đến những thực tế kinh tế căn bản.
Hệ thuyết thông tin mới đã khám phá ra rằng các "khuyết tật thị trường" thực ra là tràn lan trong nền kinh tế. Chúng xuất hiện trong hầu như mọi giao dịch giữa các bên tư nhân trong nền kinh tế, và trong khi chúng có thể là nhỏ trong mỗi trường hợp, tích luỹ lại chúng là quan trọng. Hơn thế nữa các khuyết tật thị trường không giống như những khuyết tật liên quan đến ô nhiễm không khí, mà để giải quyết chúng có thể dễ thiết kế một chính sách xác định và hiệu quả. Sự phổ biến tràn lan này của các khuyết tật, trong khi làm giảm lòng tin của chúng ta vào tính hiệu quả của các giải pháp thị trường, cũng làm giảm lòng tin của chúng ta vào năng lực của chính phủ đi hiệu chỉnh chúng. Nhìn từ khung cảnh của chúng ta điều quan trọng nhất là, cả lí thuyết lẫn thực tiễn của chủ nghĩa xã hội đã không chú ý đến các vấn đề này.
[37]
© 2005 talawas
[1]A. Smith,
Wealth of Nations, bk. 1, ch.2.
[2]Greenwald và Stiglitz (1986, 1988) phát triển một phương pháp luận chung cho phân tích những hậu quả phúc lợi của thông tin không hoàn hảo, các thị trường hạn chế, và những bất hoàn hảo thị trường khác. Họ áp dụng phương pháp luận của họ cho các nền kinh tế đối mặt với các vấn đề lựa chọn có hại, báo hiệu, các thị trường rủi ro không hoàn hảo, rủi ro đạo đức, các giao dịch tốn kém, tiền lương hiệu quả, và tìm kiếm. Công trình không được công bố cho thấy phân tích có thể được mở rộng một cách đơn giản cho các mô hình với những ràng buộc tương thích khuyến khích (tự-lựa chọn). (Xem Arnott, Greenwald, and Stiglitz 1992).
[3]Có lẽ đáng chú ý là, trong những phát biểu cổ điển về mô hình cạnh tranh của mình, Debreu (1959) không chỉ không chú ý đến các giả thiết thông tin ngầm định, mà ông thậm chí dường như không nhận ra điều này như một hạn chế quan trọng của lí thuyết. Thí dụ, khi kết thúc phát biểu cơ bản của lí thuyết, ông liệt kê cái mà ông coi (có lẽ) là hai hạn chế quan trọng nhất của lí thuyết: sự thất bại trong việc tích hợp tiền vào lí thuyết giá trị và sự loại trừ các loại hàng hoá không thể chia nhỏ.
Tầm quan trọng
kinh tế của giả thiết về một tập đầy đủ của các thị trường kì hạn và rủi ro được lướt qua với phát biểu, "Giả thiết rằng tồn tại các thị trường cho mọi loại hàng hoá bất định … là một sự mở rộng tự nhiên của giả thiết thông thường rằng tồn tại các thị trường cho tất cả các loại mặt hàng xác định…"
[4]Sử dụng thuật ngữ "cạnh tranh" theo cách thông thường, dẫn chiếu đến một thị trường trong đó có nhiều người tham gia ở cả hai phía. Tất nhiên một số nhà lí thuyết cân bằng coi như một định nghĩa của các thị trường cạnh tranh là có thông tin hoàn hảo. Điều khẳng định này có thể nghĩ như hoặc là một trò chơi chữ nghĩa hoặc là một sự thú nhận rằng, trừ khi có thể chỉ ra rằng các thị trường với thông tin không hoàn hảo ứng xử khá giống các thị trường với thông tin hoàn hảo, lí thuyết cân bằng cạnh tranh có tính thoả đáng hạn chế với tư cách là một mô tả của các nền kinh tế thực.
[5]Trong các trường hợp này giá cả (lãi suất và lương) ảnh hưởng đến chất lượng của cái được trao đổi (rủi ro của người vay không trả được nợ, năng suất lao động). Chẳng lợi cho ngân hàng đi nâng lãi suất lên, ngay cả khi có dư cầu tín dụng (và nó có thể làm vậy, mà vẫn cho vay được hết như mong muốn); làm như vậy sẽ dẫn đến xác suất không trả nợ cao hơn, và như thế làm giảm lợi tức kì vọng. Chẳng lợi cho xí nghiệp đi hạ lương xuống, ngay cả khi có dư cung lao động; làm vậy sẽ dẫn đến lực lượng lao động có năng suất thấp hơn. Trong chương 4 tôi sẽ thảo luận chi tiết các vấn đề này.
