trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 89 bài
  1 - 20 / 89 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngPhương Đông và Phương Tây
3.3.2005
Vladimir Malyavin
Một ngày ở Hà Nội
Phạm Minh Ngọc dịch
 
Lời cảnh báo của người dịch: Những ai đã quen sống trong “tiện nghi tức thời” (Instant Comfort -từ của Hà Nhân Văn LLH), hay những ai vốn chỉ quen nghe những lời êm ái đầy chất sirô có ga kiểu như “Sự nghiệp xây dựng một nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc đã đạt được nhưng thành tựu nhất định”, “Văn hoá Việt Nam thiết tha với cuộc sống con người”… xin hãy bảo trọng; để đảm bảo sức khoẻ xin đừng đọc bài này!
Tôi chưa từng đến Việt Nam, lần này tôi quyết định thay đổi đường bay quen thuộc và trên đường trở về Moskva đã ghé thăm Hà Nội. Tôi chỉ có một ngày, lại không biết tiếng Việt, nhưng hướng dẫn viên du lịch và chiếc ô tô sẽ giúp tôi giải quyết một “siêu nhiệm vụ”: tìm hiểu nét đặc thù của Việt Nam trên cái “phông” của những nước Đông Á mà tôi đã biết. Dĩ nhiên là không tránh khỏi cảm giác của một người nghiệp dư, nhưng là người nghiệp dư đã được trang bị: tôi đem theo một cái ấm trà Tầu vào quán Việt Nam.

Cái ấm hoá ra rất đúng chỗ và không phải là không có ích. Mọi thứ ở Hà Nội đều làm người ta nhớ đến Trung Quốc. Người Việt Nam, có thể từ lâu, không tự nhận ra rằng họ đã tiếp thu những điều sơ đẳng nhất của văn hoá Trung Hoa, từ cách tính lịch, cách đặt tên đến tôn giáo và cả phong cách nghệ thuật nữa. Tôi thật sự ngạc nhiên khi nhận ra rằng nhiều từ được phát âm không khác gì tiếng Hán, nghĩa là nếu muốn ta có thể gọi tiếng Việt là một phương ngữ của tiếng Hán. Như vẫn thường thấy ở ngoại vi, hơi hướng của quá khứ ở đây còn đậm hơn cả ở ngay chính nước Trung Hoa. Khi tôi hỏi từ “cám ơn” phát âm thế nào thì được biết nếu viết bằng chữ tượng hình từ đó có nghĩa là “rất cảm động vì lòng tốt của anh”. Một cách nói nhã nhặn theo truyền thống Trung Hoa cổ mà ngày nay ngay ở Trung Quốc cũng không dùng nữa. Mặc dù vậy, Việt Nam đã từng có hai ngàn năm đấu tranh với chính nước Trung Hoa đó để bảo vệ nền độc lập. Các mối quan hệ đối tác, bình thường hiện nay không xoá được mối nghi ngờ giữa hai bên cũng như những tranh chấp về lãnh thổ vẫn còn âm ỉ. Đấy là tình trạng “cãi nhau trong nhà” giữa các dân tộc láng giềng mà chúng ta đã quen!

Khoa xã hội học hậu hiện đại dạy rằng không hề tồn tại một tiêu chí tương đồng khách quan nào hết, tất cả những cuộc thảo luận về nó chỉ là trò bịp bợm, hay là trò chơi chính trị mà thôi. Nhưng tâm trí không chịu chấp nhận sự vô nghĩa lí của đời sống mà nó tự gán cho mình. Trong cái thế giới đầy thói đạo đức giả mệnh danh là chính trị này, tâm trí luôn luôn tìm kiếm một chỗ tiện nghi, một góc thân thuộc với nó. Nhưng tìm kiếm sự tương đồng của Việt Nam không phải là việc dễ. “Toàn bộ Hoa Hạ” tất nhiên là ít giống Việt Nam. Nhưng tách miền Nam Trung Hoa khỏi Việt Nam cũng không phải là việc đơn giản, sau khi rẽ vào một hiệu sách nhỏ thì tôi nhận ra rằng chính người Việt cũng coi nền văn hoá cổ truyền Nam Trung Hoa là thuộc nền văn minh Việt. Còn có sự khác nhau giữa nền văn hoá chính thức với các nền văn hoá của các dân tộc thiểu số trong nước Việt Nam và giữa Việt Nam với các dân tộc láng giềng phía Tây nằm trong vòng ảnh hưởng của nó nữa.

