4.
Về việc Trần Thanh Mại không công bố được những bài viết của mình về Miên Thẩm, tôi đã giải thích là “bắt nguồn từ hòn đá tảng “quan điểm giai cấp” mà ai cũng không được vi phạm”, một người như ông tất nhiên làm gì có thể “chuyển lay”. Để dẫn chứng, tôi nói thêm: “Ngay như trong chiếc tủ tư liệu của Tổ tôi vào lúc đó vẫn chất đầy những bài viết, do Viện đặt cho nhiều nhà nghiên cứu “tên tuổi”, tuy không in ra nhưng là những bài được xếp vào hồ sơ nghiên cứu, có ý nghĩa “điểm tựa” cho việc viết văn học sử cận đại, mà bài nào cũng mang dòng tít “sắt đá”:
Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh chỉ là những con số không trong lịch sử văn học (ĐĐH);
Bộ mặt phản động của Trương Tửu trong cuốn “
Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam” (VT);
Trương Vĩnh Ký, nhà bác học hay là kẻ đóng vai đặc vụ, tình báo, làm tay sai đắc lực cho thực dân Pháp (MQ);
Triều Nguyễn, một thời đại phản động và thoái hóa trong lịch sử dân tộc (TC);
Thơ văn Phan Thanh Giản chỉ là tiếng thở dài của chủ nghĩa đầu hàng (TC)...”. Nguyễn Văn Hoàn quả quyết: hoàn toàn không có những bài như Huệ Chi kể trong tủ tư liệu của Tổ hồi đó. Vậy sự thực thế nào? Lời phản bác quả đặt tôi vào một tình thế nan giải, vì sau bao cuộc biến thiên: mấy phen tách nhập từ Tổ văn học Cổ cận dân (Cổ đại, Cận đại, Dân gian) sang Tổ văn học Cổ cận đại, rồi sang Ban văn học Việt Nam, lại trở về Ban văn học Cổ cận đại; mấy phen chuyển đổi nơi làm việc từ tầng hai nhà chính xuống tầng một, rồi lại lên tầng hai nhà phụ; ba lần sơ tán hết Hà Bắc đến Hà Tây lại trở lại Hà Bắc; một lệnh quy tập mọi thứ Tổ đang giữ về Phòng Tư liệu thư viện... cũng đủ cho mớ tài liệu mà Tổ sở hữu từ đầu những năm 60 không còn nguyên vẹn mặt mũi thuở xưa. Nhưng tôi nhớ không sai khi mình vừa về Tổ, được phép mở tủ tư liệu của Tổ ra thì trong tủ chứa đầy các bài viết ở dạng bản thảo, trong đó có các bài mà tôi đã dẫn. Khi chị Lê Ngọc Chương xin chuyển sang Tổ văn học Hiện đại (1962), và tôi được Tổ tin cậy, giao cho việc thay chị phân loại lại các tài liệu này, tôi đã tìm thấy chúng xuất phát từ hai nguồn: 1. Những di sản do Ban Văn thuộc Ban nghiên cứu Văn sử địa cũ chuyển giao lại mà ông Vũ Ngọc Phan - nguyên Tổ trưởng tổ văn học Cổ cận dân của Viện - mang về: một bài phê phán Trương Tửu của VT (Nguyễn Văn Hoàn đã nói rõ là Văn Tân nên tôi cũng không cần giữ ý nữa, còn những tên viết tắt về sau, người nào Nguyễn chưa công bố vẫn xin cứ giữ nguyên như cũ), một bài lên án Trương Vĩnh Ký của MQ (Mẫn Quốc), một cụm sưu tập văn thơ Cần vương của Đinh Xuân Lâm, và một số bài của những người khác; 2. Những bài vở do các cán bộ Ban Tu thư Bộ Giáo dục cũ chuyển tới: hai bài về Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh của ĐĐH, hai bài về triều Nguyễn và Phan Thanh Giản của TC, một bài về tuồng của Huỳnh Lý, một tập biên khảo về Huỳnh Thúc Kháng của Lê Trí Viễn, một tập sưu tầm và giới thiệu thơ văn Phan Châu Trinh của Huỳnh Lý và Hoàng Ngọc Phách, một xấp tư liệu về Đông Kinh nghĩa thục của Hoàng Ngọc Phách. Vân vân. Bài Văn Tân đã in trên tập san
Văn sử địa cũng có lưu bản đánh máy trong tủ tư liệu của Tổ chính là từ Ban nghiên cứu Văn sử địa chuyển sang, còn bài Mẫn Quốc mãi về sau mới in nhưng đã có ngay từ dạo ấy
[1] , và đây là một trong những bài gây “sốc” cho tôi rất mạnh - cũng như hai bài của ĐĐH - khiến tôi nhớ lâu nhất, và đã phải đắn đo không dám mạnh dạn đề cao đúng mức Trương Vĩnh Ký khi viết về ông trong
Từ điển văn học (bộ cũ).
