trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Tư tưởng
Lịch sử
  1 - 20 / 227 bài
  1 - 20 / 227 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngLịch sử
3.10.2005
Hà Văn Thùy
Bàn lại "Về một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử"
 
Ðể viết chuyên khảo “Về một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử”, hẳn tác giả Trương Thái Du phải bỏ ra không ít tâm lực. Bài viết chia làm 3 tiết, nhưng tựu trung có hai phần: Một phần dùng kiến thức di truyền học chứng minh cội nguồn người Việt. Phần còn lại khai thác sách cổ, nhằm minh định lại một số vấn đề trong cổ sử. Chúng tôi xin trao đổi cùng tác giả đôi điều.


I. Về việc sử dụng giả thuyết của Spencer Wells

Ông Trương Thái Du viết: “Từ kết luận của Spencer Wells, tôi tính ra: cuộc di dân đầu tiên từ Phi châu diễn ra cách nay 60.000 năm. Ðoàn người đi dọc vùng đồng bằng ven biển Nam Á, đến Ðông Nam Á. Tại đây một nền văn minh đồ đá đã được hình thành. Từ 9 đến 12 ngàn năm trước, kiến tạo địa chất ở vành đai lửa Indonesia với sóng thần, đất sụt đã nhấn chìm trung tâm văn minh Tiền Ðông Nam Á. Những cư dân còn sót lại sau thảm họa đã chia làm hai nhánh, nhánh thứ nhất đến châu Úc, nhánh thứ hai rẽ lên phía Bắc, rồi dừng lại khá lâu bên bờ Nam Trường Giang… Cuộc di dân thứ hai cũng từ châu Phi cách nay 45 ngàn năm. Họ đến Trung Ðông, từ Trung Ðông hai phân nhóm đã hình thành tiến vào Ấn Ðộ và vùng tây bắc Trung Hoa.” Và “Phân nhánh của đoàn di dân tiến vào trung lưu Hoàng Hà bằng hành lang Cam Túc, xây dựng nền văn minh tạm gọi là Hoa Hạ.”

Cảm thấy không yên tâm với “tính toán” trên, chúng tôi đọc tài liệu tham khảo tác giả dẫn. Tiếc thay, đó không phải là công trình trọn vẹn mà chỉ là bài điểm sách giới thiệu giả thuyết của Spencer Wells, bài “Documentary Redraws Humans’ Family Tree” (Tư liệu truy tìm phả hệ con người) do phóng viên Hillary Mayell viết cho tạp chí National Geographic News số ra ngày 21/3/2003. Ðoạn văn bản mà tác giả Trương Thái Du sử dụng nguyên dạng như sau:

“Wells says his evidence based on DNA in the Y-chromosome indicates that the exodus began between 60,000 and 50,000 years ago. In his view, the early travelers followed the southern coastline of Asia, crossed about 250 kilometers [155 miles] of sea, and colonized Australia by around 50,000 years ago. The Aborigines of Australia, Wells says, are the descendants of the first wave of migration out of Africa…”

Tạm dịch: “Wells nói, bằng chứng của ông dựa vào DNA của nhiễm sắc thể Y (Y-chromosome) cho thấy cuộc di cư bắt đầu khoảng 60.000 đến 50.000 năm trước. Theo ông, những người ra đi đầu tiên đã theo bờ biển Nam Á, vượt qua 250 km đường biển (155 dặm) và định cư ở châu Úc vào khoảng 50.000 năm trước. Wells nói, thổ dân Úc là con cháu của làn sóng di cư đầu tiên từ châu Phi.”

Và:

“Wells says a second wave of hominids left Africa around 45,000 years ago, reproduced rapidly, and settled in the Middle East; smaller groups went off to India and China.”

“Wells nói, làn sóng thứ hai của loài người rời châu Phi 45.000 năm trước, sinh sản mau lẹ và định cư tại Trung Ðông; một vài nhóm nhỏ hơn tới Ấn Ðộ và Trung Quốc.”

So sánh đoạn văn của ông Trương với bản tiếng Anh, chúng tôi thấy có sự mâu thuẫn:

1. Theo S. Wells, những người ra đi đầu tiên đã theo bờ biển Nam Á, vượt qua 250 km đường biển (155 dặm) và đến châu Úc vào khoảng 50.000 năm trước.”

Có nghĩa là đoàn người chỉ đi lướt qua bờ biển châu Á rồi vượt biển đến Úc. Không hề có chữ nào nói tới việc họ dừng lại ở Ðông Nam Á. Cũng theo Wells, người hiện đại định cư ở châu Úc 50.000 năm trước, trong khi đó ông Trương rút lại còn từ 9 đến 12000 năm. Như vậy, “tính toán” của ông Trương đã mâu thuẫn với tư liệu ông tham khảo.

