Mục 6: Tính khách quan và sự đánh giá
Khi nhấn mạnh những khó khăn về tiên đoán trong các môn khoa học xã hội, chúng ta đã thấy chủ nghĩa lịch sử đưa ra các lí lẽ, dựa trên sự phân tích về ảnh hưởng của các tiên đoán lên các sự kiện được tiên đoán. Nhưng theo chủ nghĩa lịch sử, ảnh hưởng này có thể, dưới những hoàn cảnh nhất định, có những tác động lại quan trọng lên nhà quan sát đang tiên đoán. Những suy xét tương tự đóng một vai trò quan trọng, thậm chí cả trong vật lí học, nơi mọi quan sát đều dựa trên sự trao đổi năng lượng giữa nhà quan sát và cái được quan sát; điều này dẫn đến sự bất định, thường có thể được bỏ qua, của các tiên đoán vật lí, cái được “nguyên lí bất định” mô tả. Có thể cho rằng: Sự bất định này là do một tương tác giữa khách thể được quan sát và chủ thể đang quan sát, vì cả hai đều thuộc về cùng thế giới vật lí của tác động và tương tác. Như Bohr đã chỉ ra, có những sự tương tự trong các môn khoa học khác đối với tình thế này trong vật lí học, đặc biệt trong sinh học và tâm lí học. Nhưng chẳng ở đâu, sự thực, là nhà khoa học và đối tượng của ông ta lại thuộc về cùng một thế giới, lại có tầm quan trọng hơn trong các môn khoa học xã hội, nơi nó dẫn đến (như đã được chứng tỏ) một sự bất định của tiên đoán, điều đôi khi có tầm quan trọng thực tiễn lớn.
Chúng ta đối mặt, trong các khoa học xã hội, với một tương tác đầy đủ và phức tạp giữa nhà quan sát và cái được quan sát, giữa chủ thể và khách thể. Biết sự tồn tại của các khuynh hướng, có thể tạo ra một sự kiện tương lai, và, hơn nữa, biết rằng bản thân tiên đoán có thể gây ảnh hưởng lên các sự kiện được tiên đoán, chắc có những tác động lại lên nội dung tiên đoán; và các tác động lại này có thể là loại làm suy yếu nghiêm trọng tính khách quan của các tiên đoán và của các kết quả nghiên cứu khác trong các khoa học xã hội.
Một tiên đoán là một biến cố xã hội, có thể tương tác với các biến cố xã hội khác, và giữa chúng với biến cố mà nó tiên đoán. Nó có thể, như ta đã thấy, giúp để tiên đoán sự kiện này; nhưng có thể dễ dàng thấy là nó cũng có thể ảnh hưởng theo cách khác. Nó có thể, trong trường hợp cực đoan, thậm chí
gây ra sự cố nó tiên đoán: Biến cố đã có thể không hề xảy ra, nếu giả như nó đã không được tiên đoán. Ở thái cực khác, sự tiên đoán về một sự kiện sắp xảy ra có thể
ngăn cản nó (đến mức có thể nói về nhà khoa học xã hội, người cố ý hay vô tình không tiên đoán, là có thể gây ra, hoặc làm cho nó xảy ra). Rõ ràng có nhiều trường hợp trung gian ở giữa hai thái cực này. Hành động tiên đoán cái gì đó, và việc kiêng không tiên đoán, cả hai có thể có mọi loại hệ quả.
Bây giờ, rõ ràng là các nhà khoa học xã hội, với thời gian, đã biết về những khả năng này. Một nhà khoa học xã hội, thí dụ, có thể tiên đoán cái gì đó, dự kiến trước là tiên đoán của mình sẽ làm cho nó xảy ra. Hoặc ông ta có thể từ chối rằng một sự kiện nào đó được dự kiến, bằng cách ấy, ngăn cản nó. Và trong cả hai trường hợp, ông ta có thể tôn trọng nguyên lí có vẻ như đảm bảo sự khách quan khoa học: Về nói sự thật và không gì khác ngoài sự thật. Nhưng dẫu cho ông ta đã nói sự thật, chúng ta không thể nói rằng, ông ta đã tôn trọng tính khách quan khoa học; vì bằng việc đưa ra các tiên đoán (mà các biến cố sắp tới sẽ thoả mãn), ông ta có thể đã ảnh hưởng đến những biến cố đó theo hướng mà cá nhân ông ta ưa thích.