Mấy ký ức vừa viện dẫn có lẽ chưa đủ sức thuyết phục bạn đọc tin vào sự tồn tại có thực của những bài viết mà tôi nhắc tới. May sao mới đây, khi kiên nhẫn bỏ ra ngót một tuần lễ để lục tìm lại trong ba tủ tư liệu của Ban Văn học Cổ cận đại Viện Văn học (tức là Tổ văn học Cổ cận đại cũ), tôi đã gặp đúng cái mình định tìm. Trong một cặp tư liệu có ghi ở ngoài “Tài liệu văn học sử cận đại”, tuy không còn đủ hết những bài đã nêu, song hai bài của ĐĐH - cái đinh của vấn đề - cùng với các bài của Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn, Hoàng Ngọc Phách, Đinh Xuân Lâm... thì còn đầy đủ. Chỉ thiếu hai bài của TC. Hai bài của ĐĐH nằm chung trong một phong bì bằng giấy xi măng, ngoài bì đề:
Ghi chép, sưu tầm, nhận định về Nguyễn văn Vĩnh và Phạm Quỳnh: 1. Tối phản động về chính trị; 2. Số không về học thuật; 3. Lỗi thời về dịch thuật - ĐĐH. Bên trong phong bì là hai tập bản thảo liên hoàn, bài trước có tên
Đông-dương tạp chí và Nguyễn văn Vĩnh, 22 trang, dưới ghi rõ
Ghi chép của ĐĐH; bài sau có tên
Tài liệu về Phạm Quỳnh, 27 trang, dưới ghi
ĐĐH sưu tầm. Cả hai đều được đánh máy trên giấy pơ-luya, đã ố vàng, trên góc bên phải đầu mỗi bài đều có đánh chữ H, tên tắt của Từ Quang Hàm, một cán bộ đánh máy lão luyện lâu năm của Viện đã quá cố. Tuy chia thành hai song hai bài có nội dung liền mạch, vì ở một trang gần cuối bài thứ hai, người viết nhắc lại luận điểm “phản tác dụng” mà ông nói “đã trình bày bên trên” (trang 23), tuy vậy lần ngược trở lên thì phải đến trang 20 của bài thứ nhất ta mới bắt gặp luận điểm ấy. Có lẽ cũng vì thế, cuối bài thứ hai tác giả mới ghi thời gian biên soạn: 8-1960, là thời gian chung cho cả hai bài.
Nội dung hai bài viết của ĐĐH nói gì? Trong bài
Đông-dương tạp chí và Nguyễn văn Vĩnh, tác giả chia ra ba phần: “1. Mở đầu; 2.
Đông-dương tạp chí; 3. Nguyễn văn Vĩnh dịch thuật”. Phần nào cũng khảo sát tỷ mỷ có kèm theo trích dẫn. Để khỏi làm bạn đọc vất vả, chỉ xin chọn ra dưới đây vài đoạn có tính chất đánh giá, tổng kết của người viết:
“Từ hành vi làm mật thám cho thực dân, Vĩnh thoạt tiên dùng con đường văn học, báo chí để leo lên thang giàu sang, danh vọng, bợ đỡ chính sách của thực dân, tuyên truyền cho sự “bảo hộ” của Pháp. Năm 1907, Vĩnh làm Chủ bút tờ Đại Nam đăng cổ tùng báo, là một thứ công báo, tuyên truyền chính sách thuộc địa của Pháp tại Đông-dương. Những tờ báo tiếng Việt hoặc tiếng Pháp do Vĩnh chủ trương đều là tiếng nói của tư tưởng thực dân, được thực dân đứng đầu hoặc được trợ cấp của chúng: Đông-dương tạp chí (1913-1917), Annam Nouveau (1931). Tủ sách Âu Tây tư tưởng, được thành lập dưới sự chỉ huy của E. Vayrac, từ năm 1927, nhằm truyền bá tư tưởng phục tùng văn minh Tây Âu, khinh miệt tư tưởng dân tộc. Từ 1930 trở đi, Vĩnh từ bỏ dần dần con đường tiến thân bằng văn học để trực tiếp tham gia chính trị; y chủ trương thuyết “trực trị” tức là muốn mời thực dân Pháp cai trị trực tiếp toàn Đông-dương như ở Nam-kỳ dạo ấy. Y được thực dân cử vào Đại Hội đồng kinh tế lý tài Đông-dương. Sau đó ít lâu, con đường “trực trị” không thực hiện được, Vĩnh bỏ cả nghề báo, nghề chính trị đi sang Lào tìm mỏ vàng và chết ở đấy. Vết nhơ cuối cùng trong cuộc đời bợ đỡ thực dân Pháp của Vĩnh là việc y phỉ báng nhà ái quốc Phan bội Châu đang bị giam lỏng ở Huế” (trang 1).
“Nhận định chung cả cuộc đời và tất cả “sự nghiệp” văn học của Nguyễn văn Vĩnh, ta thấy Vĩnh đại biểu cho từng lớp tư sản mại bản khoảng những năm 1910-30. Suốt đời Vĩnh ca ngợi nền thống trị của thực dân Pháp, phản lại dân tộc, khinh miệt dân tộc. Con đường tiến thân của Vĩnh không phải con đường quan lại như Quỳnh, kẻ đại diện cho tư tưởng phong kiến bảo thủ. Cuộc tranh giành địa vị trong cuộc cãi vã “trực trị” biểu hiện rõ điều ấy. Ta biết rằng thực dân Pháp lấy cơ sở thống trị của chúng trong chế độ phong kiến, lấy bọn vua quan làm tay sai, để dìm nhân dân ta trong ngu dốt, cho nên con đường của Vĩnh gặp nhiều khó khăn; chính Phạm Quỳnh mới là kẻ tay sai đắc lực, hợp thời nhất của thực dân Pháp. Mâu thuẫn giữa Quỳnh và Vĩnh phản ánh những cuộc tranh giành quyền lợi bỉ ổi giữa những bọn tay sai khác nhau của chính sách thực dân. Ngay từ những năm đầu, trước Đại chiến I, con đường “nghiên cứu”, “dịch thuật” văn học của hai người ấy cũng biểu lộ rõ con đường [chính trị] của mình. Quỳnh dịch những tư tưởng bảo thủ, thần bí, phong kiến trong văn học Pháp (Pascal, Bossuet), còn Vĩnh lại chuyên dịch những loại văn khác, bề ngoài có vẻ tiến bộ, như Balzac, Molière, La Fontaine, nhưng sự thực bị Vĩnh xuyên tạc, lấy nó làm lợi khí tuyên truyền cho tư tưởng đầu hàng, cho chính sách thực dân của Pháp [...] Cuộc đời chính trị và “sự nghiệp” văn học của Vĩnh không thể tách rời nhau. Nói chung, đó là tư tưởng đầu hàng, phản dân tộc, bợ đỡ thực dân, biểu hiện dưới nhiều hình thức, khi trắng trợn, khi tinh vi” (trang 2-3).