[6]Các công ti đưa ra giá phụ thuộc vào số lượng nhằm phân biệt các loại khách hàng khác nhau. Các công ti bảo hiểm sử dụng lượng bảo hiểm mua như một cơ sở để suy luận về khả năng xảy ra tai nạn. Tính trung bình, những người dễ bị tai nạn sẽ muốn có độ phủ (bảo hiểm) rộng hơn (Xem Rothschild and Stiglitz 1976; C. A. Wilson 1977). Trong các trường hợp khác các xí nghiệp thực hiện điều này đơn giản để tăng lợi nhuận của họ. Với thông tin hoàn hảo họ sẽ tiến hành phân biệt giá một cách hoàn hảo. Với thông tin không hoàn hảo họ có thể thu lượm thông tin về các cá nhân từ số lượng mà họ mua. Thí dụ, nếu những người mua số lượng lớn được hưởng một mức thặng dư tiêu dùng thấp hơn trên một đơn vị được mua so với những người mua số lượng ít hơn, tức là dùng hệ thống giá phi tuyến với phí trên đơn vị hàng được mua giảm dần theo số lượng hàng được mua, có thể tạo ra lợi nhuận độc quyền cao hơn so với dùng một hệ thống giá "tuyến tính". Vấn đề này được thảo luận chi tiết ở chương 4. Xem cả Stiglitz (1977b) và rất nhiều tài liệu tham khảo được viết sau đó. Lập luận hệt như vậy cũng áp dụng cho các trường hợp có cạnh tranh, nhưng không hoàn hảo. Xem, thí dụ, Salop (1977) hoặc Salop and Stiglitz (1982).
[7]Trong các mô hình danh tiếng chuẩn (được thảo luận ở chương tiếp theo) lợi nhuận là cần thiết để khiến các xí nghiệp sản xuất hàng chất lượng cao (khác đi thì không có hình phạt cho sản xuất các mặt hàng xấu). Trong khung cảnh của chọn lọc có hại, lập luận tế nhị hơn. Các hợp đồng cân bằng, thí dụ, trong thị trường bảo hiểm với hai loại rủi ro, có thể được mô tả như sau: Cá nhân có rủi ro cao nhận bảo hiểm đầy đủ, ở khả năng công bằng về mặt kiểm kế của ông hoặc bà ta. Hợp đồng cho rủi ro thấp là đơn [hợp đồng] bảo hiểm tối đa hoá sự thoả dụng kì vọng của cá nhân có rủi ro thấp, tuỳ thuộc vào các cá nhân có rủi ro cao ưa thích các đơn bảo hiểm riêng của họ đối với đơn bảo hiểm này (ràng buộc tự-chọn lọc) và các khoản lời của đơn bảo hiểm là không âm. Nếu cá nhân có rủi ro thấp không ưa rủi ro hơn cá nhân có rủi ro cao, thì ràng buộc sau có thể không bắt buộc. Đơn bảo hiểm cân bằng chào cho cá nhân có rủi ro thấp tạo một khoản lợi nhuận, nhưng giả như công ti bảo hiểm giảm phí hoặc tăng ích lợi, thì tất cả những cá nhân có rủi ro cao sẽ yêu cầu đơn bảo hiểm, và với hỗn hợp đó của những người đệ đơn mua bảo hiểm (nhớ lại, giả thiết rằng hãng bảo hiểm không thể phân biệt giữa các cá nhân có rủi ro cao và thấp) lợi nhuận kì vọng của đơn bảo hiểm sụt đột ngột: Một sự giảm nhẹ về phí hay tăng nhẹ về lợi ích (của người được bảo hiểm) trong đơn bảo hiểm gây ra thua lỗ tuyệt đối.