Nhà lịch sử chủ nghĩa có thể thừa nhận là bức tranh này có hơi sơ lược, nhưng ông ta khăng khăng rằng nó làm nổi bật một điểm mà chúng ta thấy ở hầu như trong mọi đề tài của các môn khoa học xã hội. Tương tác giữa những tuyên bố của nhà khoa học và đời sống xã hội hầu như luôn tạo ra các tình huống, trong đó, chúng ta không chỉ xem xét sự thật của những tuyên bố như vậy, mà cũng xem xét cả ảnh hưởng thực tế của chúng lên diễn tiến tương lai. Nhà khoa học xã hội có thể cố gắng để tìm sự thật; nhưng, đồng thời, ông ta luôn tác động một ảnh hưởng xác định lên xã hội. Chính sự thực, là các tuyên bố của ông ta
có ảnh hưởng, phá huỷ tính khách quan của chúng.
Cho đến đây, chúng ta đã giả thiết rằng: Nhà khoa học xã hội thực sự cố gắng tìm sự thật, và không gì khác ngoài sự thật; nhưng nhà lịch sử chủ nghĩa sẽ chỉ ra rằng: Tình trạng được mô tả làm lộ ra những khó khăn của giả thiết của chúng ta. Vì ở nơi sự thiên vị và các lợi ích có ảnh hưởng như vậy lên nội dung của các lí thuyết và tiên đoán khoa học, phải rất đáng ngờ, liệu thiên kiến có thể được xác định và tránh hay không. Như thế, chẳng cần ngạc nhiên để thấy rằng, trong các môn khoa học xã hội, có rất ít điều giống sự tìm kiếm khách quan và lí tưởng đối với sự thật mà chúng ta thấy trong vật lí học. Chắc có thể thấy bấy nhiêu khuynh hướng trong khoa học xã hội như có thể thấy bao nhiêu khuynh hướng trong đời sống xã hội; có bấy nhiêu lập trường như có bao nhiêu lợi ích. Có thể hỏi: Liệu lí lẽ lịch sử chủ nghĩa này không dẫn đến một dạng cực đoan của chủ nghĩa tương đối, cho rằng tính khách quan, và lí tưởng về sự thật, hoàn toàn không thể áp dụng được trong các môn khoa học xã hội, nơi chỉ thành công - thành công chính trị - là quyết định.
Để minh hoạ các lí lẽ này, nhà lịch sử chủ nghĩa có thể chỉ ra rằng: Mỗi khi có một xu hướng cố hữu nào đó trong một giai đoạn phát triển xã hội, chúng ta có thể trông chờ để thấy các lí thuyết xã hội học ảnh hưởng đến sự phát triển này. Khoa học xã hội, như thế, có thể hoạt động như một bà đỡ, giúp sinh ra các giai đoạn xã hội mới; nhưng nó cũng có thể được dùng tương tự như thế, trong tay các thế lực bảo thủ, để làm chậm trễ những thay đổi xã hội sắp xảy ra.
Cách nhìn như vậy có thể gợi ý cho khả năng phân tích và giải thích sự khác nhau giữa các học thuyết và trường phái xã hội học khác nhau, bằng cách dẫn chiếu hoặc đến quan hệ của chúng với những thiên vị và lợi ích thịnh hành trong một giai đoạn lịch sử cá biệt (một cách tiếp cận đôi khi được gọi là “thuyết lịch sử-
historism”, và không nên lẫn lộn với cái tôi gọi là “chủ nghĩa lịch sử-
historicism”), hoặc đến mối liên hệ của chúng với các lợi ích chính trị hay kinh tế hay giai cấp (một cách tiếp cận đôi khi được gọi là “
xã hội học tri thức”).