Còn về bài
Tài liệu về Phạm Quỳnh, tác giả cũng chia ra làm 6 mục: “1. Con người Phạm Quỳnh; 2. Chính trị; 3. Nghiên cứu văn học Việt-nam; 4. Nghiên cứu văn học Pháp; 5. Dịch thuật; 6. Triết học”; và một lời kết luận. Giống như trên, chỉ xin dẫn 2 đoạn:
“Nhận định chung về tiểu sử Phạm Quỳnh, ta thấy những hoạt động văn học cũng như chính trị của hắn chỉ phục vụ cho một mục đích là cố hết sức duy trì nền thống trị của thực dân ở Việt-nam, dưới nhiều hình thức, khi thì bằng con đường văn hóa, khi thì “đấu tranh” chính trị, khi thì bằng thực tế hành động. So sánh với những tay sai khác ta thấy Phạm Quỳnh có mấy đặc điểm sau đây: Phạm Quỳnh là một tên tay sai phản động nhất về mặt tư tưởng; những năm 30 là những năm “gay go” nhất cho thực dân - vì nhân dân đứng lên đấu tranh rất anh dũng ở khắp nơi - hắn vẫn tỏ ra một tên bảo thủ, hắn đối lập cả với bọn cải cách nhỏ giọt chủ trương “trực trị”; và những năm 40, quay trở về với chế độ quân chủ độc tài thối nát. Hắn cũng là một tay sai nguy hiểm nhất; dưới chiêu bài “gây một nền văn hóa tiến bộ”, hắn một phần nào đã đạt mục đích ru ngủ thanh niên, trí thức ta suốt gần 20 năm trời; hắn dùng vũ khí văn hóa để đè bẹp ý chí dân ta, chống lại tinh thần dân tộc của ta, tuyên truyền cho nền “văn minh” châu Âu, đặc biệt cho “văn minh” Pháp. Nói tóm lại, cả “sự nghiệp văn học” của Quỳnh, ngày nay ta nghiên cứu lại, đã soi tỏ những chính sách thâm độc của thực dân Pháp từ giữa cuộc Đại chiến thứ I đến Cách mạng tháng Tám” (trang 4).
“Qua một số tài liệu trên, ta có thể kết luận rằng sự nghiệp văn học của Phạm Quỳnh, đến nay, về mặt tích cực, là một con số không (chúng tôi in đậm - NHC), còn về mặt tác hại thì quả là lớn; phải công nhận rằng ảnh hưởng của Phạm Quỳnh đối với thanh niên, trí thức từ 1917 đến 1930 không phải là nhỏ. Hắn dựa vào uy thế của thực dân, chiếm được địa vị lớn trong làng báo lúc bấy giờ, có cơ quan ngôn luận được thực dân nuôi dưỡng, nên đã hoành hành một thời, dù có bị các nhà cách mạng công kích cũng chỉ bị sứt mẻ ít nhiều. Nhân dân ta đã xử tử Phạm Quỳnh, tưởng cũng đã đến lúc kết án toàn bộ “sự nghiệp” văn học của hắn một cách có hệ thống và xứng đáng với tội của hắn” (trang 27).
Rõ ràng, những gì tôi dẫn ra trong bài hồi ức về Trần Thanh Mại, tuy dựa vào trí nhớ nên không thật chính xác về câu chữ, song tuyệt nhiên không phải là tùy tiện. Nguyễn Văn Hoàn nói dứt khoát rằng “chưa bao giờ bắt gặp một ý kiến thô thiển, giản đơn” đại loại như thế trong “các công trình nghiên cứu về văn học cận đại” Nguyễn đã được đọc, và đặt câu hỏi: “Nguyễn Huệ Chi nói các bài trên đây “có ý nghĩa “điểm tựa” cho việc viết văn học sử cận đại” vậy thì chương nào, sách nào do Tổ Cổ cận đại biên soạn đã tỏ ra có chịu ảnh hưởng các tài liệu mà Huệ Chi vừa kể?”. Muốn phân giải cho thật thứ lớp, câu chuyện tôi sẽ thuật chắc có hơi dài. Đầu tiên là cuốn
Sơ thảo lịch sử văn học Việt-nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX do Tổ biên soạn với sự cộng tác của một số người ngoài Viện. Cuốn này được Nhà xuất bản Văn học in xong vào cuối tháng Năm năm 1964, nhưng đã được chuẩn bị ròng rã trong hai năm 1962-1963, dưới sự chỉ đạo chung của Đặng Thai Mai, mà phần trông nom và biên tập cụ thể thì phải nói do Trần Thanh Mại đảm nhiệm. Giáo sư Đặng Thai Mai nhận viết
Chương khái quát bao gồm hai mục: “Bối cảnh lịch sử” và “Tình hình văn học”. Để giúp đỡ ông, Tổ cử tôi làm một tư liệu viên, có nhiệm vụ vào thư viện đọc trong sách sử và các văn tập của thế kỷ XIX, rút lấy những đoạn có thể gợi ý cho người chấp bút nắm được quang cảnh chung về lịch sử và về văn học trong vòng gần năm thập kỷ. Sau nhiều tháng trời khổ công lục lọi ở cả hai Thư viện Khoa học và Quốc gia, tôi biên soạn xong đâu vào đấy, đem về đánh máy được ngót nghét 100 trang, nộp lên cho Tổ và Đặng Thai Mai. Nhưng điều không ngờ - và bởi thế cũng đặt tôi vào một tình thế khó khăn - là sau khi đọc xong, Đặng Thai Mai cho họp Tổ lại, đánh giá cao việc tôi làm, rồi đi đến quyết định: phân công tôi viết luôn
Chương khái quát. Trần Thanh Mại cũng đồng ý. Tôi lại đành phải gò gẫm thêm mấy tháng nữa để hì hục viết, một bài viết mà về tư tưởng chủ đạo chính mình không thực hiểu rõ, dù đã làm tư liệu không kém công phu. Kết quả thế nào cũng đã đoán được: bài viết hoàn thành, đem ra Tổ đọc, bị đánh giá là yếu về quan điểm và không chặt về lập luận, nên không thể dùng. Giữa tình hình một bài viết then chốt bị đổ, lại rất bức bách về thời gian, tất nhiên chỉ có một người là Trần Thanh Mại mới làm được việc “chữa cháy”. Ông thoải mái nhận, và yêu cầu tôi cung cấp bài đã viết cho ông, đưa cho ông cả 100 trang tư liệu mình làm, cùng với một số tài liệu khác mà Tổ có sẵn, trong đó có hai bài của TC về nhà Nguyễn và về Phan Thanh Giản. Và ông chỉ viết trong vòng một tháng rưỡi là xong
[2] .