Cách lập luận chính xác như vậy áp dụng cho khung cảnh hiểm hoạ đạo đức. Giả sử rằng các cá nhân có lựa chọn về hai hoạt động khác biệt, một hoạt động "an toàn" và một hoạt động mạo hiểm. Hoạt động nào được người được bảo hiểm tiến hành phụ thuộc vào đơn bảo hiểm. Với bảo hiểm đầy đủ hơn, người được bảo hiểm tiến hành hoạt động mạo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm cân bằng có thể được mô tả như một hợp đồng tối đa hoá tính thoả dụng của người được bảo hiểm, tuỳ thuộc vào người được bảo hiểm tiến hành hoạt động an toàn và với điều kiện lợi nhuận không âm. Lại một lần nữa bài toán tối ưu hoá này có thể đưa đến là ràng buộc sau không bắt buộc. Hợp đồng cân bằng tạo lợi nhuận, nhưng một sự tăng nhẹ lợi ích, thí dụ, sẽ gây ra kết quả là những người được bảo hiểm chuyển từ hoạt động an toàn sang hoạt động mạo hiểm, với lợi nhuận lao xuống đột ngột từ dương sang âm. Về một thảo luận đầy đủ hơn, bao gồm lập luận hình thức, và những trình bày đầy đủ hơn về các giả thiết, xem Arnott and Stiglitz (1988a).
[8]Các khoản chuyển giao trọn gói hệt nhau đối với mọi cá nhân, bất chấp những khác biệt về các đặc trưng có thể quan sát được.
[9]Phân tích tổng quát là của Greenwald và Stiglitz (1986, 1988). Bài báo đầu tiên chỉ ra tính phi hiệu quả Pareto hạn chế của các nền kinh tế thị trường trong đó các thị trường cân bằng [clear], và bài báo thứ hai (1988) chỉ ra tính hiệu quả lương, tìm kiếm, và các mô hình khác trong đó các thị trường không cân bằng [do not clear]. (Thảo luận bao quát hơn về cân bằng thị trường [market equilibrium] khi các thị trường không cân bằng [clear], xem Stiglitz 1987b). Bài báo thứ ba (Arnott, Greenwald, và Stiglitz 1992) mở rộng phân tích cho các mô hình với tự-chọn lọc [self-selection] và các ràng buộc tương thích khuyến khích.
Những kết quả tổng quát hơn của Greenwald-Stiglitz được đoán trước bởi một số bài báo thảo luận các trường hợp đặc biệt. Các bài báo này cho sự thấu hiểu vào bản chất của khuyết tật thị trường trong mỗi trường hợp này. Phân tích về tính phi hiệu quả khi có hiểm hoạ đạo đức, xem Arnott and Stiglitz (1985, 1986, 1989, 1991); phân tích về tính phi hiệu quả trong các mô hình thị trường cổ phiếu, xem Stiglitz (1872b, 1982a); phân tích về tính phi hiệu quả trong các nền kinh tế thô sơ hơn, trong đó thậm chí không có thị trường cổ phiếu, xem Newbery and Stiglitz (1982, 1984); phân tích về tính phi hiệu quả trong các mô hình với các hợp đồng ngầm định, xem Newbery and Stiglitz (1987); phân tích về tính phi hiệu quả trong các mô hình tìm kiếm, xem Mortenson (1989); thảo luận về tính phi hiệu quả trong khuôn khổ các mô hình lương hiệu quả, xem Shapiro and Stiglitz (1984a). Thảo luận thấu đáo hơn về các vấn đề tổng quát của kinh tế học phúc lợi khi có bất đối xứng thông tin và thông tin không hoàn hảo có thể thấy trong các bài giảng Lindahl của tôi về "Kinh tế học phúc lợi với thông tin bất đối xứng -
Welfare Economics with Asymmetric Information" (sắp xuất bản, Oxford University Press).
[10]Xem ở dưới đây thảo luận tỉ mỉ hơn về nghĩa theo đó những lí giải phổ biến về sự thấu hiểu do mô hình Arrow-Debreu cung cấp là đúng và không đúng.
[11]Như thế phân tích của Greenwald-Stiglitz giải thích vì sao các mô hình đại lí tiêu biểu đơn thuần chẳng có ích gì trong đánh giá tính hiệu quả của các nền kinh tế thị trường. (Tất nhiên một kết quả đưa ra các điều kiện theo đó các thị trường với những người đại lí tiêu biểu hoá ra là có hiệu quả sẽ nói cho chúng ta điều gì đó, nhưng các kết quả chứng tỏ rằng một mô hình đại lí tiêu biểu cụ thể nào đó có hiệu quả chẳng có mấy giá trị, nếu có).
