trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 884 bài
  1 - 20 / 884 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học Việt Nam
17.11.2006
Cao Việt Dũng
Sợ
 
Tôi không chỉ rùng mình giống Đỗ Hoàng Diệu. Gọi đúng tên, nó phải là nỗi sợ. Một nỗi sợ mang hai nghĩa.

Đầu tiên là nỗi sợ dễ dàng nhận thấy nằm ngay dưới nắp cái hòm đựng những thái độ kỳ thị. Nỗi sợ tuyệt vọng dành cho sự thật. Trịnh Thanh Sơn và những người như ông đang run lên khi sự thật được hiện ra không gì che đậy nữa. Vì sợ nên mới dẫn đến thái độ phỉ báng cá nhân, mà, đúng như Đỗ Hoàng Diệu nói, ở những nơi có luật pháp được tổ chức tốt hơn, Lê Vân hoàn toàn có thể kiện ra tòa. Không cần phân tích, và nhất là không cần bằng chứng, Trịnh Thanh Sơn kết tội Lê Vân là bôi nhọ. Nhưng thế nào là bôi nhọ? Lôgic của sự việc quá đơn giản, đến mức thật kinh ngạc khi người ta không hiểu nổi. Tác động của nỗi sợ? Một sự việc khi đã lên giấy trắng mực đen và liên quan đến không chỉ người viết nó ra giấy trắng mực đen, chỉ còn một cách để phán xét là đúng, là sai, là bôi nhọ, hay phụng sự sự thật: lời nói của những người có liên quan. Một khi những người trong cuộc, chẳng hạn Đặng Nhật Minh, không lên tiếng phản đối, thì, theo lôgic hình thức, những gì Lê Vân nói phải là sự thật, hoặc, ở trường hợp xấu nhất, phần sự thật ở trong đó đủ lớn để người có biết rõ những câu chuyện được kể thấy không cần phải biện minh. Chưa nói đến các nhân chứng khác. Và nếu Trịnh Thanh Sơn lên tiếng trước những lời biện minh của Đặng Nhật Minh (nếu có) thì lời nói của người ngoài cuộc Trịnh Thanh Sơn vẫn không có sức nặng. Càng không có sức nặng hơn là những lời bình luận bên rìa; người này có thể nói không cho con trai mình lấy người như Lê Vân, nhưng sẽ có người khác thản nhiên: “Phải lấy người như Vân”. Vả lại, người ta vẫn hoàn toàn có thể thích thú, thậm chí cảm động xem Bao giờ cho đến tháng Mười, Mùa ổi, dù biết đạo diễn của chúng không phải là người toàn bích. Bản thân tôi vẫn vô cùng nể phục Roman Polanski của Tess (of the d’Urbervilles – 1979) – chứ không phải hai bộ phim gần đây tầm thường, The Pianist, và, chưa hết, còn hết sức tầm thường, Oliver Twist – dù biết rằng ông đạo diễn Ba Lan đã từng phạm tội hiếp dâm trẻ vị thành niên, chỉ cần đặt chân về Mỹ là tức khắc nhận giấy tống đạt của tòa. Người ta có thể bôi nhọ sự thật, nhưng sự thật không có chức năng bôi nhọ.