Gần đây, đọc lại
Chương khái quát trong
Sơ thảo lịch sử văn học Việt-nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, tôi còn nhận ra dấu vết khá nhiều đoạn trích từ tập tư liệu của tôi (tập tư liệu này vẫn còn lưu một bản trong cặp hồ sơ văn học sử của Ban văn học Cổ cận đại ngày nay); một vài nhận định non nớt của tôi trong bản thảo bài viết bị Tổ bác bỏ cũng được Trần Thanh Mại dùng lại sau khi đã nâng cấp; và nhất là một số đoạn ông thâu tóm ý kiến cốt tủy từ hai bài của TC:
“Nền kinh tế dưới chế độ nhà Nguyễn ở vào một tình trạng sút kém thảm hại. Vẫn là nền kinh tế phong kiến già cỗi, dựa trên cơ sở bóc lột tô tức, với hạn hán, sâu bọ, bão lụt, vỡ đê xảy ra thường xuyên. Nhà nước phong kiến chỉ bó tay ngồi nhìn, hoàn toàn bất lực. Những năm gặp hạn thì phương pháp duy nhất là từ vua đến đình thần ăn chay, lập đàn cầu mưa! Riêng một con đê Văn-giang (Hưng-yên) bị vỡ mười tám năm liền trong đời Tự Đức. Nạn đói, dịch tả, đậu trời hàng năm làm chết hàng vạn, có khi hàng chục vạn người. Theo Thực lục chính biên, vào khoảng năm Tự Đức thứ 10-11, nghĩa là trong lúc giặc Pháp đang hoành hành ở miền Nam (1858-1859), số người trong nước chết vì bệnh thiên thời lên đến 60 vạn. Cảnh tượng dân lưu vong bỏ làng kéo đi từng đoàn dăm bảy trăm người, có khi vài ba nghìn người, để rồi chết dần, chết mòn nơi ven đường góc bụi là cảnh tượng thường thấy. Phong kiến thống trị nhà Nguyễn đề ra chính sách trọng nông ức thương. Với chính sách ấy, không những thương nghiệp bị ức chế, mà chính cả nông nghiệp lẫn công nghiệp đều không thể phát triển được, mà hiệu quả của nó là đưa xã hội vào một tình trạng bần cùng hóa nặng nề. Người dân ở đâu thường ở đấy, đa số suốt đời chưa ra khỏi làng mình. Đói, ít khi được ăn no; ốm, ít khi được chữa thuốc. Luật pháp nghiêm cấm nhân dân không được làm nhà cao rộng, mặc áo tơ lụa, nhiễu vóc. Làm nhà có gác, mặc áo sắc (trừ màu nâu và màu đen) là bị tội “lộng hành”, bị tù đày, có khi bị xử tử. Những điều ấy Minh Mạng cho ghi rõ trong một điều luật mà ông ta cho dịch ra vè quốc ngữ, bắt nhân dân học tập” (trang 10-11).
“Đời sống văn hóa đã hết sức tệ lậu trong buổi đầu triều Nguyễn, càng về sau càng có xu hướng suy sụp hơn. Những năm 30 của thế kỷ, Minh Mạng còn có ý định cho người ra nước ngoài học, và xét lại lối học cử nghiệp, nhưng rồi cũng đánh trống bỏ dùi, không vươn nổi ra khỏi tập tục bảo thủ. Từ đó về sau, trong nước ngày càng đi sâu vào lối học nhồi sọ. Vua và triều đình mỗi khi bàn chính sự thì chỉ biết có Tứ thư, Ngũ kinh, cho đó là thiên kinh địa nghĩa, tin rằng bất luận vấn đề lớn nhỏ nào cũng được giải đáp trong ấy. Họ đem những châm ngôn của Khổng Mạnh Chu Trình ngày xưa để làm phương sách giải quyết mọi vấn đề đang đặt ra. Như ếch ngồi đáy giếng, giai tầng trí thức nho sĩ vẫn tự cao tự đại với cái mà họ gọi là “thánh đạo nho phong” và coi các nước không “đồng chủng đồng văn” với mình là chó dê, mọi rợ. Có ai đi ra ngoài về kể chuyện đời sống đó đây thì cho là đi xa về khỏe bề nói khoác, hoặc vu khống là có ý mê hoặc lòng người, hủy hoại kỷ cương. Rốt cục lại, trình độ hiểu biết về đời sống, về thiên nhiên thuở bấy giờ thấp kém một cách khủng khiếp. Do đó, trong lề lối xử thế, trong quan hệ giữa con người và con người, chúng ta thấy nhiều điều ngu xuẩn, u mê, thậm chí vô nhân đạo” (trang 12-13).
“Loạt đại bác bắn vào cửa Hàn ngày 31-VIII-1858 quả đã gây một nỗi kinh khủng khó tả cho bọn người cầm đầu chế độ phong kiến. Những người đứng đầu triều đình như Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Bá Nghi, Đoàn Thọ đều chủ trương “nghị hòa” nghĩa là đầu hàng. Trương Đăng Quế và Phan Thanh Giản dẫn sách cũ, phát biểu: “Nhược bằng cho rằng lũ chúng tôi (chủ trương hòa nghị) là làm cho Đức vua phải lo lắng, thì thử hỏi từ xưa nhà Hán chẳng đã tự hòa với Hung-nô đó hay sao? Nhà Tống chẳng đã tự hòa với Khiết-đan đó hay sao? Nhiều lập luận lẩm cẩm ngớ ngẩn chứng tỏ những người đưa nó ra đã hốt hoảng đến mất hết lý trí bình thường” (trang 17).