[12]Một thí dụ thứ ba nữa là nền kinh tế thị trường cổ phiếu không có phá sản và có một mặt hàng duy nhất được Diamond (1967) nghiên cứu. Stiglitz (1982a) chỉ ra rằng với chỉ hai mặt hàng, nền kinh tế thị trường cổ phiếu về căn bản chẳng bao giờ có hiệu quả Pareto hạn chế. Greenwald và Stiglitz chỉ ra bằng cách nào kết quả của Stiglitz (1982a) có thể được coi là trường hợp đặc biệt của định lí tổng quát hơn của họ. Các vấn đề khác, khá khác biệt, về tính hiệu quả của các nền kinh tế với một tập không đầy đủ của các thị trường rủi ro (thí dụ, khả năng có nhiều cân bằng, một trong số đó có thể bị vượt trội Pareto bởi cân bằng khác) được Stiglitz (1972b), Drèze (1974), và Hart (1975) nghiên cứu.
[13]Thí dụ này giúp làm rõ kết bản chất đặc biệt của kết quả của Diamond, chỉ ra tính hiệu quả Pareto hạn chế của các nền kinh tế thị trường cổ phiếu với một mặt hàng duy nhất. Trong mô hình của ông các hành động của mỗi nhà đầu tư không có ảnh hưởng đến phân bố xác suất lợi tức, bởi vì giá tương đối của các hàng hoá khác nhau
được giả thiết là cố định.
[14]Đây là trường hợp trong mô hình chọn lọc có hại chuẩn. Xem Akerlof (1970).
[15]Là việc tinh tế hơn một chút để chỉ ra rằng chính phủ có thể ảnh hưởng đến những thay đổi này theo cách để cho tất cả mọi người đều khá giả hơn - biết rằng chính phủ đối mặt với các hạn chế về thông tin hệt như những người sử dụng lao động đối mặt. Nhưng nếu có đủ nhiều loại mặt hàng khác nhau (mà các nhóm có năng lực khác nhau có sự ưa thích khác nhau), thì có thể chỉ ra rằng chính phủ quả thực có thể đạt một cải thiện Pareto.
[16]Thảo luận này làm rõ vì sao các kết quả trước đây, như của Shavel (1979) khẳng định tính hiệu quả Pareto hạn chế của các nền kinh tế thị trường có hiểm hoạ đạo đước với một mặt hàng
duy nhất là không tổng quát: Với một loại hàng hoá thì chính sách của chính phủ không có cơ hội ép cẩn trọng hơn thông qua các thuế suất khác biệt với các hàng hoá khác nhau.
[17]Một cách đưa ra các suất thuế/trợ cấp tối ưu, xem Arnott and Stiglitz (1986).
[18]Một định lí dân gian là một định lí được biết đến rộng rãi, mà nguồn gốc của nó không dễ tìm ra. Nó là một phần của truyền thống truyền miệng trong một lĩnh vực cụ thể. Định lí dân gian nổi tiếng nhất mới đây là định lí trong các trò chơi lặp lại, nó phát biểu rằng đối với bài toán thế lưỡng nan của các phạm nhân được lặp lại mãi mãi, thì chiến lược "hợp tác-hợp tác" là một cân bằng hoàn hảo trò chơi phụ của trò chơi chính.
[19]Nhiều năm trước, khi tôi được phân nhiệm vụ lên chương trình thi tiến sĩ toàn diện về kinh tế học vĩ mô, tôi đã ngốc đến mức đi hỏi những giả thiết kinh tế chủ yếu nào của các định lí căn bản của kinh tế học phúc lợi có thể bị nghi ngờ. Ít nhất một phần ba sinh viên, được đào tạo tốt về toán liên quan đến các định lí này, đã trả lời với thảo luận kéo dài về vai trò của giả thiết không thoả mãn, hoàn toàn bỏ qua bất kể thảo luận nào về các vấn đề mà tôi quan tâm đến trong các bài giảng này.
[20]Giả như không có tính không lồi (nonconvexity), như lí thuyết chuẩn giả thiết, thì có lẽ có thể có nhiều xí nghiệp sản xuất tại mỗi ngày, mỗi địa điểm, và mỗi trạng thái tự nhiên. Theo một nghĩa nào đó lí thuyết là nhất quán trong đưa ra một loạt các giả thiết vô lí, nhưng "chặt chẽ". Với các chi phí cố định nhỏ gắn với sản xuất của mỗi mặt hàng có trạng thái-địa điểm-thời gian cụ thể này (hoặc mỗi nhóm của các mặt hàng như vậy), không chỉ sẽ không có nhiều xí nghiệp sản xuất mỗi thứ, mà nhiều mặt hàng như vậy thậm chí sẽ không được sản xuất ra.
