Vấn đề nguồn gốc danh xưng
Bụt hay
Phật đã được bàn cãi rất nhiều suốt mấy năm qua, dù cả hai danh xưng đó đều được chấp nhận là cách phiên âm của danh từ
Buddha trong Phạn văn. Song cũng như nhiều cuộc tranh luận khác, dường như khẳng định cuối cùng vẫn còn để ngỏ. Trên tinh thần trao đổi và học hỏi, chúng tôi đóng góp bài viết nhỏ này, dựa vào kết quả nghiên cứu của nhà Phật học Quý Tiển Lâm của Trung Quốc
[1] để trình bày mối liên quan giữa
Buddha trong Phạn văn với
Phật (hay
Bụt) trong Hán văn, mà chúng tôi cho là có tính thuyết phục và đáng tin cậy hơn cả. Trong bài viết này, chúng tôi không đi sâu vào vấn đề từ nguyên và ngữ âm, mà chỉ trình bày vì sao danh từ
Buddha với hai âm tiết lại được phiên âm thành
Phật hoặc
Bụt chỉ với một âm tiết.
Về danh xưng
Bụt và
Phật, đại khái hiện nay có ba quan điểm:
a. Quan điểm thứ nhất: Phần đông cho rằng từ “
Buddha” trong Phạn văn được phiên âm sang Hán văn là “
Phật Đà 佛陀” hoặc “
Bột Đà 勃 陀”; và
Phật là cách gọi tắt của
Phật Đà, còn
Bụt cách đọc trại chữ “
Bột” trong “
Bột Đà”.
b. Quan điểm thứ hai: Bụt (chữ
Nôm viết là 孛) là cách phiên âm trực tiếp âm tiết thứ nhất của từ
Bhudha của người Việt trong giai đoạn sơ kỳ, khi Phật giáo Ấn Độ truyền bá vào nước ta:
Bud →
Bụt. Quan điểm này cho rằng cách đọc
Bụt (là cách đọc bình dân của người Việt) đã xuất hiện trước cách đọc
Phật (là cách đọc bác học theo kinh điển Trung Quốc), để khẳng định rằng vào buổi ban đầu, Phật giáo Việt Nam được truyền trực tiếp từ phương Nam tức từ Ấn Độ sang, chứ không phải được truyền từ phương Bắc là Trung Quốc. Cách đọc
Phật là do ảnh hưởng của Trung Quốc, và cách đọc này chỉ xuất hiện khi quân Minh sang xâm lược nước ta, tức khoảng cuối thế kỷ 15.
c. Quan điểm thứ ba: Về từ nguyên thì
Bụt và
Phật đều là cách đọc khác nhau của cùng một chữ 佛 trong chữ Hán mà thôi. Chỉ khác là trước kia đọc là
Bụt, sau này đọc là
Phật. Nói chung thì
Bụt và
Phật tuy hai mà một.
Song có một điều đơn giản mà các nhà nghiên cứu chưa giải quyết được là: vì sao trong cả hai cách phiên âm
Bụt hay
Phật đều chỉ có một âm tiết, trong khi từ
Buddha trong tiếng Phạn lại có hai âm tiết? Do đó mới nảy ra cách phỏng đoán
Phật chỉ là cách đọc tắt của
Phật Đà, và
Bụt là cách đọc tắt của
Bột Đà hoặc là cách phiên âm trực tiếp âm tiết thứ nhất của từ
Bhudha.
Bụt là
Phật, điều đó hiển nhiên không có gì để bàn cãi. Trong truyện cổ tích Việt Nam thì
Bụt là hình tượng dùng để chỉ vị tiên hiền lành nhân hậu, chuyên ban phúc và cứu giúp cho người lương thiện, điển hình là trong truyện “Tấm Cám”. Từ
Bụt đã tồn tại rất lâu trong ca dao tục ngữ, lẫn văn chương bác học.