“Có những phần tử thất bại chủ nghĩa đứng hẳn về phía giặc, thúc giục Tự Đức xuống chỉ dụ giải tán tất cả các cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm. Phan Thanh Giản nhiều lần viết thư cho Trương Định yêu cầu bãi binh. Năm 1860, Trịnh Quang Nghi, một thủ lĩnh nghĩa quân, thấy một đoàn dân quê gồm 44 người bị tuyên truyền xuyên tạc kéo nhau đi tìm đồn Pháp để đầu hàng. Trịnh Quang Nghi cho quân giữ lại, hết lời thuyết phục nhưng họ nhất định không nghe. Biết thế giam họ thì không có cơm nuôi, không có người canh giữ, Trịnh cho quân mang ra giết hết. Phan Thanh Giản hay biết chuyện đó, gửi sớ về triều đòi trị tội Trịnh Quang Nghi, không phải vì tội giết người hàng loạt không thỉnh mệnh vua, mà là vì tội làm mất lòng người Pháp (!), nhưng Tự Đức đã phê vào sớ: “Đó là nghĩa cử, không nên bắt tội” (trang 18-19).
Nếu nói quan điểm của TC đã làm “điểm tựa” cho Trần Thanh Mại thì hẳn là hơi quá, song thực tế là như vậy đấy - hai ông đã “gặp nhau” bởi đều cùng bắt nguồn từ “hòn đá tảng” quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin vốn thấm sâu trong lòng họ .
Sau cuốn
Sơ thảo lịch sử văn học Việt-nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, cả Tổ bắt tay vào cuốn
Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1930. Bấy giờ Trần Thanh Mại đã mất rồi. Cơ quan cũng có những đổi thay, như việc chuyển lên vùng sơ tán ở Hà Bắc, tránh cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ. Tổ chỉ định ba người: Nguyễn Văn Hoàn, Trần Nghĩa và tôi, đảm nhiệm cuốn sách mới. Suốt trong hai năm 1965-1966, sau nhiều ngày trao đổi, thảo luận về nội dung, phân công biên soạn và từng người một trình bày đề cương chi tiết, ngày 1-XI-1966, chúng tôi đi đến thống nhất được một một bản đề cương tổng quát, gồm
Lời nói đầu, bốn chương và
Kết luận, được Viện thông qua. Cụ thể là:
Chương I “Tình thế chính trị mới, xu hướng văn học mới” (Nguyễn Văn Hoàn viết);
Chương II “Văn học cách mạng” (Nguyễn Huệ Chi viết);
Chương III “Văn học hợp pháp”, có hai mục: Mục 1 “Văn học hợp pháp với hai khuynh hướng nô dịch và cải lương” (Nguyễn Văn Hoàn viết phần nô dịch; Trần Nghĩa viết phần cải lương); và Mục 2 “Cuộc đấu tranh chống chính sách nô dịch hóa của thực dân Pháp” (Nguyễn Văn Hoàn viết);
Chương IV “Văn học hợp pháp, tiếp theo” (Trần Nghĩa viết).
Nhìn vào đề cương ta thấy ngay cách định danh “văn học nô dịch” là nói về
Đông-dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh và
Nam phong tạp chí của Phạm Quỳnh. Điều đáng buồn là mãi mấy năm sau bộ sách vẫn không dứt điểm được, không phải vì Trần Nghĩa và tôi không viết xong (chúng tôi đã nộp đầy đủ bản thảo, và bản thảo của tôi hiện còn lưu trong cặp hồ sơ của Ban văn học Cổ cận đại), mà vì những phần của Nguyễn Văn Hoàn mãi vẫn... không thấy. Ngẫm lại câu hỏi có vẻ như thách thức của Nguyễn, tôi cứ nghĩ bụng: giá như thuở ấy ai cũng viết kịp thời hạn, cuốn sách hoàn thành và may mắn ra mắt bạn đọc, thì giờ đây sẽ đỡ vất vả biết bao trong việc so sánh phần “Văn học nô dịch” với ý kiến của ĐĐH.
Nhưng cũng chẳng sao, bởi ngay khi
Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1930 còn dang dở, Tổ và Viện đã lại phải bắt tay vào một công việc quy mô hơn: biên soạn bộ
Lịch sử văn học Việt Nam ở cấp quốc gia, dưới sự chỉ đạo của Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn. Nhóm biên soạn là một tập thể đông đảo gồm nhiều cán bộ ở hai Trường đại học Tổng hợp và Sư phạm Hà Nội, về phía Viện có Cao Huy Đỉnh (văn học dân gian) Nguyễn Văn Hoàn (văn học cổ cận đại), Vũ Đức Phúc (văn học hiện đại). Sách chia làm hai tập, Tập I từ khởi thủy đến giữa thế kỷ XIX; Tập II từ nửa cuối thế kỷ XIX đến tận thập kỷ 70 thế kỷ XX. Công việc chuẩn bị được tiến hành trong nhiều năm, với rất nhiều loại đề cương, rất nhiều hội thảo, viết đi viết lại nhiều lần, cuối cùng in ra được Tập I
[3] , còn Tập II thì không hiểu vì sao sau bao nhiêu rục rịch khởi động vẫn phải dừng. Mặc dầu thế, qua mỗi chặng, mỗi lần góp ý, bản thảo đều được Nhóm biên soạn chỉnh lý, viết lại khá công phu. Cũng trong một cặp hồ sơ khác của Ban văn học Cổ cận đại hiện còn lưu giữ mấy tập in rô nê ô các đề cương và sơ thảo của Tập II, trong đó có nguyên 58 trang hai chương đầu cuốn sách: Chương I “Văn học Việt-nam nửa sau thế kỷ XIX” và Chương II “Văn học Việt-nam từ đầu thế kỷ XX đến trước ngày thành lập Đảng” do Ủy ban Khoa học xã hội gửi xuống trưng cầu ý kiến (khoảng trước năm 1975). Lại xin trích dẫn dưới đây một số đoạn trong tập bản thảo đó, phần nói về Tự Đức, về Trương Vĩnh Ký, về Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh:
“Riêng Tự Đức trong đời làm vua, cũng viết không ít. Một số bài biểu dương các lãnh tụ nghĩa quân hy sinh trong công cuộc chống Pháp ở Nam-kỳ, một số bài phê phán bọn quan lại mải ăn chơi, quên việc nước... mới đọc, tưởng như cũng gần với tinh thần dân tộc trong thơ văn của một số vua chúa thời Lý, Trần, Lê sơ, nhưng té ra lại là tiếng nói của một con người quen độc quyền xương máu nhân dân, nay chưa chịu nhả phần cho bọn cướp mới đang đến tranh ăn trong buổi đầu mà thôi” (trang 11).
