TÆ° tưởngPhÆ°Æ¡ng Äông và PhÆ°Æ¡ng Tây 1.1.1990
Trần Äình Hượu
VỠđặc sắc văn hoá Việt
Talawas xin trân trá»ng giá»›i thiệu
vá»›i quý bạn Ä‘á»c bà i viết „VỠđặc sắc văn hoá Việt Nam“ (*) của
Trần Ãình Hượu. Má»™t cách tá»± nhiên, cuá»™c trao đổi trong thá»i gian qua trên
diá»…n Ä‘Ã n Talawas vá» Ä‘á» tà i „Ãông - Tây“ hầu nhÆ° đã biến thà nh má»™t
cuá»™c trao đổi vá» Ä‘á» tà i „Bắc - Nam“, hay nói chÃnh xác hÆ¡n là vá» quan hệ
giữa Trung Quốc và Việt Nam. Những luáºn Ä‘iểm mà Trần Ãình Hượu, má»™t trong
những tác gia khoa há»c nhân văn quan trá»ng nhất ở trong nÆ°á»›c, đã Ä‘Æ°a ra
mÆ°á»i lăm năm trÆ°á»›c đây vá» tÆ°Æ¡ng quan văn hoá Việt - Trung, vá» viá»…n cảnh
hiện đại hoá của Việt Nam nhÆ° má»™t „con Ä‘Æ°á»ng phÆ°Æ¡ng Ãông của sá»± phát triển
xã hội“ (tên một công trình của ông) thiết tưởng vẫn còn có thể mang lại
những gợi ý mang tÃnh thá»i sá»± cho cuá»™c thảo luáºn hiện tại xung quanh cuá»™c
„Ãối thoại Bắc Kinh“ giữa triết gia Juergen Habermas và các trà thức Trung
Quốc. (*) Ãầu Ä‘á» do ban biên táºp đặt. Ãây
không phải là má»™t bà i viết Ä‘á»™c láºp, mà được ghép từ nhiá»u chuyên luáºn khác
nhau của Giáo sÆ° Trần Ãình Hượu (1928-1995) đã công bố từ năm 1986 trở vá»
trÆ°á»›c ở trong nÆ°á»›c. Văn bản nà y, do TrÆ°Æ¡ng Hồng Quang táºp hợp, lần đầu
đăng trên Tạp chà „Ãối thoại“, số 4, 1992, Berlin và má»›i đây được in lại
trên Tạp chà „Văn hoá - Nghệ thuáºt“, số 6/2001, Hà Ná»™i.
Trần Äình Hượu VỠđặc sắc văn hoá Việt
Nam 1. Trong lịch sử của ta có hiện
tượng các phương thức sản xuất không đầy đủ, không thay thế nhau bằng cách
cái sau phủ định cái trước. Những tàn dư của xã hội nguyên thủy (như ruộng
công làng xã), của một chế độ nô lệ không điển hình (như nô tì công và
tư), của một chế độ phong kiến phân tán chưa thành hình (như các hào
trưởng, hào cường), một chế độ phong kiến tập trung quá sớm nhưng không
trọn vẹn vì thiếu kinh tế đô thị, tồn tại song song, đan chéo vào nhau như
một dạng trầm tích. Cho nên trong tư tưởng cũng có dạng trầm tích như vậy.
Nhưng nước ta lại sớm thống nhất, thống nhất dưới hình thức quận huyện của
chính quyền đô hộ rồi thống nhất thành quốc gia độc lập tạo ra điều kiện
để dân tộc hình thành sớm. Cho nên ý thức hệ cũng có dạng thống nhất. Sự
thống nhất ở đây được thực hiện đơn giản bằng cách kết hợp tư tưởng bản
địa với tư tưởng Tam giáo, Âm dương, Ngũ hành và các yếu tố khác.