2. Bản tiếng Anh viết: làn sóng thứ hai tới định cư tại Trung Ðông, một vài nhóm nhỏ hơn đến Ân Ðộ và Trung Quốc. Nhóm nhỏ ấy là ai, thuộc tộc người nào? Chúng tôi đã tìm hết bài viết mong biết thêm về cái nhóm nhỏ đó nhưng không có!

Trước đây có giả thuyết cho rằng cộng đồng nói tiếng Altaic sống ở bắc Trung Quốc là quần thể từ Trung Ðông sang. Nhưng thành tựu mới nhất của công nghệ genes đã bác bỏ điều này. Nhà di truyền người Mỹ gốc Hán, G.s Chu [1] trong công trình Genetic relationship of population in China, một khảo cứu trực tiếp về quan hệ di truyền của người Hán cho thấy:

“The northern populations were under strong genetic influences from Altaic populations from the North. But it is unclear how Altic populations migrated to Northeast Asia. It is possible that ancestral Altic pop. arrived there from middle Asia, Or alternatively they may have originated from East Asia.”

Tạm dịch: “Những cộng đồng miền bắc mang đậm ảnh hưởng di truyền của những chủng Altaic từ phía Bắc. Nhưng không rõ người Altaic đã tới Ðông Bắc Á bằng cách nào. Có thể là tổ tiên người Altaic đến từ Trung Á, hoặc cũng có thể họ có nguồn gốc từ Ðông Á.”

Nhưng ở đoạn sau, ông nói cả quyết hơn:

“Therefore, it is likely that ancestors of Altic speaking people originated from an East Asia population that was originally derived from South Asia, through the current Altaic-speaking population undeniably admixed with later arrivers from mid-Asia and Europe.”

“Như vậy, có phần chắc là tổ tiên của người nói tiếng Altaic bắt nguồn từ một cộng đồng Ðông Á mà cộng đồng này lại từ Nam Á đi lên, mặc dù không thể phủ nhận là về sau cộng đồng nói tiếng Altaic này có sự hòa huyết với những người từ Trung Á và châu Âu tới.”

Cái “nhóm nhỏ hơn đến Trung Quốc” ấy không phải người Altaic. Vậy phải chăng họ là nhóm Mongoloid phương Bắc mà ông Trương cho là người Hoa Hạ? Sự thực, nhóm này không phải từ Trung Ðông sang mà cũng từ Ðông Nam Á đi lên. Trong một nghiên cứu trên 150 mẫu của 7 nhóm người châu Á, Ballinger S.W cho rằng người châu Á có nguồn gốc từ dân Mông Cổ phương Nam. [2]

Những nghiên cứu trên cho thấy, cái nhóm nhỏ hơn tới Trung Quốc trong phát biểu của S. Wells không dính dáng gì đến cư dân Trung Quốc ở thời điểm chúng ta đang bàn!

Từ giả thuyết chưa được kiểm chứng của tài liệu tham khảo, ông Trương đã “tính toán” đưa ra nhận định không phù hợp với thực tế, quả là việc làm chủ quan khinh suất.

Với một vấn đề lớn và còn mới mẻ như nguồn gốc người Việt, không thể chỉ dùng một tài liệu tham khảo duy nhất. Ðặc biệt khi giả thuyết đó quá tổng quát, ở tầm vĩ mô, lại đang nằm trong tranh luận. Như vậy là, khi dùng giả thuyết của S.Wells làm nền tảng cho khảo cứu của mình, ông Trương Thái Du mắc sai lầm thuộc về phương pháp luận.


II. Về việc khai thác thư tịch cổ

Mặc dù chưa quan tâm đủ tới những tư liệu khoa học hiện đại, ông Du đã để nhiều công sức cày xới nguồn thư tịch cổ tàng chứa biết bao thông tin quý. Ðóng góp của ông Trương trong bài viết là tìm đến tận nguồn từ Giao Chỉ và đưa ra những kiến giải thuyết phục. Ông đã mạnh dạn nêu lại vấn đề nhân thân của Bà Trưng: ông Thi, việc Bà bị giết… Ðiều này nhắc với dân chúng cùng những nhà viết sử là: lịch sử không thể không sáng tỏ! Chỉ tiếc rằng trong bài viết, phải chăng vì nóng vội, muốn đốt cháy giai đoạn, xong mọi việc ngay một lúc, ông đưa ra không ít suy luận có phần vội vàng, thiếu sở cứ.