Mỗi lần tiếp xúc với quá khứ của Việt Nam là một lần tôi lại chạm trán với vấn nạn về đặc thù của nó. Đây là Chùa Một Cột, nhỏ như một túp lều trên cái chân gà (tác giả cố ý gợi hình ảnh ngôi nhà của mụ phù thuỷ, dựng trên cái chân gà, rất thịnh hành trong truyện cổ tích Nga - ND): một ông vua ở đây đã xây dựng ngôi chùa này để tri ân Đức Phật vì đã giúp hoàng hậu thụ thai. Truyền thuyết được mang từ ngoài vào, truyền thuyết này nổi tiếng khắp các nước Đông Á và có biểu tượng kép: nó vừa vinh danh hoàng gia vừa hạ thấp, nếu không nói, hạ nhục nhà vua với tư cách là một người đàn ông. Còn đây là Văn Miếu, thờ Khổng giáo: những bức tượng Khổng Tử và các học trò của ông được đắp trong thời gian gần đây, dành cho du khách và những phiến đá khắc đầy những chữ tượng hình, đứng nghiêm như một đội quân. Những chữ tượng hình trên cổng nghách ghi: “Người đỗ đầu được vinh danh trên toàn Vương Quốc”. Trong những tấm bưu thiếp dành cho du khách bán trong các quầy báo là hình các toà miếu theo kiểu Trung Hoa với những ông thánh Trung Hoa.

Tôi đã hỏi rất lâu người hướng dẫn tên là Duyên (tiếng Hán là Dung) rằng như vậy thì bản sắc nằm ở chỗ nào? Theo tôi thì anh ta không hiểu tôi muốn gì, nhưng cuối cùng đã chỉ cho tôi mẫu tự La Tinh như là một đặc trưng không thể chối cãi được của Việt Nam. Không có gì phải tranh luận, các dân tộc láng giềng với Trung Quốc đã tạo ra mẫu tự riêng của họ và đấy là những trở ngại chính cho quá trình Hán hoá hoàn toàn. Nhưng Việt Nam lại không phải là tiêu biểu trong trường hợp này: trước đây người Việt sử dụng chữ tượng hình, mẫu tự La Tinh chỉ được sử dụng từ thế kỉ XX.