Mục 7: Chỉnh thể luận (Holism)
Hầu hết các nhà lịch sử chủ nghĩa tin rằng: Còn có một lí do sâu xa hơn nữa để giải thích vì sao các phương pháp khoa học vật lí không thể áp dụng được cho các môn khoa học xã hội. Họ lí luận rằng xã hội học, giống mọi khoa học “sinh học”, tức là các khoa học đề cập đến các đối tượng sống, không được tiến hành theo cách chẻ nhỏ, mà phải theo cách bây giờ được gọi là “chỉnh thể -
holistic”. Vì các đối tượng của xã hội học, các nhóm xã hội, không bao giờ được coi đơn thuần là tổng số các cá nhân. Nhóm xã hội là
nhiều hơn tổng đơn thuần của các thành viên của nó, và nó cũng
nhiều hơn tổng đơn thuần của các quan hệ cá nhân thuần tuý tồn tại ở bất kể thời điểm nào, giữa bất kể thành viên nào của nó. Điều này có thể thấy dễ dàng, ngay cả trong một nhóm đơn giản, gồm ba thành viên. Một nhóm do A và B lập ra sẽ khác về đặc tính với một nhóm có cùng số thành viên nhưng do B và C lập ra. Điều này có thể minh hoạ cho việc nói rằng: Một nhóm có
lịch sử riêng của nó có nghĩa là gì, và rằng cấu trúc của nó phụ thuộc rất lớn vào lịch sử của nó (xem cả mục 3 ở trên về “Tính mới”). Một nhóm có thể dễ giữ nguyên vẹn đặc tính của nó, nếu nó mất một vài thành viên ít quan trọng. Và thậm chí, có thể tưởng tượng được là một nhóm có thể giữ phần lớn đặc tính ban đầu của nó cho dù
toàn bộ thành viên ban đầu của nó được thay thế bằng các thành viên khác. Nhưng cùng các thành viên đó, những người hiện thời tạo thành nhóm, có lẽ có thể đã tạo thành một nhóm rất khác, nếu họ đã không tham gia vào nhóm ban đầu từng người một, mà thay vào đó, lập ra một nhóm mới. Tính cách của các thành viên có thể có ảnh hưởng lớn lên lịch sử và cấu trúc của nhóm, song sự thực này không ngăn cản nhóm khỏi có một lịch sử và cấu trúc của riêng mình; nó cũng chẳng ngăn nhóm khỏi có ảnh hưởng mạnh đến tính cách của các thành viên.
Mọi nhóm xã hội đều có các truyền thống riêng, định chế riêng, nghi lễ riêng của mình. Chủ nghĩa lịch sử cho rằng: Chúng ta phải nghiên cứu lịch sử của nhóm, các truyền thống và định chế của nó, nếu chúng ta muốn hiểu và giải thích nó như nó là hiện nay, và nếu chúng ta muốn hiểu và có lẽ nhìn thấy trước sự phát triển tương lai của nó.
Đặc tính chỉnh thể của các nhóm xã hội, sự thực là các nhóm như vậy chẳng bao giờ được giải thích hoàn toàn như tổng số đơn thuần của các thành viên của chúng, rọi ánh sáng lên sự phân biệt của nhà lịch sử chủ nghĩa giữa tính mới trong vật lí học, cái thuần tuý dính đến các tổ hợp hay sự sắp xếp mới của các nguyên tố và nhân tố không mới, và tính mới trong đời sống xã hội, điều là thực sự và không thể quy giản cho tính mới đơn thuần về sắp xếp. Bởi vì, nếu các cấu trúc xã hội nói chung không thể được giải thích như các tổ hợp của các phần hay các thành viên của chúng, thì rõ ràng cũng không thể để giải thích các cấu trúc xã hội
mới bằng phương pháp này.