1. Thử hỏi, dựa vào đâu ông viết: “Từ 9 đến 12 ngàn năm trước, kiến tạo địa chất ở vành đai lửa Indonesia với sóng thần, đất sụt đã nhấn chìm trung tâm văn minh Tiền Ðông Nam Á?” Chưa thấy tài liệu nào nói sóng thần, đất sụt nhấn chìm văn minh tiền Ðông Nam Á. Không thể có những tài liệu như thế vì làm gì có chuyện sóng thần đất sụt kéo dài hàng nghìn năm? Lịch sử khí tượng Trái đất chỉ ghi nhận cuộc biển tiến bắt đầu 18.000 năm và đỉnh cao là 12 đến 8000 năm trước nhấn chìm đồng bằng Sundaland và Nanhailand mà S. Oppenheimer mô tả rất sinh động trong cuốn Eden in the East.

2. Xin mạo muội lưu ý ông rằng, khái niệm Hoa Hạ do ông đưa ra không phù hợp với từ Hoa Hạ trong quan niệm truyền thống. Theo ý ông thì, Hoa Hạ là tộc người từ Trung Ðông sang định cư ở Cam Túc, Thiểm Tây. Ðấy là ngộ nhận kéo dài suốt thế kỷ trước và đã bị bác bỏ. Còn trong quan niệm truyền thống, những người Hoa Hạ tạo nên thời Ðường Ngu, rồi được kế tiếp bằng nhà Hạ, mà Hạ Vũ là người Miêu Việt. Tiếp theo là nhà Thương. Thành Thang, ông vua đầu tiên củaTrung Quốc là người mang gene châu Phi đen từ Ðông Nam Á đi lên, cả đến Lão tử cũng vậy. (The Shang, for example, China’s first dynasts are described as having “black and oily skin”. The famous Chinese sage Lao-Tze was “black in complexion”. (Los Angeles Times, September. 29. 1998) (Thang, ông vua đầu tiên của Trung Hoa được mô tả là có nước da đen bóng. Triết gia nổi tiếng Lão tử cũng có màu da đen). Cố nhiên ta phải hiểu rằng, những vị này không còn là nguyên chất Negritoid Ðông Nam Á mà đã qua nhiều đời hòa huyết với chủng da vàng Mongoloid phương Bắc từ Thiểm Tây, Cam Túc xuống. Người Hoa Hạ là người lai Hoa Việt, thuộc nhóm loại hình Ðông Nam Á.

3. Ông Du viết: “Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Ðộng Ðình Hồ (Hồ Nam Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đã chạy giặc Sở xuống đồng bằng Tây Giang Quảng Tây Trung Quốc và dựng lại phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Ðộng Ðình Hồ là Văn Lang Tây Giang… Không ít cư dân Văn Lang Ðộng Ðình Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông Hồng trước và sau thời điểm 179 TCN.”

Nhận định trên chỉ là phỏng đoán, mâu thuẫn với thực tế. Khi phát hiện di chỉ Mán Bạc ở Ninh Bình cuối năm 2004, tiến sĩ Oxenham của Ðại học Quốc gia Úc ghi nhận:

“Người Việt từ trước thời Ðá mới có biểu hiện của giống người Úc châu (Nam Ðảo) hay Ða đảo Melanesian, nhưng người Việt từ thời Ðồng thau đã có biểu hiện đặc trưng của giống người Ðông Nam Á. Sự hiện diện của cả hai nhóm sắc tộc này sát cánh nhau trong khu mộ táng cho thấy đã có sự hỗn hòa giữa hai chủng ở mức độ đáng kể, có thể là đánh dấu những nguồn gốc sớm nhất về dân cư Việt Nam hiện thời, vốn đã từng ổn định khoảng 2000 năm TCN.” [3]