Và thứ hai, nỗi sợ của chính tôi trước cái nỗi sợ kia. Đã đến lúc phải nhìn thẳng vào và giải thích cái nỗi sợ mà ông Trịnh Thanh Sơn vừa biểu lộ. Tại sao ông Trịnh Thanh Sơn và những người như ông lại sợ? Nguyên nhân đó, tôi nghĩ một cách nghiêm túc, những người như tôi và thế hệ của tôi cần được biết. Tôi không phát biểu thay cho ai, tôi không đại diện cho thế hệ của tôi, thế hệ đầu tiên không biết chiến tranh, mà thay vào đó là biết đoạn cuối huy hoàng của thời bao cấp và cũng là những người đầu tiên tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài, biết công nghệ và biết Internet. Tiếng nói của tôi chỉ là một tiếng nói giữa rất nhiều tiếng nói khác rồi đây sẽ còn vang lên, sẽ thật sự buộc những người như ông Trịnh Thanh Sơn, và, rất có thể, nhiều người suy nghĩ giống như ông, thậm chí có thể còn ở phạm vi rộng hơn nữa, bước vào một cuộc đối thoại nghiêm túc giữa các thế hệ. Dù cho thế hệ chúng tôi và thế hệ ngay trước chúng tôi xét về đại đa số vẫn sống dưới cùng một mái nhà, vẫn có những mối giao hảo không phải là không thâm tình, khoảng cách giữa hai bên rõ ràng là ngày càng bị đào sâu. Thế hệ chúng tôi là thế hệ trắng, áo trắng công sở Tây, màu trắng máy tính Mac và trắng tinh về lịch sử, trong khi thế hệ trước chúng tôi là một thế hệ đen (hoặc đỏ, tùy người nghĩ), thế hệ của bùn đất cánh đồng, hầm trú ẩn và thậm chí giao thông hào.

Cái màu trắng lịch sử tôi vừa nói đến kia đã đeo đẳng người Việt Nam từ không biết bao nhiêu đời, nhưng đến chúng tôi thì nó trở thành quá lớn, và quá phi lý. Tại sao chúng tôi không được quyền biết lịch sử chính xác, những sự kiện chính xác xảy ra cách đây mới vài chục năm? Tại sao rất nhiều nhân vật bị mạng nhện lãng quên che khuất, chúng tôi chỉ còn được nhìn thấy vài dấu vết lẻ tẻ, những mảnh vụn rơi vãi sau khi con nhện lịch sử khổng lồ hoàn thành hoạt động tiêu hóa của nó? Ngao ngán lắm (dù cũng hết sức thương cảm) khi nhìn những con người già nua tay run lẩy bẩy những nỗi sợ lưu cữu kể lại những mớ lổn nhổn ký ức không đáng tin và không cách gì kiểm chứng. Liệu trong thế hệ chúng tôi sẽ có được một Tạ Chí Đại Trường? Liệu ánh sáng của ngày hôm nay có rọi đến được những góc khuất của ngày hôm qua? Tại sao chúng tôi bị tước quyền nhìn vào quá khứ? Giờ thì tôi hiểu một phần vì sao chúng tôi không được biết đến lịch sử chân xác. Chỉ vài lời kể mà bằng trực giác tôi tin là sự thật của một nghệ sĩ như Lê Vân đã đủ sức dấy lên những cơn sợ quặn mình trên những trang báo bình thường chuyên để chứa những bài thơ khăm khẳm và những đòn chí mạng cá nhân. Một nghệ sĩ không có quyền được kể chuyện đời mình ư? Văn hóa nào cấm điều đó? Hẳn là cái văn hóa hay ho chuyên đời coi nghệ sĩ là giống xướng ca vô loài và tự coi mình nhục như con chó. Hay là nỗi sợ lịch sử lên tiếng đã đè lấp tất cả? Nhưng cái hố đựng bí mật tai lừa của vua Midas vẫn có khả năng lên tiếng. Tôi sẽ nói đến vài hậu quả, nho nhỏ thôi – những điều to tát chưa thể bàn đến, những cái tai lừa vẫn tua tủa dựng lên – của việc bắt ép chúng tôi phải nhận lấy cái màu trắng õng ẹo ngây thơ vờ vĩnh đó.