Ví dụ:
- Chưa dễ ai là Bụt Thích ca/ Mọi điều nhân nghĩa nhẫn thì qua (Nguyễn Bỉnh Khiêm);
- Bụt cũng hiền từ sư cũng khá/ Chỉ hai con chó chữa từ bi (Nguyễn Công Trứ);
- Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy (Tục ngữ) v.v…
Tác giả Nguyễn Trọng Phu trong bài nghiên cứu “Bụt hay Phật?”có trích dẫn theo quyển
Lịch sử chữ Quốc ngữ” của Ðỗ Quang Chính (Tủ sách Ðường Mới, Paris, 1985) một bản thảo của Bento Thiện (sinh năm 1614) là một thầy giảng thuộc Dòng Tên đạo Thiên Chúa, sống gần thời với Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes 1593-1660) và đã học chữ quốc ngữ đầu tiên với các linh mục Dòng Tên Marini, Gaspar d'Amiral, Ðắc Lộ. Trong bản thảo đó cho thấy hai từ
Bụt và
Phật đều được dùng đồng thời
[2] .
Theo các tự điển Phật học thì từ Phật 佛 còn có các cách gọi khác như:
- Bộ Đa 部多
- Bộ Đà 部陀
- Bột Đà 勃 陀/勃 馱/馞 陀
- Bộ Tha 步 他
- Hưu Đồ 休 屠
- Một Đà 沒 馱/没陀
- Phật Đà 佛陀/佛 馱
- Phật Đồ 佛圖
- Phí Đà 沸 馱
- Phù Đà 浮 陀
- Phù Đầu 浮 頭
- Phù Đồ 浮 屠/浮 圖
- Phục Đậu 復豆
- Vật Tha 物 他
- Vô Đà 毋陀 v.v….
Trên đây là một số cách mà người Trung Quốc, qua nhiều giai đoạn, dùng để dịch âm danh từ
Buddha trong Phạn văn, dịch ý là “
Giác giả”, nghĩa là “
Đấng giác ngộ”, dùng để chỉ đức Phật. Hai cách phiên âm phổ biến được sử dụng trong kinh điển là “
Phù Đồ” 浮屠 hay 浮圖,và “
Phật” 佛, song cách phiên âm được kinh điển Trung Quốc sử dụng nhiều nhất vẫn là
Phật.Trong bài này, chúng ta tập trung vào cách phiên âm
Phật.
Theo các vận thư và tài liệu cổ Trung Quốc thì chữ
Phật có nhiều cách phiên thiết. Căn cứ vào
Tập vận 集韻 và
Chính vận 正韻 thì chữ
Phật có hai cách phiên thiết, và do đó có thể đọc theo hai cách bằng âm Hán Việt:
1. Phù vật thiết (符勿切)
| =>
| Ph(ù) + (v)ật => Phật.
|
2. Bồ một thiết (蒲沒切)
| =>
| B(ồ) + (m)ột => Bột.
|
Theo
Thích Văn 釋 文 thì Phật được đọc theo âm
Bật 弼.
Đây có lẽ là cơ sở ngữ âm để các nhà nghiên cứu suy ra rằng
Bụt (là cách đọc trại của
Bột) và
Phật đều là cách đọc của một chữ Hán duy nhất, tại hai giai đoạn khác nhau. Theo nhà Hoa ngữ học lỗi lạc Karlgren, trong tác phẩm
Grammata Serica, thì chữ
Phật có 3 cách đọc là [b’i̭wt/b’i̭ut/fu]. Trong các tự điển Trung Quốc hiện đại, chữ
Phật được phát âm theo hai cách là [Fó] và [Bó]. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng giữa cách phát âm
Bụt và
Phật có mối liên quan mật thiết. Còn vì sao cách đọc
Bụt hầu như mất hẳn khỏi nền văn chương truyền khẩu lẫn văn chương bác học thì mọi nghiên cứu để chứng minh cũng chỉ đều là sự suy diễn và phỏng đoán, chứ chưa có một cơ sở khoa học hoặc chứng cứ lịch sử vững chắc nào để khẳng định một cách thuyết phục, ngoài những luận cứ về ngữ âm.