2. Tôi cho rằng Nho giáo là xương sống của khối liên kết đó.
Rõ ràng là trong cái toàn thể mà ta hình dung thì Nho giáo là một phần
trong nhiều phần, thế nhưng nó là bộ phận then chốt, quy định sự chọn lọc,
sự sắp xếp vì nó là học thuyết thống trị, và hơn thế, nó thích hợp với cơ
chế chính trị - kinh tế - xã hội.
3. Các vị anh quân và cả
những nhà yêu nước lớn như Nguyễn Trãi chăm lo, phát triển Nho giáo học,
xây dựng Tư văn, tổ chức học hành thi cử, lo biên soạn quốc sử, khuyến
khích văn học... đều theo lời khuyên của thánh hiền, đều theo trị đạo của
Nho giáo.
4. Ta thường hiểu Nho giáo đơn giản, phiến diện,
sách vở, coi nó chỉ là ngoại lai, theo quân xâm lược phương Bắc vào, phục
vụ cho chế độ phong kiến... dường như nó là công cụ xâm lược, là chỉ có
sức hấp dẫn những giai cấp thống trị cũ mà không thấy Nho giáo rất thích
hợp với cuộc sống hẹp, tự nhiên, đóng kín gia đình, họ hàng làng xã, rất
thích hợp với nông thôn, với nền sản xuất của hộ tiểu nông. Một cuộc sống
có trên, có dưới, có tình anh em bà con, láng giềng, cô bác kiểu gia đình
êm ấm từ trong nhà cho ra đến làng, đến nước ; một cuộc sống thái bình ổn
định, an cư lạc nghiệp vốn rất hợp với lòng mong mỏi của nông dân...
5. Xã hội bình trị được đạt đến bằng lễ. Một thứ hoà mục làm
mọi người vui vẻ, một tình cảm êm đềm đằm thắm làm cảm hoá cả thiên nhiên
đến hết cả thiên tai hạn hán, làm xúc động tình cảm, đi vào âm nhạc thành
tiếng hoà vui của câu ca, tiếng hát, đi vào nghi lễ thành cái khoan hoà
tiết tấu của hành vi cử chỉ.
6. Ðạo đức Nho giáo là đạo đức
của con người hình dung mình sống trong gia đình, gia tộc, làng xóm, nước,
thiên hạ, trời đất, một thế giới gồm những cộng đồng từ nhỏ đến lớn hình
dung theo mô hình gia đình mở rộng. Không chỉ thiên hạ bình mà thiên địa
vị, vạn vật dục, khí hoà tràn đầy khắp trời đất.
7. Giữa các
dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nền văn hoá của ta đồ sộ, có những
cống hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những đặc sắc nổi bật. Ở một số
dân tộc hoặc là một tôn giáo, hoặc là một trường phái triết học, một ngành
khoa học, một nền âm nhạc, hội hoạ... phát triển rất cao ảnh hưởng phổ
biến và lâu dài đến toàn bộ văn hoá thành đặc sắc văn hoá của dân tộc đó.
Ở ta thần thoại không phong phú - hay là có nhưng một thời gian nào đó đã
mất hứng thú lưu truyền? Tôn giáo hay triết học cũng đều không phát triển.
Người Việt Nam không có tâm lý kiền thành, cuồng tín tôn giáo, mà cũng
không say mê tranh biện triết học. Các tôn giáo đều có mặt, nhưng thường
là biến thành một lối thờ cúng, ít ai quan tâm đến giáo lí. Không có một
ngành khoa học, kĩ thuật, giả khoa học nào phát triển đến thành có truyền
thống. Âm nhạc, hội họa, kiến trúc đều không phát triển đến tuyệt kĩ.
Trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất là thơ ca. Hầu như người
nào cũng có thể, cũng có dịp làm dăm ba câu thơ. Nhưng số nhà thơ để lại
nhiều tác phẩm thì lại không có. Xã hội có trọng văn chương, nhưng cũng
chưa bao giờ tôn ai là thi bá, và bản thân các nhà thơ cũng không ai nghĩ
cuộc đời, sự nghiệp của mình là ở thi ca. Chưa bao giờ trong lịch sử dân
tộc, một ngành văn hoá nào đó trở thành đài danh dự, thu hút, quy tụ cả
nền văn hoá.
8. Hoàn cảnh dẫn ta đi theo con đường tiếp nhận,
bắt chúng ta chỉ được nghĩ những chuyện thực tế, dạy chúng ta cách ứng
dụng nhanh chóng cái học được để ứng phó. Nhằm mục đích thực tế, cha ông
chúng ta đã lựa chọn những cái đã có sẵn, chấp nhận nó, không tính cả
chuyện những cái đó hoà hợp hay chống đối nhau, nhưng lại biết cách sử
dụng cho có ích không gây ra chống đối. Ðối với thực tế mà nhu cầu đặt ra
chỉ như vậy kho Kinh, Tạng của Tam giáo Trung Quốc là quá dư thừa, thậm
chí là quá mênh mông, ít ai có điều kiện học đủ.
9. Nhìn vào
lối sống, quan niệm sống, ta có thể nói người Việt Nam sống có văn hoá,
người Việt Nam có nền văn hoá của mình. Những cái thô dã, những cái hung
bạo đã bị xoá bỏ để có cái nền nhân bản. Tinh thần chung của văn hoá Việt
Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hoà. Không có khát vọng để hướng đến
những sáng tạo lớn mà nhạy cảm, tinh nhanh, khôn khéo gỡ các khó khăn để
tìm được sự bình ổn.
10. Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta
không háo hức cái tráng lệ, huy hoàng, không say mê cái huyền ảo, kì vĩ.
Màu sắc chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa
khéo, vừa xinh, phải khoảng giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình hợp lí. Áo
quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào
cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải.
11. Văn hoá truyền thống của ta là tốt đẹp. Và trong tương
lai, biết đâu cái màu sắc dịu dàng, tươi mát, cái không khí thanh bình của
nó lại không phải là nơi cần tìm đến trong cuộc sống căng thẳng của nền
sản xuất hiện đại?
12. Lược bỏ cũng có nghĩa là đơn giản hoá,
sơ lược hoá. Thế nhưng làm như thế mà giảm bớt đi được những cái tế toái,
cứng nhắc, những cái trái tự nhiên, trái nhân đạo, vốn có nhiều trong cách
giải thích kinh điển Trung Quốc thì không phải là dở. Sự linh hoạt - không
biết nên giải thích là tinh thần trung dung của Nho giáo, tinh thần nhu
đạo, bất tranh của Lão - Trang, tinh thần hỉ xả, từ bi của Phật hay chỉ là
tập quán chín bỏ làm mười bản địa - tất nhiên là hạn chế lớn cho cách tư
duy chính xác, hệ thống, nhất quán cần thiết để tìm chân lí, để có tư duy
khoa học, triết học. Nhưng trong điều kiện nhu cầu đơn giản, hoàn cảnh
căng thẳng thì như vậy thường lại có hiệu quả.
13. Trong lịch
sử học thuật của ta không có những nhà kinh học để cả cuộc đời tra cứu,
biện bác làm sáng tỏ nghĩa kinh điển mà cũng không có những nhà tư tưởng
nhìn tổng quát cả học thuật quá khứ để phê phán, đề xuất kiến giải riêng.
Những người lỗi lạc, có tinh thần tự hào dân tộc đều muốn phát triển Tư
văn ở Việt Nam bằng cách đi theo và tiến kịp không thua Trung Quốc chứ
không phải phê phán nó để tìm cái của mình.