Phát hiện này không mới, nó chỉ khẳng định những nghiên cứu trước đó cho rằng, hơn 2000 năm TCN, người Việt mới (chữ Việt với bộ Tẩu - những người Bách Việt hòa huyết với người Hán chuyển thành nhóm loại hình Ðông Nam Á) bị người Hán xua đuổi, đã trở về quê cũ, cộng cư với người Việt gốc (Việt bộ Mễ- Indonesien, Melanesien), làm chuyển hóa hầu hết dân cư Việt Nam sang loại hình Ðông Nam Á. Trong việc di cư này, không chỉ có hình thức “cuốn chiếu” tiệm tiến theo đà truy đuổi của người Hán, mà có cả hình thức nhảy vọt: người Việt sống ở phía Nam Hoàng Hà sau những trận kịch chiến với kẻ xâm lăng đã dông thuyền ra khơi, trở về nơi xuất phát cũ là miền Trung Việt ( Rào Rum, ngàn Hống). Chính những người này dựng lên nhà nước Văn Lang. Ký ức dân gian ghi nhớ rằng Lạc Long quân cùng bầu đoàn tới vùng sông Lam núi Hồng dựng kinh đô đầu tiên gợi liên hệ tới cuộc hải hành này. Như nhiều sách chép, cương vực Văn Lang vươn tới Ðộng Ðình Hồ, nhưng trung tâm của nó là trung du Bắc Bộ. Số lượng lớn trống đồng tinh xảo tập trung ở đây, cùng với đô thị Làng Cả chứng minh Việt Trì là trung tâm của Nhà nước Văn Lang. Phủ nhận Nhà nước Văn Lang đóng đô ở Việt Trì là giả thuyết chưa có cơ sở.

4. Ông Du viết: “Tôi nghĩ có một nhánh nhỏ người Tây Âu Lạc ra đi bằng thuyền đã ghé bờ biển Trung Bộ Việt Nam. Họ trở thành hạt nhân của nền văn minh Chàm…” Từ lâu, sử sách ghi nhận rằng nhóm Việt này từ Thiên Sơn xuống, định cư ở cửa sông Thanh Giang tới cửa sông Trường Giang . [4] Ðấy là hệ quả của thuyết E.Aymonier đầu thế kỷ: người Việt từ Tây Tạng xuống theo ngọn sông Trường Giang! Nhưng những phát kiến mới nhất về di truyền học cho thấy ngược lại: Người Chăm cũng như người Việt cổ là người bản địa Việt Nam, thuộc chủng Indonesien, Vedoid, là chủ nhân của Văn hóa Sa Huỳnh. Từ đây, tổ tiên người Chăm đi xuống các đảo ngoài khơi như Mã Lai, Indonesia… Trong hành trình Bắc tiến, tổ tiên người Chăm cùng những dòng Việt khác từ đất Việt Nam đi lên phương Bắc. Khoảng thiên niên kỷ thứ III TCN, do người Hán chèn ép, họ đã trở lại Việt Nam. Trong khi người Việt trở về với dân Việt ở đồng bằng trung du Bắc Bộ thì người Chăm trở lại quê cũ miền Trung. Cố nhiên có những nhóm đi xa hơn, tới Indonesia, Malaysia… Sự chuyển hóa di truyền của người Chăm từ Indonesien sang nhóm loại hình Ðông Nam Á trên toàn địa bàn Ðông Nam Á chứng tỏ điều này.

5. Ông Du còn viết: “Chiếu theo bản chất của danh xưng “Vua Hùng” thì bà Trưng Trắc chính là vị Vua Hùng đầu tiên và cũng là cuối cùng của vùng đồng bằng sông Hồng.”

Không hiểu căn cứ vào đâu mà ông khẳng định như vậy. Nếu luận lý theo logic thì thế này: thời Hai Bà Trưng là thời của văn tự. Mọi chuyện xảy ra đều được ghi chép. Có thể nảy sinh huyền thoại về sự tuẫn tiết của Bà cùng những vị tướng khác, nhưng không thể nào nảy sinh huyền thoại về các vua Hùng ở thời điểm này. Ðúng là thời Hùng vương mang nhiều sắc thái huyền thoại, nhưng Nhà nước Văn Lang Phong Châu là có thực, tuy người ta đoán rằng còn là hình thức liên bộ lạc, còn vua chỉ mang nghĩa tượng trưng như một tù trưởng của liên minh bộ lạc. Phát hiện rồi chứng minh thời Hùng vương dựng nước cùng Văn hóa Ðông Sơn là thành quả xuất sắc của khảo cổ và lịch sử Việt Nam, được bạn bè thế giới cùng nhiều trí thức người Việt ở nước ngoài thừa nhận. Ý tưởng phủ định thời Hùng vương của ông Trương không thuyết phục vì thiếu cơ sở.