Tôi buộc phải tự đi tìm lời đáp cho những câu hỏi của mình. Và đấy chính là cảm nhận đầu tiên về Việt Nam. Trên đường vào Hà Nội chúng tôi đã lọt vào những khu dinh cơ mới, một số còn đang được xây dựng: những ngôi nhà hẹp, cao, bốn năm tầng, có ban-công, tầng áp mái với hàng lan can, có tháp và mái như những nhà thờ Thiên Chúa giáo (người hướng dẫn nói rằng có cả mái tròn như củ hành theo kiểu nhà thờ Chính Thống giáo nữa), trang trí bằng đủ loại đèn màu, trông giống như các khu vui chơi. Đấy là dinh cơ của những nhà giàu mới, rất khiêm tốn so với tiêu chuẩn phương Tây, thậm chí so với Đài Loan, nhưng là hình ảnh của giấc mơ tự do, thậm chí suồng sã nữa. Tôi chỉ mới gặp những cảnh tượng như truyện cổ tích thế này ở các khu “hậu hiện đại” ở Mĩ, cũng dành cho những kẻ mới nổi như thế. Ở Trung Quốc, hay ở Nhật Bản không bao giờ có cảnh đó, các kiểu kiến trúc ngông cuồng như thế ở đó chỉ dành cho các khu vực có phẩm chất đáng ngờ (ý nói các khu nhà thổ -ND). Còn đối với tôi, một người sống ở Moskva, thì cảnh tượng này làm tôi nhớ tới kiến trúc các khu nhà nghỉ ngoại ô Moskva - kiến trúc không phải của đời sống mà là của mơ mộng, không phải của trật tự mà của sự tinh nghịch và đỏng đảnh, không phải của đời sống trần tục mà là của sự bay bổng trên chín tầng trời. Nhà nghỉ là cái bóng của đời, còn cuộc đời của cái bóng: hư ảo, không thể nắm bắt, thoáng qua, nhưng ai có thể nói rằng nó không đáng kể? Có thể loại bỏ một vật, nhưng cái bóng thì không. Đấy là một vật vô tích sự nhưng lại vững hơn bàn thạch. Dù toàn thể thế giới có biến mất thì cái bóng vẫn còn.

Liệu có phải do những qui luật khắc nghiệt của nền địa chính trị mà trong suốt lịch sử của mình Việt Nam đã sống trong “khu nhà nghỉ” của các nền văn minh vĩ đại? Nhiều thế kỉ trong “nhà nghỉ” Trung Hoa, sau đó dưới bóng của nước Pháp và sau này là nước Nga-Liên Xô, còn hiện nay là Mĩ: tôi không nhớ có nước nào mà người dân lại yêu thích cỏ cây đến thế. Trong khi đó người đi nghỉ nhìn xuống dân phố một cách ngạo mạn. Anh ta tự an ủi rằng mình có nhiều tự do hơn, có nhiều tiện nghi hơn. Đã tìm hiểu lịch sử Việt Nam và vì vậy ngay trong vô thức tôi vẫn cho rằng họ là những người hiếu chiến thâm căn cố đế, nhưng tôi đã kinh ngạc khi phát hiện ra cảnh suy nhược không hề giả tạo của người Hà Nội. Đối với tôi, họ trông giống như những người đã chiếm được một chỗ tiện nghi dưới bóng của kẻ khác, hay dưới cái bóng của niềm vinh quang có tính khu vực của chính mình: trên quảng trường trung tâm đầy cỏ dại, Lăng Hồ Chí Minh phô ra xương-cột của mình ngay trước toà nhà quốc hội trông chẳng khác gì nhà hát opera tỉnh lẻ.

Việc sống một cách quá lâu dưới bóng kẻ khác mà không hay đã tạo cho người Việt Nam khả năng tuyệt vời để tuyên bố về sự không giống ai của mình mà không cần suy nghĩ về thực chất sự không giống ai đó. Sự tương đồng còn mạnh khi nó còn chưa ló dạng, khi nó còn nằm dưới một cái bóng. Hơn nữa sự tương đồng trong bóng đó không những không cản trở mà còn đòi hỏi được đưa ra công khai. Người Hà Nội làm tôi ngạc nhiên bởi khả năng hoà nhập với phương Tây của họ, thật là một ca hiếm trong số các dân tộc lâu đời ở Á Đông. Ở trong các cửa hàng nhỏ trong khu phố cổ tôi đã từng chạm trán với nhiều thanh niên có thể giảng giải, đúng là giảng giải chứ không phải nói ra những từ học thuộc lòng, bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và không hiếm trường hợp, bằng tiếng Hoa nữa.