14. Trong một xã
hội mà quan tâm hàng đầu là giữ gìn sự ổn định, sự nhất trí đề phòng giặc
ngoài xâm lược, với một thể chế mà làng xã là thành lũy, với một nền sản
xuất mà năng suất dựa vào kinh nghiệm, sự cần cù, bàn tay khéo léo thì kĩ
thuật không đòi hỏi nhiều khoa học, khoa học không cần nhiều triết học.
Nếu có những thời điểm mà có thể nói là nóng bỏng, xuất hiện những nguy cơ
xã hội như thế kỉ XIV, XVI, XVIII còn lại vang bóng trong văn học thì cũng
cũng không có điều kiện gì để nhìn thế giới theo một cách khác. Với nhu
cầu và điều kiện như thế đặt ra làm gì và ai đặt ra được vấn đề quan niệm
thế giới theo một cách khác?
15. Người Việt Nam có thể coi là
ít tinh thần tôn giáo. Họ coi trọng hiện thế trần tục hơn thế giới bên
kia. Không phải người Việt Nam không mê tín, họ tin có linh hồn, có ma
quỷ, Thần Phật. Nhiều người thực hành cầu cúng. Nhưng về tương lai, họ lo
cho con cho cháu hơn là cho linh hồn của mình. Tuy là coi trọng hiện thế
nhưng cũng không bám lấy hiện thế, không quá sợ hãi cái chết (sống gửi
thác về). Trong cuộc sống, ý thức về cá nhân và sở hữu không phát triển
cao. Của cải vẫn được quan niệm là của chung, giàu sang chỉ là tạm thời,
tham lam giành giật cho nhiều cũng không giữ mãi mà hưởng được. Người ta
mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn cho no đủ, sống thanh nhàn,
thong thả, có đông con nhiều cháu, ước mong về hạnh phúc nói chung là
thiết thực, yên phận thủ thường, không mong gì cao xa, khác thường, hơn
người. Con người được ưa chuộng là con người hiền lành, tình nghĩa. Không
chuộng trí mà cũng không chuộng dũng. Dân tộc chống ngoại xâm liên tục
nhưng không thượng võ. Ðâu đâu cũng có đền thờ những người có công đức -
chủ yếu là có công chống ngoại xâm - nhưng không một anh hùng xuất chúng,
một võ sĩ cao cường nào được lưu danh. Trong tâm trí nhân dân thường có
Thần và Bụt mà không có Tiên. Thần uy linh bảo quốc hộ dân và Bụt hay cứu
giúp mọi người; còn Tiên nhiều phép lạ, ngao du ngoài thế giới thì xa lạ.
Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước,
lội nước theo sau, biết thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn. Ðối
với cái dị kỉ, cái mới, không dễ hoà hợp nhưng cũng không cự tuyệït đến
cùng, chấp nhận cái gì vừa phải, hợp với mình nhưng cũng chần chừ, dè dặt,
giữ mình.
16. Hiểu đúng cha ông là để khai thông cách suy nghĩ
của người Việt Nam ngày nay, để dễ tiếp cận với triết học hiện đại. Khuynh
hướng «thiết thực» dễ làm nghiêng về duy vật hơn là duy tâm, biện chứng
hơn là siêu hình, song duy vật thô sơ, biện chứng tự phát (sự chiêm nghiệm
trực quan trong tục ngữ của ta). Người vận dụng tha hồ tùy tiện bàn chuyện
của mọi phạm vi lớn nhỏ (với trình độ hỗn tạp, chất phác). Do đó tư tưởng
của ta vừa xa lạ cái thần bí, vừa xa lạ cái duy lí.