“Cuối cùng có thể kể đến những mầm mống văn học nô dịch mà thực dân Pháp đang cố sức gieo rắc. Ai cũng biết, từ lâu thực dân Pháp đã dùng văn học Thiên chúa giáo nô dịch nhiều người Việt-nam. Nay cướp được nước ta chỗ nào, thì chúng càng ra sức thực hiện đường lối văn hóa của chúng ở chỗ đấy. Đào tạo thông ngôn người Việt, khuyến khích người Pháp học tiếng Việt, ra báo chí quốc ngữ, dịch văn thơ Việt-nam ra tiếng Pháp, dùng tiếng Pháp để viết về Việt-nam, đưa một số người Việt-nam sang Pháp, sang La-mã học... tất cả là nằm trong âm mưu văn hóa của chúng. Tư tưởng chủ đạo trong chính sách văn hóa của Pháp ngay từ đầu là nhằm kéo Việt-nam ra khỏi ảnh hưởng văn hóa lâu đời của Trung-quốc để đi vào vòng ảnh hưởng văn hóa Pháp. Quyết tâm của chúng là phải tạo ra trên đất nước Việt-nam một nền văn hóa nô dịch. Pôn Be (Paul Bert) rất có vai trò trong việc vạch ra đường lối văn hóa của Pháp ở Việt-nam. Nhưng không dễ gì chúng làm ngay được điều chúng muốn. Kết quả bước đầu của chúng ở hồi này là đào tạo được một số người phục vụ văn hóa cho chúng như Trương Vĩnh Ký, Paulus Của... Nhưng khi mà cuộc kháng chiến của dân tộc ta còn có uy thế, những người này cũng chưa thể trắng trợn như bọn bồi bút về sau. Trương Vĩnh Ký, xét bề ngoài vẫn có vẻ là một “học giả”. Kể ra, đã phục vụ cho kẻ thù thì chẳng cần phân biệt ai ít xấu xa hơn ai, nhưng nói về văn chương nịnh Tây, hồi này, cái xấu xa dễ thấy nhất lại là giọng lưỡi của những đứa như Tôn Thọ Tường, Hoàng Cao Khải. Các nhà văn đương thời chĩa mũi nhọn vào bọn Tôn Thọ Tường, phải chăng là vì như thế. Văn học nô dịch là hiện tượng quái thai trong lịch sử văn học nước nhà. Số phận của nó sẽ là số phận của kẻ thù cướp nước, đã bị quét sạch, sẽ bị quét sạch” (trang 14).
“Giặc Pháp tỏ ra ân hận về sự sơ hở, chậm chạp của mình. Quyết tâm mới của chúng là phá hoại cho kỳ được phong trào cách mạng, đồng thời cố gắng kéo Việt-nam đi nhanh vào vòng ảnh hưởng của đường lối văn hóa thực dân bằng mọi cách: thành lập Ban Tu thư của Phủ Thống sứ Bắc-kỳ, nắm chặt việc thi cử chữ Hán hơn, hạn chế đến mức tối thiểu chương trình chữ Hán trong các trường Pháp Việt, đưa học thuật Pháp Việt lên địa vị chính thống, đào tạo gấp số người biết chữ Pháp và trọng tâm là đào tạo bồi bút. Nhưng ở một đất nước kiên cường như đất nước ta, trên lãnh vực văn học, dễ gì chúng làm nên trò trống. Có một Trần Tán Bình lên giọng “bình tán” sau ngày “Đại Pháp” cho sang tham quan “mẫu quốc” về (1906), nhưng anh chàng này về sau lại mê chơi mà lười tán. Có một Hoàng Cao Khải cuối thế kỷ XIX đã úng ắng trước ý chí đánh giặc của nhà lãnh tụ Cần vương Phan Đình Phùng, vào khoảng 1910 lại cho ra Gương sử Nam để “sủa với phong trào bài Pháp một cách ngao ngán”. Tiếp đó (1915-1916) ra thêm mấy thứ nữa cũng là cho trọn đạo thờ Tây. Chứ quan thầy của hắn trước đó đã nghĩ đến một kiểu bồi bút “hiện đại” hơn. Năm 1913, Đông-dương tạp chí ra đời với tên kép mới là Nguyễn Văn Vĩnh, từng chui vào phá hoại Đông-kinh nghĩa thục, với vị cha đỡ đầu là Rơ-nê Rô-bin (René Robin), Thống sứ Bắc- kỳ. Đông-dương tạp chí tập hợp được một số nhà nho vừa mới “vứt bút lông... nắm bút chì” và một số tân học, kẻ viết người dịch, cũng có chút rôm rả. Riêng Vĩnh thì chuyên nguyền rủa cách mạng, tuyên truyền chủ nghĩa đầu hàng và dịch tác phẩm văn học phương Tây, trước hết là văn học Pháp. Có thể nói, sau mấy năm cố gắng, giờ đây có được tờ Đông-dương tạp chí và kèm theo một vài món hàng khác nữa, thực dân Pháp đã khai trương được quầy hàng sách báo nô dịch theo kiểu “quy mô”, “hiện đại” (trang 41).