Diện mạo kiến trúc của Hà Nội cho đến nay vẫn do phong cách thuộc địa Pháp quyết định. Đấy là những toà nhà chính phủ, thấp, hai tầng, màu vàng treo các biểu ngữ và khẩu hiệu màu đỏ, những toà nhà kiến trúc theo lối nhà nghỉ, giống như dinh thự ngoại ô của các quan toàn quyền ngoại quốc vậy. Cái khách sạn đắt tiền (theo tiêu chuẩn địa phương) mà tôi có dịp ghé qua trước đây vốn là dinh cơ của một người Pháp, bên dưới chụp đèn Âu Châu là những bức tranh phong cảnh Trung Hoa, trên nền nhà là những chiếc đôn sứ Trung Quốc to đùng. Cả đồ Âu lẫn đồ Tầu đều nhạt và chẳng ai hiểu được ý nghĩa. Không phải Pháp cũng chẳng phải Trung Hoa mà chính là sự hoá thạch trơ lì và vô nghĩa của cả hai. Đồ cổ Việt Nam trông cũng có vẻ hoá đá tương tự: những tấm khăn trải bàn nhàu nát, những chiếc ghế bành sờn rách, mấy chàng bồi bàn ăn mặc hao hao thanh niên nhà quê.

Khu vực buôn bán cũ của Hà Nội vẫn còn nguyên vẹn và hiện đã biến thành khu bán hàng cho du khách. Đấy là một mạng lưới chằng chịt các đường phố, chia thành những khu tam giác như ở Paris, còn việc buôn bán thì vẫn theo truyền thống ngành nghề cũ: có phố chỉ bán thức ăn, có phố chỉ bán quần áo, vật dụng v.v. Ở đây cái bóng quá khứ của người và của chính mình thể hiện sức mạnh vô địch đối với nhà độc tài mệnh danh là hiện đại hoá. Trên toàn cõi Á Đông, đây lần đầu tiên tôi nhìn thấy sự mục nát trên những toà nhà cũ kĩ: mấy cái khung cửa sổ sơn son thếp vàng, những hàng lan can xiêu vẹo, mấy cái ban-công sẵn sàng đổ sập xuống đầu bất cứ lúc nào. Hoàn toàn khác với Nhật, nơi quá khứ được bảo quản cẩn thận, cũng khác với Trung Quốc, nơi quá khứ lặng lẽ có mặt trong đời sống thường ngày. Sự đổ nát chứa trong mình nó biểu tượng hai mặt: sự phù phiếm và vĩnh hằng của cuộc đời. Những khung cửa sổ trống rỗng, những thanh sắt chìa ra từ một hàng rào đổ, những viên đá lát đường cũ như cùng gào với theo khách bộ hành: “Chúng tôi còn có thể! Chúng tôi còn...”. Trên một bức tường mốc thếch, lở lói có hàng chữ tượng hình màu đỏ như viết bằng máu:

KHÁCH SẠN ĐẠI LA

Bên cạnh lấp lánh hàng chữ Tây (ghi theo nguyên văn):

BUY HERE FOR MANY YEAR

ICI ON PARLE FRANCAIS

Khả năng hấp thụ “đồ” Tây của người Việt phải nói là vượt mọi biên giới của trí tưởng tượng. Trong một quán bar, dưới nền nhạc rock-and-roll người ta chiếu những đoạn phim tài liệu của Đức Quốc Xã và cảnh tập luyện của lực lượng không quân Hoa Kì. Chui, dĩ nhiên.