17. Ở
phương Tây vấn đề Thượng đế sáng tạo thế giới và quyết định mọi việc được
tôn giáo khắc sâu vào tư tưởng, đè nặng lên con người, thành hòn đá lấp
lối mọi tự do. Cho nên quá trình duy tâm triết học hoá Thượng đế, hay duy
vật phủ nhận sự sáng tạo thế giới đã cắm những cái mốc cho việc mở rộng
vương quốc của tự do, cho giải phóng con người, tìm ra bản nguyên thế
giới... Phương Ðông cũng có ý niệm Thiên Mệnh, Trời, khuyên kính Trời, yên
Mệnh. Song mối quan tâm chính là tu dưỡng đạo đức, trị nước nên con người
«kính quỷ thần nhi viễn chi». Khuynh hướng «thiết thực» này (nghĩa vụ làm
người, làm dân) dồn cả Trời và Mệnh vào một góc: Trời và Mệnh chỉ còn ý
nghĩa bảo vệ quyền làm vua của một dòng họ, quyền hưởng phú quý cho kẻ
giàu sang. Thói quen gạt bỏ những cái «xa vời», khó hiểu, xa lánh quỷ
thần, không quan tâm đến thế giới linh thiêng làm cho con người không bỏ
mê tín song cũng không hứng thú cái thần bí, không tò mò và ít hoài nghi,
không say mê tìm hiểu những cái chưa biết, gạt bỏ những cái khác lạ. Chính
vấn đề Tâm - Vật, và trước kia là vấn đề Lý - Khí cũng thuộc loại bị gạt
ra ngoài như vậy.
18. Nho giáo tự chọn thái độ «trung dung»,
đứng ở chỗ «đúng mức» nhất, coi ai cũng có nhược điểm «quá» và «bất cập» -
ở mặt này hay mặt kia - tức ở những chỗ không thích hợp của cái đó với thể
chế xã hội có sẵn (chế độ chuyên chế - tông tộc), ví dụ như chê Mặc vô
phụ, chê Dương vô quân, chê Phật không quân thần phụ tử, chê tư tưởng
phương Tây quá chú ý vật chất... Tức các học thuyết khác cũng có chỗ «khả
thủ», có thể lấy được, chấp nhận được, lúc ở thế bí thì nó «lấy», vay
mượn, bổ sung cho mình, ví dụ đối với phương Tây thì «Ðông học vi thế -
Tây học vi dụng». Trong xã hội Nho giáo hoá cái mới bị cô lập, dần dần tha
hoá và bị rút tỉa, bị Nho giáo nuốt mất trong đó cái khả thủ. Ở Việt Nam
từ thế kỉ XVII đã có sự tiếp xúc Ðông - Tây ở cả Ðằng Ngoài lẫn Ðàng
Trong; các chúa Trịnh - Nguyễn sớm nhận ra sự lợi hại của tàu và súng
phương Tây, song tư tưởng phương Tây thì không thể nào bám rễ. Ở Trung
Quốc chủ nghĩa Mao đã hình thành trong chính cái thế, trong cung cách Nho
giáo nuốt học thuyết Mác, lấy cái khả thủ.
19. Hán hoá đã
thành một xu thế, một thực tế lâu dài trong lịch sử. Xu thế, thực tế đó
làm cho nước ta, cũng như Trung Quốc, ở những thế kỉ cuối rơi vào tình
trạng trì trệ. Phi Hán hoá không phải đã là một xu thế mạnh mẽ trong quá
khứ mà là một yêu cầu cấp thiết của ngày nay đòi hỏi tự ý thức, tự phê
phán để giải phóng tư tưởng, để hiện đại hoá đất nước.
20.
Chúng ta đào tạo đội ngũ khoa học, kĩ thuật đông đảo. Nhưng trong điều
kiện kinh tế phát triển còn thấp, không có đủ cơ sở để sử dụng thì kĩ sư
không phải là người hành nghề mà thành cán bộ, sống bằng bằng cấp và danh
vị... Thanh niên và các bậc phụ huynh lại toan tính con đường chắc chắn:
học cho có bằng cấp, vào biên chế sống dựa vào nhà nước kiếm lộc, kiếm
bổng. Chuẩn bị vào đời bằng trau dồi «tư cách» (đánh giá về đạo đức, vốn
hoạt động chính trị) và bằng bằng cấp chứ không phải bằng nghề nghiệp tự
lập.