“Trong khi đó, kẻ thù ngay khi chiến tranh thế giới chưa kết thúc đã ra sức củng cố quyền lợi ở Đông-dương. Trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, chúng sẽ có âm mưu với nhiều biện pháp mới quy mô hơn, triệt để hơn và cũng xảo quyệt hơn. An-be Xa-rô (Albert Sarraut) sang nhậm chức Toàn quyền lại ở Đông-dương cố gắng thực hiện âm mưu đó. Một số trường đại học được thành lập thêm. Việc thi chữ Hán bị chấm dứt hoàn toàn. Hội Khai trí tiến đức theo lệnh Pháp ra đời, tập hợp đủ mặt bọn quan lại, tư sản hòng lũng đoạn đời sống tinh thần, văn hóa của xã hội. Quầy hàng Đông-dương tạp chí sẽ được xếp lại để thay thế bằng quầy hàng Nam phong tạp chí với tên chủ quán mới là Phạm Quỳnh và vị cha đỡ đầu khác là Mac-ty (L. Marty) trùm mật thám Đông-dương. Quỳnh khoác lốt “nhà học giả kính trắng”, là người tôn thờ chủ nghĩa quốc gia, bảo vệ quốc hoa, quốc hồn, quốc túy (!). Quỳnh viết đủ các thứ: chính trị, triết học, sử học, kinh tế, giáo dục, khoa học, văn học..., nói đủ chuyện cổ, kim, đông, tây, trên tờ Nam phong. Nhất thời và bề ngoài, quầy hàng buôn bán có vẻ khấm khá. Nhiều người lui tới. Có người choáng ngợp (chú thích: hiện nay, ở Sài-gòn tạm chiếm vẫn có kẻ tôn Phạm Quỳnh lên địa vị “nhà khai sáng của thế kỷ XX”. Chẳng cần nói nhiều mọi người đều thừa biết, bọn họ là thứ người gì mà tán tụng nhau rồi). Nhưng không ổn cho chúng rồi. Cụ Phan Châu Trinh năm 1922 từ bên Pháp đã cảnh cáo khẽ Quỳnh. Năm 1924, chí sĩ Ngô Đức Kế vừa mười ba năm Côn-đảo trở về, đang sống ở Hà-nội, với tờ báo Hữu thanh, nhân lúc Quỳnh hương hoa khấn vái Nguyễn Du nài mượn văn chương Truyện Kiều làm liều thuốc ru ngủ thanh niên, đã căm giận dương cung “chánh học”. Quầy hàng Nam phong vẫn mở cho tới sau ngày chủ quán Phạm Quỳnh bỏ nghiệp “văn chương” vào Huế, đội mũ cánh chuồn làm Thượng thư Bộ Học (1933) ít lâu, nhưng thực thì từ sau khi phát tên chánh học của cụ Nghè Ngô cắm trúng đầu vị chủ quán, nó trở thành lao đao. Nhất là sau đó, phong trào yêu nước ngày một phát triển lại thì ảnh hưởng của Nam phong bị giảm sút rõ rệt. Nhiều người còn nhớ năm 1926 sinh viên Cao đẳng Hà-nội chặn đánh Phạm Quỳnh ở phố Hàng Gai về tội nói xấu phong trào truy điệu Phan Châu Trinh. Dĩ nhiên, kẻ thù vẫn tiếp tục dùng bọn bồi bút để phá hoại cách mạng Việt-nam, ngăn chặn ảnh hưởng cách mạng tháng Mười Nga, cách mạng Trung-quốc, ngăn chặn học thuyết Mác Lê-nin lúc này đang truyền đến nước ta” (trang 43-44).
Còn nhiều nữa nhưng thiết tưởng thế cũng đủ. Không phải vô cớ khi tôi nói những bài lưu trong tủ hồ sơ của Tổ văn học Cổ cận đại Viện Văn học đầu những năm 60 là “điểm tựa” cho người viết văn học sử thuở ấy. Có thể tập thể soạn giả viết những trang vừa dẫn trên đây chưa hề được đọc các tài liệu của ĐĐH, của Mẫn Quốc. Vậy mà họ vẫn không khác ĐĐH, Mẫn Quốc bao nhiêu ở cách nhìn, cách suy nghĩ, ở lời lẽ lên án có tính chất quy chụp nặng nề, ở giọng điệu thậm xưng, bêu riếu... đối với bộ phận văn học mà một thời chúng ta đều nhất trí gọi là văn học nô dịch. Chính chỗ thống nhất về “quan điểm giai cấp” bắt buộc phải dùng làm hành trang tư tưởng đối với nhà nghiên cứu, và phương pháp nghiên cứu đồng nhất văn học với chính trị một cách tuyệt đối, đã dẫn đến một sự gặp gỡ căn bản giữa mọi người cầm bút: “Hễ thấy địch là đánh, đánh bao nhiêu cũng chưa đủ”. Nói đâu xa, ngay trong cuốn
Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX của nhà nghiên cứu đáng kính Đặng Thai Mai, ta cũng bắt gặp những lời đánh giá chưa thỏa đáng lắm về Phạm Quỳnh, khi ông gọi Phạm Quỳnh là “tên Việt gian đội lốt “học giả” nguy hiểm”, hoặc “cái mà Phạm Quỳnh giới thiệu lên trên tờ báo
Nam phong không hề có một mặt nào có thể gọi là có hệ thống, và cũng chưa hề có một phần nào đã đi sâu vào vấn đề mà phê phán, mà nghĩ đến việc áp dụng vào thực tế Việt-nam. Ông Chủ bút
Nam phong, nói cho cùng chỉ là một ông tham biện của tòa Liêm phóng, đủ tư cách để chiếu theo mặt hàng mà quảng cáo cho chính sách thực dân”, hoặc nữa “Phạm Quỳnh đã đọc khá nhiều sách, đã viết về rất nhiều vấn đề. Nhưng y chưa hề nghiên cứu về một vấn đề gì. Và về mọi mặt, chỗ “độc đáo” của y là điểm lạc hậu của bọn học giả phản động Pháp! Cảm tưởng cuối cùng của người đọc
Nam phong, nếu họ chịu khó suy nghĩ, thì Phạm Quỳnh là một người đã đọc khá nhiều sách và đã đem học thức ra bán rẻ cho bọn thống trị; là một nhà “học giả” có đủ chữ Hán và tiếng Việt để bịp người Tây; và cũng có đủ chữ Tây để lòe người “An-nam”
[4] .