Nếu cho rằng
Bụt là cách đọc trại của
Bột trong
Bột Đà thì phải chấp nhận hai sự kiện. Thứ nhất: từ
Bột Đà trong kinh điển Trung Quốc đã xuất hiện trước từ
Bụt trong tiếng Việt. Song hiện nay vẫn chưa thấy có văn bản nào được trích dẫn làm sở cứ để chứng mình điều đó cả. Thứ hai: để
Bột trong
Bột Đà biến thành cách đọc
Bụt trong dân gian thì rõ ràng
Bột Đà phải là từ rất phổ biến. Song từ
Bột Đà chủ yếu chỉ xuất hiện trong các chân ngôn và thần chú trong kinh điển như kinh
Lăng Nghiêm, kinh
Phật đỉnh tôn thắng đà la ni (bản dịch của sa môn
Phật Đà Ba Lợi) v.v… Mà trong kinh điển Phật giáo, tần số xuất hiện của thần chú, chân ngôn so với kinh văn do Phật thuyết lại không cao, thêm vào đó là trúc trắc rất khó đọc, khó nhớ. Tín đồ Phật giáo không còn lạ gì câu: “
Đi lính sợ trèo ải, làm sãi sợ chú Lăng Nghiêm”, đủ thấy các chân ngôn, thần chú đọc khó tiêu, khó nhớ như thế nào. Do đó, chúng tôi cho rằng
Bột Đà khó lòng được sử dụng phổ biến trong dân gian để biến thành cách gọi tắt là
Bụt trong tiếng Việt được.
Còn nếu chỉ căn cứ vào sự xuất hiện của từ
Bụt trong những câu ca dao, tục ngữ hoặc các câu chuyện cổ tích dân gian mà ta không thể xác định được thời điểm ra đời, để khẳng định rằng
Bụt là cách người Việt phiên âm trực tiếp âm tiết thứ nhất của từ
Bhuddha, và qua đó khẳng định rằng Phật giáo được truyền đến Việt Nam trước khi qua Trung Quốc, thì e rằng rất khó thuyết phục.
Thông thường, khi một từ của ngôn ngữ nước ngoài được du nhập vào ngôn ngữ bản địa, mà ta gọi là
tá tự hay là
từ vay mượn (loan-word), thì người ta phải dùng cách đọc tương tự của ngôn ngữ bản địa để dịch âm, gọi là
âm dịch hoặc
thể thanh, sao cho cách đọc đó bảo lưu được âm hình ban đầu, dù từ phiên âm đó không có nghĩa trong ngôn ngữ bản địa. Ví dụ người Việt dùng từ “
xà-phòng” hoặc “
xà-bông” để gọi
savon của người Pháp, hoặc “
xăng-uých” để gọi bánh
sandwich của người Mỹ. Chắc chắn phải trải qua một thời gian dài và được sử dụng phổ biến, dần dần người ta mới quên hẳn nguồn gốc từ vay mượn đó và xem nó như là ngôn ngữ bản địa.
Danh từ
Buddha cũng vậy. Khi Phật giáo mới truyền bá đến Trung Quốc, các thuật ngữ chuyên môn đều được những tín đồ phiên dịch kinh Phật giữ nguyên âm điệu, bằng cách dùng những từ Trung Quốc có cách đọc tương đồng để phiên âm cho chính xác. Theo các nhà nghiên cứu, chưa có trường hợp từ hai âm tiết trong Phạn văn nào lại được phiên âm rút gọn thành một âm tiết trong Hán văn. Hơn nữa,
Buddha được xem là giá trị tối linh thì chắc chắn các tín đồ Phật giáo dịch kinh thời kỳ đầu không dám phiên âm tắt được. Đó là điều hiển nhiên. Ví dụ tín đồ Thiên Chúa giáo không dám gọi tắt đấng
Giê-hô-va là đấng
Giê-hô, cũng như tín đồ Hồi giáo không dám gọi tắt đấng
Ala là đấng
A được hay nhà tiên tri
Ma-hô-mét là
Ma-hô được.
Như vậy từ
Buddha được phiên âm thành
Phật hẳn phải bắt nguồn từ nguyên nhân khác. Như đã nói trên, rất nhiều người cho rằng
Phật là cách đọc tắt của
Phật Đà hoặc
Bột Đà. Ngộ nhận này khá phổ biến, và đều bắt nguồn từ
Dị bộ tông luân luận thuật ký 異 部 宗 輪 論 述 記 mà ra. Cuốn này ghi rằng: “
Phạn âm ‘Phật Đà’ là nói đấng giác ngộ. Từ xưa đã gọi tắt là Phật” (佛陀梵音,此云覺者. 隨舊略語,但稱曰佛:
Phật Đà Phạn âm, thử vân giác giả. Tuỳ cựu lược ngữ, đản xưng viết Phật).