21. Những con người, ông già và thanh niên, giống như
những nhà nho xưa trà lá, lề mề và hay nói suông, thiếu khả năng và quả
quyết hành động thực tế, đầy thiện chí thương dân, yêu nước mà cũng đầy ảo
tưởng; theo ảo tưởng nên tính toán sai, đầy thiện chí nên tự tin, cố chấp
không những gây ra lùng nhùng mà giẫy dụa trong lưới lùng nhùng.
22. Cái đáng phê phán ở Nho giáo là sự ngu trung với vua hay
là ảo tưởng bình trị dưới chế độ chuyên chế?
23. Nho giáo bồi
dưỡng nên một nhân vật văn hoá là nhà nho, với hình ảnh cụ thể là ông thầy
đồ, chăm lo học hành, coi trọng văn hoá, văn chương nhưng không phải là
người làm học thuật, người làm khoa học, người làm kĩ thuật, người làm
nghệ thuật mà chỉ là người noi gương thánh hiền, giữ đạo đức đến sống gò
bó, ngụy thiện, lo học thuộc sách vở, mở miệng là lời kinh sử, lấy nó bàn
suông mọi chuyện trên đời.
24. Nhà nho không phải là người tìm
tòi khoa học kĩ thuật, vốn gắn liền với sản xuất, mà chỉ có chức năng giáo
hoá, giữ sự yên ổn (đức trị - hoà mục). Một chế độ phi sản xuất, phi kinh
doanh, chỉ sống bằng tô thuế, cần giữ yên chứ không phát triển thì nho
thần lừng khừng cũng được việc.
25. Chỉ có những gia đình lớn
nhỏ chứ không có xã hội, nhà nước. Không có con người mà cũng không có
công dân. Mọi người chỉ lo xử lí các quan hệ người trên và người dưới, tìm
sự hoà thuận êm ấm, không hướng con người vào việc tìm tự do và hạnh phúc
trong việc cải tiến tổ chức xã hội và làm chủ các lực lượng tự nhiên.
26. Nho giáo không bao giờ nhận giao tranh trước những địch
thủ mạnh hơn, mà rút lui một cách ung dung, kiêu hãnh về với cuộc sống
thôn dã, về với làng xã gia đình, về tâm giới.
27. Danh vị,
phận vị khiến người ta quy cái bất công do Trời, do Mệnh, triệt tiêu mọi
lí do hành động chống đối. Ðó cũng là lí do của ảo tưởng về nhân cách, che
lấp thực trạng mất nhân phẩm.
28. Ta nên phát huy khả năng
truyền thống du nhập và linh hoạt ứng dụng để nhanh chóng có cái hiện đại,
hay tìm tòi từ đặc sắc dân tộc cái của mình?
29. Cái hiện đại,
cái thế giới cũng không phải là hay cả, nhưng nếu dùng dân tộc đóng cửa
chính lại thì cái dở nhất của nó sẽ chui vào cửa sổ.
30. Hiểu
đặc sắc văn hoá dân tộc còn là giải phóng cho sức sáng tạo, nói đúng hơn
là tìm phương thức vun xới cho sức sáng tạo. Trong nền văn hoá cũ, sức
sáng tạo của ta không khỏi có khuynh hướng tiểu kĩ, ứng dụng, thiếu những
sáng tạo lớn. Ðó là con đẻ của tinh thần thiết thực. Trong tương lai đó là
một nhược điểm. Ðổi thay được nhược điểm đó chắc chắn không phải là dễ
dàng. Cũng khó mà kế hoạch hoá việc sáng tạo. Ta chỉ có thể chờ đợi điều
đó ở những nhà tư tưởng, những nghệ sĩ, và ở nền sản xuất, tổ chức xã hội
có khả năng sản sinh ra họ.
|