Mặt khác, các cấu trúc vật lí có thể được giải thích đơn thuần như các “hình trạng-
constellation”, các nhà lịch sử chủ nghĩa khăng khăng, hoặc như tổng đơn thuần của các thành phần của chúng, cùng với cấu hình hình học của chúng. Thí dụ, xét hệ mặt trời; mặc dù có thể lí thú đi nghiên cứu lịch sử của nó, và dẫu cho việc nghiên cứu này có thể soi sáng hiện trạng của nó, chúng ta biết rằng, theo một nghĩa nào đó, trạng thái này độc lập với lịch sử của hệ thống. Cấu trúc của hệ thống, chuyển động và diễn tiến tương lai của nó, hoàn toàn được xác định bởi hình trạng hiện tại của các thành viên của nó. Căn cứ vào vị trí tương đối, khối lượng, và
moment của các thành viên của nó ở bất kể thời điểm nào, chuyển động tương lai của hệ thống là hoàn toàn xác định. Chúng ta chẳng cần thêm tri thức như hành tinh nào già hơn, hoặc hành tinh nào được đưa tới từ bên ngoài: Lịch sử của cấu trúc, mặc dù có thể lí thú, chẳng tạo thành cái gì cho sự hiểu biết của chúng ta về hành vi của nó, về cơ chế của nó, và về diễn tiến tương lai của nó. Hiển nhiên là một cấu trúc vật lí khác xa bất kể cấu trúc xã hội nào ở khía cạnh này; cấu trúc xã hội không thể được hiểu, cũng chẳng thể tiên đoán tương lai của nó, nếu như không nghiên cứu cẩn thận lịch sử của nó, cho dù chúng ta có đầy đủ tri thức về “hình trạng” nhất thời của nó.
Những cân nhắc như vậy gợi ý mạnh mẽ rằng: Có một mối liên hệ mật thiết giữa chủ nghĩa lịch sử và cái gọi là
lí thuyết sinh học hay hữu cơ của các cấu trúc xã hội - lí thuyết lí giải các nhóm xã hội bằng sự tương tự với các cơ thể sống. Thật vậy, chỉnh thể luận được cho là mang đặc trưng của các hiện tượng sinh học nói chung, và cách tiếp cận chỉnh thể được coi là không thể thiếu được trong việc xem xét lịch sử của các sinh vật ảnh hưởng ra sao đến hành vi của chúng. Các lí lẽ chỉnh thể của chủ nghĩa lịch sử như thế thích hợp để nhấn mạnh sự giống nhau giữa các nhóm xã hội và các sinh vật, mặc dù chúng không nhất thiết dẫn đến sự chấp nhận lí thuyết sinh học của các cấu trúc xã hội. Tương tự, lí thuyết nổi tiếng về sự tồn tại của
tinh thần nhóm, như vật mang
các truyền thống nhóm, mặc dù bản thân nó không nhất thiết là một phần của lí lẽ chỉnh thể, nó liên quan mật thiết với quan điểm chỉnh thể.
Mục 8: Sự hiểu biết trực giác
Cho đến nay, chúng ta chủ yếu đề cập đến các khía cạnh đặc trưng nào đó của cuộc sống xã hội, như tính mới, tính phức tạp, tính hữu cơ, tính chỉnh thể, và cách mà lịch sử của nó chia thành các giai đoạn; các khía cạnh mà, theo chủ nghĩa lịch sử, làm cho các phương pháp điển hình nào đó của vật lí học không thể áp dụng được cho khoa học xã hội. Một phương pháp tiếp cận lịch sử hơn, vì vậy, được coi là cần thiết trong nghiên cứu xã hội. Nó là một phần của quan điểm phản tự nhiên của chủ nghĩa lịch sử mà chúng ta phải cố hiểu lịch sử của các nhóm xã hội khác nhau một cách trực giác, và quan điểm này, đôi khi được phát triển thành học thuyết phương pháp luận, rất gần gũi với chủ nghĩa lịch sử, mặc dù không kết hợp với nó một cách bất biến.