Thế hệ trước chúng tôi bắt đầu có một thói quen đáng yêu là gửi chúng tôi sang những đất nước tiên tiến để đi học, với ham muốn và hy vọng cũng không kém phần đáng yêu là chúng tôi sẽ vì đó mà được đổi đời. Thế là vài phần trăm của thế hệ tuổi trẻ vàng son (những từ như the gilded youth hay la jeunesse dorée nhiều khi cũng còn hàm nghĩa chua chát mỉa mai) chúng tôi hì hụi với mấy cái máy tính hoặc to miệng phét lác về những chiến lược kinh doanh cho từ công ty xuyên quốc gia đến doanh nghiệp vừa và nhỏ. Và chấp nhận dễ dàng cái màu trắng kia. Đại đa số thế hệ chúng tôi nhanh chóng, như một phản xạ có điều kiện, bịt tai (hoặc sang trọng hơn là cắm headphone máy Ipod vào tai) khi bị tình cờ nghe thấy điều gì đó đi ra ngoài khuôn khổ những điều dễ chấp nhận (nhưng tầm thường), một dạng politically correct made in Vietnam. Đến nhà (trọ) của giới trí thức tương lai khi còn sống ở trời Tây đó là thấy đồ gỗ Ikea, thấy giày Camper, và, đôi khi, cả một cái lồng vẹt. Nhưng họ đã được giáo dục cẩn thận đến mức trong nhà không mấy khi có được đến một quyển sách. Đến kỳ làm tiểu luận, luận văn nhiều người không biết đến tra phích sách trong thư viện – dù copy cả đoạn dài trên Internet là chuyện quá dễ dàng và phổ biến đối với họ. Đã từng có nhiều du học sinh post ảnh khoe phòng trong những forum trên Internet. Vâng. Ba chiếc máy tính. Vâng. Cái điện thoại O2. Và zero quyển sách. Đại đa số chúng tôi chấp nhận dễ dàng cái được ấn định. Nhưng tôi không có thẩm quyền gì trách cứ họ. Thế hệ nào cũng chỉ chứa nổi một bộ phận rất nhỏ không chấp nhận sự áp đặt từ trên xuống. Nhưng vấn đề là phải có. Và nhất là ở những thế hệ khó nhọc loay hoay với những cuộc chiến vừa mới đi qua: thế hệ lost generation của Hemingway, và sau đó một chút, thế hệ của Harold Pinter và nhất là John Osborne (tác giả vở kịch Look Back in Anger – 1956), những người được mệnh danh là Angry Young Men (hoặc AYM, hoặc Angries). Trào lưu nào dù lớn đến đâu cũng chỉ có số lượng tham gia hết sức hạn chế. Cuộc cách mạng 1968 cũng chứng kiến đám đông thản nhiên đi qua bên cạnh. Dù gì thế hệ của chúng tôi cũng làm được một vài thay đổi. Họ đang dần làm tê liệt được hai thứ thuốc phiện phổ biến nhất của nhân dân trí thức Việt Nam: bóng đá và bia hơi, đã từng hoành hành trong cả một thế hệ, tức là cái thế hệ sống dưới cùng mái nhà với chúng tôi. Để nhiễm vài thứ thuốc phiện khác: không phải bia hơi, mà là quán café wifi (miễn phí hoặc không), không phải bóng đá, mà là đua xe F1, ôtô từ Toyota Vios đến Lexus, các thứ đồ điện tử từ MP3 Tàu nhái đến điện thoại Vertu. Dù gì thì cũng là có thay đổi.

Những thay đổi đó thật là nghịch mắt những người thuộc các thế hệ khác. Nói họ quên mất rằng một thời họ cũng đã từng vàng son, đã từng phá phách thì thật dễ, nhưng quả là có thế thật. Cứ lên lớp dạy bảo, cứ ngày xưa xa xôi đẹp đẽ (như Villon từng kêu lên: Mais où sont les neiges d’antan!Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ) thì thử hỏi làm sao mà đối thoại cho nổi? Và nhất là họ cứ sợ, để rồi chúng tôi phải gánh chịu luôn cả cái sợ của họ trên cái gánh nặng vốn đã không dễ dàng của trách nhiệm với xây dựng tái thiết trả nợ giùm và kiếm đủ tiền mua xe Ford Escape.

© 2006 talawas