[21]Điểm này được Radner (1968) đưa ra đầu tiên.
[22]Điều này không hoàn toàn chính xác. Chừng nào có khả năng không trả được nợ, thì những người cho vay chịu một số rủi ro còn lại.
[23]Xem Stiglitz (1992b).
[24]Xem Asquith and Mullins (1986).
[25]Điều này đôi khi được nhắc tới như vấn đề về "tri thức được che dấu", ngược lại với vấn đề hiểm hoạ đạo đức được nhắc đến như một vấn đề về "hành động che dấu", nhưng tôi nghĩ cách mô tả hơi lầm lạc. Vấn đề hiểm hoạ đạo đức nảy sinh bởi do một loại vấn đề tri thức bị che dấu - tri thức bị che dấu liên quan đến các hoạt động của cá nhân.
Vì sao chúng tôi dùng thuật ngữ "vấn đề chọn lọc" hoặc "vấn đề sàng lọc" có thể thấy rõ ràng hơn trong khung cảnh của thị trường bảo hiểm hoặc thị trường lao động. Hãng bảo hiểm muốn chọn lọc hoặc sàng lọc để có rủi ro thấp nhất; người sử dụng lao động muốn chọn lọc (hoặc sàng lọc) lấy những người lao động có năng suất cao nhất. Trong thị trường sản phẩm ô tô cũ người mua muốn chọn ra xe ôtô được định giá thấp nhất, tức là, chiếc xe cũ có giá trị cao nhất. Tất cả các vấn đề này có điểm chung là có một đặc trưng của mặt hàng quan trọng đối với một bên (thí dụ, người mua) mà nó không quan sát được một cách không tốn kém hoặc trực tiếp đối với cá nhân ấy.
Thuật ngữ chọn lọc có hại được dùng để chỉ sự thực là khi một điều khoản nào đấy của hợp đồng thay đổi, thì có một tác động có hại lên chất lượng của hỗn hợp của những người chào mình trên thị trường; thí dụ, tăng phí bảo hiểm có ảnh hưởng xấu đến hỗn hợp của những người muốn mua bảo hiểm, tăng lãi suất của khoản vay có ảnh hưởng xấu lên những người muốn vay, với một sự gia tăng tỉ lệ của những người có rủi ro xấu - những người có xác suất không trả được nợ cao.
[26]Điều này đôi khi được nhắc tới như vấn đề hành động che dấu bởi vì một bên của hợp đồng không thể quan sát được các hành động do phía bên kia tiến hành, và tương ứng không thể làm cho các hợp đồng tuỳ thuộc vào các hành động ấy. Các hợp đồng chỉ có thể được lập tuỳ thuộc vào những kết quả có thể quan sát được, hoặc vào những hành động có thể quan sát được (cái có thể liên quan đến các hành động che dấu).
[27]Lạ kì là một số hãng bảo hiểm cố phân biệt những người hút thuốc và những người không hút thuốc, tin rằng những người mua bảo hiểm sẽ thông báo một cách chân thật liệu họ có hút thuốc hay không.
[28]Một trình bày chặt chẽ hơn về điểm này có thể thấy trong Arnott and Stiglitz (1988a, 1990), ở nơi được chỉ ra rằng không chỉ bảo hiểm, nhìn chung, là không đầy đủ, mà trong một số trường hợp không có bảo hiểm nào có thể được cung cấp. (Nói một cách kĩ thuật hơn, trong một số trường hợp không tồn tại cân bằng cạnh tranh. Lí do cân bằng không tồn tại là khá khác với lí do được nhắc tới trong Rothschild and Stiglitz 1976).
[29]Các lí lẽ hiểm hoạ đạo đức cũng được dùng để giải thích tính mỏng mảnh, lèo tèo của thị trường vốn cổ phần: Những khoản nghĩa vụ cố định liên quan tới nợ tạo một khuyến khích cho các nhà quản lí làm việc siêng năng.
[30]Thảo luận này có một lịch sử li kì. Grossman (1975) và Grossman and Stiglitz (1976), sau khi đã đưa ra một số mô hình đơn giản, trong đó giá cả tiết lộ mọi thông tin liên quan, đã coi các trường hợp này là các "trường hợp giới hạn" giúp chúng ta tập trung ý tưởng vào việc làm thế nào tạo ra các mô hình thoả đáng hơn về giá truyền đạt thông tin; và chúng tôi đã nhanh chóng đi lập các mô hình như vậy. Một bộ phận văn khoa tiếp theo (thí dụ, Radner 1979) dường như cứ khư khư bám vào cái chúng tôi coi là vấn đề sai: tìm những điều kiện theo đó giá cả truyền đạt tất cả các thông tin liên quan.