Suốt thời gian dài, các nhà sử học của chúng ta phải giải bài toán hóc búa hai ẩn số: vừa phải tìm nguồn gốc người Việt, vừa phải tìm lịch sử dân tộc. Do vậy những sai sót, ngộ nhận là dễ hiểu. Nhưng may mắn thay, từ ngày 29/9/1998, khi các nhà khoa học tham gia Dự án Ða dạng di truyền người Hán (Chinese Human Genome Diversity Project) công bố kết quả nghiên cứu, chúng ta có lời xác nhận khả tín về nguồn gốc người Việt như sau:

Khoảng 70-60.000 năm trước, Homo Sapiens từ Trung Ðông vượt qua Pakistan, Ấn Ðộ rồi theo bờ biển Nam Á tới định cư ở Trung bộ Việt Nam. Dừng tại đây trong khoảng 10.000 năm, hai đại chủng Mongoloid và Australoid lai giống tạo nên hai chủng Indonesien, Melanesien cùng những chủng hòa huyết giữa chúng (Vedoid, Negritoid), lan tỏa khắc lục địa Ðông Nam Á. Khoảng 50.000 năm trước, người từ Ðông Nam Á đi tới Úc, 40.000 năm trước tới Newguinea. Khoảng 40.000 năm trước, khi băng hà tan, khí hậu ấm trở lại, người Ðông Nam Á đi lên phía Bắc và khoảng 30.000 năm trước vượt Siberia, qua eo Bering sang châu Mỹ. [5]

Ẩn số quan trọng nhất của bài toán được khám phá: Người Việt là sắc tộc có mặt sớm nhất ở Ðông Á, đã từ Việt Nam lên khai phá đất Trung Hoa. Khi bị người Hán chiếm đất, một phần ở lại xây dựng nước Trung Quốc, một bộ phận trở về nơi phát tích cũ, cùng người Việt tại chỗ, xây dựng nước Văn Lang. Nếu trước đây chúng ta chỉ biết tới lịch sử 4000 năm Nam tiến thì bây giờ, ta biết được lịch sử 40.000 năm Bắc tiến: tổ tiên ta là người chủ đầu tiên của đất nước Trung Hoa! Lần theo sợi chỉ đỏ này, chúng ta có chìa khóa giải mã những trang sách cổ, những hiện vật khảo cổ, những nghiên cứu xã hội học… Một thời gian và địa bàn mênh mông cho khám phá.


III. Ðiều mong mỏi

Hình như ai đó có viết trên mạng talawas, đại ý: “Người Việt Nam nào cũng là nhà Việt học!” Ngẫm ra, ẩn dưới bề ngoài khôi hài, ý này không hoàn toàn đùa bỡn. Việt Nam là dân tộc có một lịch sử quá nhiều đau khổ mất mát, bị đánh cắp, bị cướp đoạt, bị hủy hoại… đến nỗi không biết tổ tiên là ai! Vì vậy, mỗi người Việt có suy nghĩ đều mong tìm về nguồn cội, đều muốn viết lại cuốn sử của dân tộc. Do lẽ đó, không ít người đọc qua ít cuốn sách, ít bài báo, “ngộ” ra điều gì tâm đắc đều muốn phô cho đồng bào mình hay. Cố nhiên trong những người nóng rẫy nhiệt tình đó không khỏi có người nông nổi vội vàng, khảo ít mà biên nhiều; lý ít mà luận nhiều… khiến cho những vấn đề cổ sử Việt Nam ngày thêm rối rắm. Những “nhà Việt Nam học” của chúng ta giống như thày bói xem voi trong truyện ngụ ngôn và chúng ta thành dân Babel càng nói nhiều càng không hiểu nhau…

Mong những nhà có tri thức, có tâm huyết về việc này liên hệ với nhau, lập ra một diễn đàn, do những người có uy tín có kinh nghiệm chủ trì, để cho những người biết chuyện biết việc phát biểu, bàn thảo. Khoảng hai năm một lần tổ chức hội thảo nhỏ, năm năm một lần tổ chức gặp gỡ lớn để “chung khảo”, công bố những phát kiến mới. Sau đó tiến hành in bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Hoa…. Nếu ta trì chí làm như vậy, chắc sẽ có những thành tựu. Mong thay!

© 2005 talawas


[1]J.Y. Chu & đồng nghiệp, “Genetic relationship of population in China”, Proc.Natl. Acad. Sci. USA, 1998, số 95 tr. 11763-11768; Bing Su & đồng nghiệp: “Y-chromosome evidence for a northward migration of modern human into Eastern Asia during the last Ice Age”, American Journal of Human Genetics 1999; 65; 1718-1724.
[2]S.W. Ballinger & đồng nghiệp: “Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration”. Genetic 1992 số 130, tr.139-45.
[3]Lê Anh Vũ: “Tin BBC hay tin Oxenham”, talawas 3.3.2005.
[4]Nguyễn Ðình Khoa, Nhân chủng học Ðông Nam Á. Nxb ÐH &THCN (Hà Nội, 1983).
[5]Xem các tài liệu 1 và xem Nguyễn Văn Tuấn,
Tìm về nguồn gốc dân tộc Việt Nam qua di truyền học
.