Buổi tối tôi ghé vào rạp rối nước, lại một hiện vật văn hoá nữa sống còn được dưới cái bóng của những nền văn minh vĩ đại. Hàng ngàn năm trước nhà hát kiểu này đã từng có ở Trung Quốc nhưng nay không còn nữa vì không cạnh tranh nổi với những loại hình nghệ thuật tinh tế hơn, hoặc ngược lại, đơn giản hơn về mặt kĩ thuật. Phải nói thêm rằng múa rối hiện vẫn còn thịnh hành ở miền Nam Trung Quốc, đặc biệt là ở Đài Loan, tại đây các màn múa rối là một phần quan trọng của các buổi lễ hội và tục trừ tà. Rối luôn đứng cạnh tượng các ông thánh: các nghệ nhân chế tác cả hai loại, theo cùng một phong cách. Các buổi múa rối còn được người ta gán cho nhiều tính chất thần bí hơn các màn trình diễn của các nghệ sĩ chính cống nữa. Có phải đấy là do con rối chính là khởi đầu của việc hình tượng hoá đến mức lố bịch, đả kích trực diện? Phải chăng cách hình tượng hoá như thế chính là biểu hiện tuyệt vời nhất của sức sinh thành của cuộc đời, biểu hiện của Ảo Hoá Vĩ Đại của đời sống. Ở Châu Âu cũng như ở Trung Quốc người ta đều ví cuộc đời với hí trường, nhưng ở Trung Quốc thì đấy là hí trường của những con rối! Một người thông thái có thể làm chủ được tâm mình thì cũng có thể trở thành người điều khiển được những con rối-người. Nghĩa là ở Á Đông sự “tự thể hiện”, tính chất giải trí không phải là linh hồn của các buổi biểu diễn. Ngay việc xuất hiện nhà hát ở Trung Quốc được cho là có liên hệ đến con rối - tượng của một người con gái đẹp được một nhà cầm quân cổ đại tặng cho một nhà cầm quân khác và ông này đã yêu cô gái đó (bộ ba: Việt Vương Câu Tiễn, Ngô Vương Phù Sai và nàng Tây Thi – ND). Nhà hát theo truyền thống Trung Hoa (tôi cho là của cả Việt Nam nữa) không phải là tặng vật của thánh thần mà là tặng vật của con người, một tặng vật đáng ngờ, nó tạo trong người ta những tình cảm mạnh, vui vẻ và nguy hiểm.

Các vở kịch rối của Hà Nội hiện đã bị “xử lí” về mặt nghệ thuật và tư tưởng: nội dung tôn giáo đã bị loại bỏ, nhạc nền được hiện đại hoá. May là những cải biến này đã không động đến phần thực chất của buổi diễn, đấy là một trò chơi kết hợp giữa điển tích và nghi lễ. Người xem được thấy một loạt hoạt cảnh, chẳng có kịch tính, thậm chí nội dung cũng không nốt. Tất cả chỉ là biểu hiện của cuộc sống, rất nhiều cảm giác trong tiếng nhạc mở hết cỡ và màu sắc loè loẹt. Nhạc nền chủ yếu là chiêng trống, đấy là tổ tiên của mọi thứ nhạc cụ vì chúng tạo ra âm thanh “thực”, âm thanh của trò chơi. Trò chơi này không cần người xem: đấy là những buổi trình diễn để làm cho “vui lòng thánh” vì trò chơi giống như cuộc đời được sống hết mình chính là biểu hiện của vĩnh cửu, nó liên kết giữa thế giới của những người đang sống và thế giới của những người đã chết. Nhà hát phương Đông là tặng vật của con người dành cho thánh thần hay có thể nói dành cho phần tôn giáo sâu thẳm nhất trong trái tim mỗi người.

11.2.2005

Vladimir Malyavin là một nhà Đông Phương học nổi tiếng của Nga. Ông đã xuất bản nhiều tác phẩm về nền văn minh và các nhà hiến triết Trung Hoa cổ đại, có thể kể: Khổng Tử; Trang Tử; Đạo Đức kinh; Nền văn minh Trung Hoa; Hoàng hôn của Đạo. Văn hoá Trung Hoa trên ngưỡng cửa của Thời đại mới; Nghệ thuật Trung Hoa; Trung Quốc. Bách khoa thư về tình yêu; Chiến lược quân sự Trung Quốc và nhiều tác phẩm nổi tiếng khác, trong đó tác phẩm Khổng Tử được coi là một best-seller với số bản in là 150 ngàn cuốn.

© 2005 talawas
Nguồn: Bản tiếng Nga: http://www.russ.ru/columns/poison/20050211.html