Phải hiển nhiên từ phân tích của chúng tôi rằng không chỉ các giả thiết liên quan đến số chiều của trường chứng khoán được bán như hàng hoá là quan trọng mà các giả thiết liên quan đến hàm thoả dụng cũng vậy. Thí dụ, chúng tôi đã khai thác một mô hình trong đó những nông dân khác nhau có thông tin về mùa màng của họ. Điều này ảnh hưởng đến cầu kì hạn của họ, và
với một hàm thoả dụng bất biến né rủi ro hoàn toàn, thì giá kì hạn truyền đạt mọi thông tin liên quan, tức là, cung cấp một bộ tiên đoán hoàn hảo của cung tương lai. Lí do là đơn giản: Cầu đối với kì hạn là
tuyến tính theo độ lớn của vụ thu hoạch của mỗi nông dân, và do giá kì hạn cân bằng có thể được chỉ ra là hàm số chỉ của tổng thu hạch. Với hầu như bất kể hàm thoả dụng nào khác, cầu với kì hạn sẽ không còn tuyến tính theo độ lớn vụ thu hoạch, và như thế một giá thấp có thể có nghĩa là hoặc tổng cung cao hơn, hoặc có sự phân bố khác hẳn nhau trong độ lớn vụ thu hoạch (Xem Jordan 1983 hoặc Gale and Stiglitz 1985).
[31]Tức là, các thị trường trong đó những người tham gia có thông tin khác với thông tin nhận được với chi phí bằng không.
[32]Xem Grossman and Stiglitz (1980a).
[33]Tất nhiên, về nguyên tắc, mô hình Arrow-Debreu bao hàm các trạng thái ngoại sinh, và không rõ là liệu chúng ta phải coi phát minh về năng lượng nguyên tử là "ngoại sinh" hoặc "nội sinh". Trong mức độ phụ thuộc vào phân bổ các nguồn lực cho nghiên cứu, nó là nội sinh. Nhưng kết quả phụ thuộc không chỉ vào sự phân bổ nguồn lực mà còn vào "trạng thái" cơ bản chưa được biết đến - thế giới mà nghiên cứu phải khám phá ra. Như thế có các chủ nghĩa hình thức có thể bao hàm các rủi ro này - nếu chúng đã được phát biểu - trong khuôn khổ hình thức hoá trạng thái tự nhiên. Tuy nhiên, nghiên cứu sẽ làm thay đổi xác suất chủ quan liên quan đến các trạng thái khác nhau của tự nhiên, và bản thân những sự thay đổi nội sinh này về các xác suất lại bị loại trừ khỏi lí thuyết. Như vậy các hình thức chủ nghĩa này không cứu nguy cho các kết quả chủ yếu của hệ thuyết cổ truyền.
[34]Với sự áp đảo của kinh tế học theo Keynes trong kinh tế học vĩ mô và hệ thuyết cạnh tranh hoàn hảo trong kinh tế học vĩ mô, mô hình cạnh tranh độc quyền đã tương đối ít được khai phá cho đến tận lúc nó hồi sinh trở lại một cách hình thức bởi Spence (1976) và Dixit and Stiglitz (1977). Những sự tương đồng (và dị biệt) giữa các mô hình này và cạnh tranh không hoàn hảo gây ra bởi thông tin không hoàn hảo là hiển nhiên trong các nghiên cứu của Salop (1976), Salop and Stiglitz (1977, 1982, 1987), Stiglitz (1986a, 1989b), Wolinsky (1986), và Diamond (1971). Những kết quả này được đoán trước bởi Arrow (1988) và Scitovsky (1950). Về các tài liệu tham khảo khác xem Stiglitz (1989b).
[35]Xem Dixit and Stiglitz (1977).
[36]Xem Salop and Stiglitz (1977, 1982).
[37]Trừ ở mức độ là chủ nghĩa xã hội thị trường nhấn mạnh đến khuyết tật thị trường trong phân bổ đầu tư một cách hiệu quả, một phần như kết quả của sự thiếu vắng các thị trường kì hạn và rủi ro cần thiết.