Sư cô Chơn Không của thiền viện Làng Mai dẫn chứng lời nói của pháp sư Khuy Cơ, trong phần chú thích cho “Lá thư Làng Mai 25”, như sau:
“Sư khuy Cơ, cao đệ của Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang, đời Ðường, trong sách
Ðại thừa pháp uyển nghĩa lâm chương, quyển thứ sáu, có nói: ‘Bột Ðà (Buddha) là tiếng Phạn, gọi tắt một cách sai lầm là “Phật” (Phạn văn Bột Ðà, ngoa lược vân Phật)’”
[3] .
Điều này lâu nay đã trở thành hiển nhiên đến mức hầu như không còn ai nghi ngờ gì nữa. Song trong các thư tịch còn lại từ thời Hậu Hán Tam Quốc, thì danh từ “
Phật” đã xuất hiện trước danh từ
Phật Đà rồi! Thư tịch cho thấy không có trường hợp danh từ
Phật Đà xuất hiện trước danh từ
Phật. Có thể
Phật Đà chỉ là cách phiên âm bổ sung thêm vào từ
Phật trong giai đoạn về sau, chứ không phải
Phật là cách đọc tắt của
Phật Đà.
Nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc sống sau thời Hậu Hán, khi đối chiếu nguyên bản Phạn văn với những danh từ được phiên âm trong bản dịch kinh Phật đời trước, thấy không tương đồng, nên cho rằng đó là cách phiên âm sai hoặc phiên âm tắt. Thật ra, trong buổi ban đầu, Phật giáo truyền đến Trung Quốc không phải là Phật giáo Ấn Độ như chúng ta lâu nay lầm tưởng, mà chính là Phật giáo vùng Trung Á, từ các nước như Đại Nhục Chi và các nước nhỏ vùng Tân Cương ở Trung Á, thông qua con đường tơ lụa. Do đó, khi được du nhập vào Trung Quốc trong buổi sơ kỳ, thì phần lớn kinh Phật không được dịch trực tiếp từ Phạn văn mà thông qua một ngôn ngữ trung gian. Chỉ đến đời ngài Huyền Trang thì công việc dịch thuật mới được xem là tập đại thành. Chính vì vậy, trong tác phẩm
Đại Đường Tây Vực ký của mình, ngài Huyền Trang đã phê phán cách phiên âm nhiều thuật ngữ Phạn văn trước đó là sai (
Ngoa dã). Ví dụ ngài cho rằng phải phiên âm Yojana là
du thiện na thay vì
do tuần hay
do diên, Vaiśya là
Phệ Xá thay vì
Tỳ Xá v.v…
[4] Thực ra, đó không có gì là sai cả. Điều này cũng tương tự như ta phiên âm các danh từ Hy Lạp bằng tiếng Việt, qua trung gian tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
Khi kinh Phật truyền vào Trung Quốc thì danh từ
Buddha trong Phạn văn được phiên âm khác nhau là “
Phù Đồ” hoặc “
Phật”, chỉ vì do con đường du nhập vào Trung Quốc khác nhau, nghĩa là qua hai ngôn ngữ trung gian khác nhau. Danh từ
Buddha trong Phạn văn được phiên âm là “
Phù Đồ” khi qua nước Đại Hạ và
But khi qua các nước nhỏ vùng Tân Cương, Trung Á. Nhà Phật học Quý Tiển Lâm, với kiến thức uyên bác và những luận chứng thuyết phục về ngữ học đã chứng minh cho thấy trong văn tự Hồi Hột,
Buddha biến thành trọc âm (âm đục)
But. Và các tín đồ Phật giáo Trung Quốc buổi sơ kỳ đã dùng chữ
Phật để phiên âm lại danh từ
But, vì trọc âm xưa của Phật “佛” cũng là
But.