Xin Nguyễn Văn Hoàn và bạn đọc rộng lượng thông cảm, tôi không có ý trưng ra đây để châm chích gì Đặng Thai Mai. Tôi cũng không nghĩ những gì Phạm Quỳnh và cả những người như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh từng nói, viết và làm đều hay đều tốt. Từ
bình diện lịch sử văn học mà xét, vốn là sản phẩm của một giai đoạn giao thời, đầy éo le bất trắc: đất nước mất chủ quyền, chuyển đổi không triệt để từ mô hình phong kiến sang mô hình thuộc địa tư bản, và trong tư cách những nhân vật ngẫu nhiên được lịch sử lựa chọn để đóng vai trò tiêu biểu trong giao thoa văn hóa Á-Âu - một nhu cầu tất yếu của mô hình xã hội ấy, những giá trị tinh thần do họ tạo ra có phần được và phần không được, có mặt thật và mặt ảo, có cái đẹp và cái chưa đẹp, có chỗ đáng ghi nhận và chỗ phải gạn lọc, phê phán, chuyện đó rất bình thường. Tôi chỉ muốn lưu ý rằng vào những năm 60-70 trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, khi nhìn lại những hiện tượng văn hóa nói trên, cách tư duy của rất nhiều người trong giới nghiên cứu chúng ta đều rốt ráo theo hướng “căng”, “cương” như đã dẫn. Nó là phương pháp tư tưởng quen thuộc của một thời, tưởng chừng trở thành máu thịt, là sự tự nguyện, và cũng là bắt buộc. Giữa người này người khác mức độ đánh giá có thể có những cung bậc khác nhau, nhưng ai mà nói khác, nói ngược lại được cơ chứ! Nói khác, nói ngược và nghĩ ngược, dầu chỉ là một thủ pháp lật đi lật lại cho sâu sắc thêm vấn đề mình nghĩ, như Nguyễn Ngọc Côn nói về tình yêu của cô Mỵ Nương trong
Truyện Trương Chi là “một yêu cầu tự nhiên” “gắn liền với bản chất con người” (hiểu ngầm là phi giai cấp), trong cuốn
Giảng văn của Trường đại học Sư phạm Hà Nội
[5] , lập tức đã bị coi là một nhận định “duy tâm”, “một biểu hiện của một nhận thức ít nhiều còn mơ hồ về tư tưởng và còn bấp bênh về học thuật”
[6] , một xu hướng muốn quay “trở lại con đường mòn của thuyết tính người chung chung mà kẻ bảo dưỡng hiện nay là chủ nghĩa xét lại”
[7] , bị “thổi còi” và chuyển sang một công việc khác “hợp với khả năng hơn”. Cho nên trước việc Trần Thanh Mại không được in bài nghiên cứu Miên Thẩm mà Nguyễn Văn Hoàn giải thích: lãnh đạo Viện Văn học đã trả lời ông “phải chờ lúc nào tình hình chung thuận lợi hơn” và ông liền “tâm phục khẩu phục”, thì không hiểu có đúng thế thật hay không nhưng theo tôi, lối nói đó (của Viện hoặc của Nguyễn Văn Hoàn cũng vậy) chỉ là của người quen làm công tác quản lý - lối nói ngọt ngào chính trị đấy thôi. Với tôi, một người làm khoa học không quen nói chính trị kiểu ấy, tôi ngờ rằng, nếu không có sự sụp đổ của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa và những bức xúc trong đời sống xã hội đưa đến chủ trương đổi mới, dám chắc đến nay vẫn chưa một người nào trên đất nước ta liều lĩnh bỏ hết tâm huyết vào tìm tòi, nghiên cứu Miên Thẩm như Trần Thanh Mại thuở trước từng làm. Hãy gọi sự vật bằng tên của nó, tôi vẫn mong Nguyễn Văn Hoàn nhớ lời người xưa từng dặn.
Hà Nội 15/30-V-2005
© 2005 talawas
[1]Có thể tôi nhớ nhầm vì bên cạnh bài này còn có bài Võ Văn Nhung gửi đến Viện muộn hơn.
[2]Sau khi viết xong, Trần Thanh Mại đã quên không trả tôi bản viết tay
Chương khái quát do tôi thảo ban đầu. Hiện trong cặp hồ sơ “Văn học sử Cận đại” không có bản thảo ấy. Hai bài của TC có thể thất lạc cùng một nguyên cớ. Còn tập tư liệu 100 trang vì đánh máy nhiều bản nên vẫn còn một bản rõ nhất mà tôi dành lại.
[3]Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980.
[4]Xin xem
Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1964; trang 97-98.
[5]Xin xem bài giảng
Truyện Trương Chi của Nguyễn Ngọc Côn trong sách
Giảng văn. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1963.
[6]Xem Trần Thanh Mại.
Đọc hai cuốn “
Giảng văn”
của Tổ Văn học Việt-nam Trường đại học Sư phạm,
Tạp chí văn học, số 1-1965.
[7]Xem Hoàng Tuấn Phổ.
Bàn thêm về cuốn “
Giảng văn”
của Trường đại học Sư phạm,
Tạp chí văn học, số 4-1965. Xin tự bạch là bản thân tôi cũng đã có bài góp ý với Nguyễn Ngọc Côn trên
Tạp chí văn học số 5-1965, tuy cách nói nhẹ nhàng nhưng cũng đã quy kết tác giả mơ hồ về quan niệm tính người. Theo tôi biết, sau cuộc trao đổi ý kiến trên
Tạp chí văn học trong gần suốt năm 1965, Nguyễn Ngọc Côn đã phải làm kiểm điểm và chuyển sang dạy ở Khoa Ngoại ngữ.