Trong kinh nhật tụng bằng văn tự Hồi Hột, ta thấy cách tụng Nam mô Phật/ Pháp/Tăng như sau:
Quy mệnh Phật (Nam mô Phật)
| 歸命佛(南無佛)
| =>
| namo but
|
Quy mệnh Pháp (Nam mô Pháp)
| 歸命法(南無法)
| =>
| namo drm
|
Quy mệnh Tăng (Nam mô Tăng)
| 歸命僧(南無僧)
| =>
| namo sag
|
Cách phiên âm của từ
Buddha trước khi vào Trung Quốc, đã thay đổi qua ngôn ngữ trung gian như sau:
1. Ấn Độ
| => Đại Hạ (Đại Nhục Chi)
| => Trung Quốc
|
Buddha
| => bodo, boddo, boudo
| => Phù Đồ.
|
| | |
2. Ấn Độ
| => Các nước nhỏ vùng Tân Cương, Trung Á
| => Trung Quốc
|
Buddha
| => But
| => Phật/Bột.
|
Sau đây là bảng đối chiếu cách phiên âm từ
Buddha trong một số văn bản:
Trong văn tự
| Buddha biến thành
|
Đại Hạ
| bodo,boddo,boudo
|
Các nước nhỏ vùng Tân Cương, Trung Á
| but
|
Văn tự Ba Tư cổ (Thánh điển của Bái hoả giáo)
| bwt
|
Văn tự Ma Ni giáo của An Tức
| bwt/but
|
Văn tự Ma Ni giáo của Mễ Đặc
| bwty,pwtyy
|
Kinh điển Phật giáo Mễ Đặc
| pwt
|
Như vậy, chính vì do cách phiên âm qua trung gian của ngôn ngữ vùng Trung Á
[5] , trong khoảng trung thế kỷ, mà người Trung Quốc đã dùng từ
Phật để phiên âm từ
Buddha của tiếng Phạn, chứ hoàn toàn không phải là cách phiên âm trực tiếp. Điều này cho thấy chữ
Phật có thể được đọc là
Bụt trong thời cổ. Đây là những luận cứ khoa học về ngữ âm mà chúng tôi thấy là đáng tin cậy hơn cả.
Do đó, chúng ta có thể tạm kết luận:
Phật hay
Bụt đều là hai cách đọc khác nhau của một từ duy nhất. Và từ này không phải được phiên âm trực tiếp từ danh từ
Buddha trong Phạn văn, mà thông qua ngôn ngữ trung gian của vùng Trung Á.
Chúng tôi hy vọng rằng bài viết ngắn này giải thích được phần nào nguồn gốc của hai từ
Bụt và
Phật. Song theo thiển ý, đã là Phật tử thì chúng ta cũng không cần phải quan tâm quá đáng với sự phân biệt giữa
Bụt và
Phật như các nhà nghiên cứu, mà hãy tự hỏi từ
Bụt có đem lại an lạc tâm linh hơn từ
Phật hay không, và ngược lại? Đạo Phật chủ trương “
Bất hoại giả danh nhi thuyết thực tướng”. Trong kinh Lăng Già, đức Phật luôn nhắc nhở môn đồ rằng tất cả ngôn thuyết đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, cho nên ngôn thuyết không thể nói về đệ nhất nghĩa đế, huống chi là hai từ
Bụt và
Phật?
© 2008 talawas
[1]Quý Tiển Lâm,
Phật giáo học thuật luận văn tập, Nxb Đông sơ xuất bản xã, Đài Bắc, 1996, tr. 1 - 18.
[2]Xem “Bụt hay Phật?”, Nguyễn Trọng Phu,
http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-buthayphat-01.htm[3]Xem “Danh từ Bụt - Trích Lá thư Làng Mai ngày 12-2-2002”, Sư Cô Chơn Không,
http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-buthayphat-02.htm[4]Xem thêm
Bút ký Đường Tăng, dịch giả TS Lê Sơn, Nxb Phương Đông, 2007, các tr. 75, 128, 153, 157…
[5]Mễ Đặc tức Sugda thời trung thế kỷ, còn gọi là Tốt Lợi (sūlīk), người BaTư cổ đại gọi là Suguda. Đại Hạ là quốc gia ở vùng tây bắc Trung Quốc thời cổ, người Hy Lạp cổ đại gọi là Bactria. An Tức là Arsacid hay Parthia thời cổ.