Đó là học thuyết cho rằng: Phương pháp riêng của khoa học xã hội, ngược lại với phương pháp của khoa học tự nhiên, dựa vào sự hiểu biết bản chất các hiện tượng xã hội. Những sự đối lập và trái ngược sau thường được nhấn mạnh liên quan đến học thuyết này. Vật lí học hướng tới sự giải thích nhân quả: Xã hội học nhắm tới sự hiểu biết mục đích và ý nghĩa. Trong vật lí học, các sự kiện được giải thích một cách nghiêm ngặt và định lượng, với sự giúp đỡ của các công thức toán học. Xã hội học cố hiểu diễn tiến lịch sử ở dạng định tính hơn, thí dụ, ở dạng các xu hướng và mục tiêu xung đột nhau, hoặc bằng “tính cách dân tộc” hay “tinh thần thời đại”. Ðiều này giải thích vì sao vật lí học hoạt động với sự khái quát hoá quy nạp còn xã hội học chỉ có thể hoạt động với sự giúp đỡ của sự tưởng tượng giao cảm. Và đó cũng là lí do vì sao vật lí học có thể dẫn đến những đồng đều có hiệu lực phổ quát, còn xã hội học phải thoả mãn với sự hiểu biết trực giác các sự kiện đơn nhất, và vai trò mà chúng đóng trong các tình huống cá biệt, xảy ra trong khuôn khổ các cuộc tranh đấu riêng của các lợi ích, các xu hướng, và các số phận.
Tôi kiến nghị phân biệt giữa ba biến thể khác nhau của học thuyết về hiểu biết trực giác. Biến thể thứ nhất khẳng định rằng: Một sự kiện xã hội được hiểu khi được phân tích bằng các lực lượng gây ra nó, tức là khi biết các cá nhân và nhóm dính líu, các mục đích và lợi ích của họ, và quyền lực mà họ có thể sử dụng. Các hành động của các cá nhân hoặc nhóm ở đây được hiểu như phù hợp với mục đích của họ - như thúc đẩy lợi thế thực tế của họ hoặc, chí ít, lợi thế tưởng tượng của họ. Phương pháp xã hội học ở đây được nghĩ như một sự tái tạo mang tính tưởng tượng của các hoạt động hoặc duy lí hoặc phi lí, hướng tới các mục đích nhất định.
Biến thể thứ hai đi xa hơn. Nó thừa nhận rằng: Một phân tích như vậy là cần thiết, đặc biệt liên quan đến sự hiểu biết các hoạt động cá nhân hay các hành động nhóm. Nhưng nó cho rằng: Cần nhiều hơn để hiểu đời sống xã hội. Nếu chúng ta muốn hiểu ý nghĩa của một sự kiện xã hội, thí dụ một hành động chính trị nào đó, thì không đủ để hiểu, theo mục đích luận, nó được dẫn đến thế nào và vì sao. Ngoài ra, chúng ta phải hiểu ý nghĩa của nó, tầm quan trọng của sự xuất hiện của nó. Ở đây “ý nghĩa” và “tầm quan trọng” có ý nghĩa gì? Nhìn từ quan điểm tôi mô tả như biến thể thứ hai, câu trả lời sẽ là: Một sự kiện xã hội không chỉ có những ảnh hưởng nào đó, nó không chỉ dẫn, theo thời gian, đến các sự kiện khác, mà chính sự tồn tại của nó làm thay đổi giá trị tình thế của một dải rộng các sự kiện khác. Nó tạo ra một tình huống mới, đòi hỏi một sự tái-định hướng và tái-diễn giải mọi đối tượng và mọi hoạt động trong lĩnh vực cá biệt đó. Để hiểu một sự kiện như vậy, thí dụ, việc tạo ra một quân đội mới ở một nước nào đó, cần phải phân tích các ý định, lợi ích, và v.v. Nhưng chúng ta không thể hiểu đầy đủ ý nghĩa hoặc tầm quan trọng của hành động này mà không phân tích cả giá trị tình thế của nó; thí dụ, các lực lượng quân sự của nước khác, đã hoàn toàn đủ cho việc bảo vệ nó cho tới thời điểm đó, bây giờ có thể trở nên hoàn toàn không thoả đáng. Tóm lại, toàn bộ
tình thế xã hội có thể đã thay đổi, ngay cả trước bất kể những thay đổi thực sự thêm nào đã xảy ra, cả về mặt vật chất hay tâm lí; vì tình thế có thể đã thay đổi từ lâu trước khi bất kì ai nhận ra sự thay đổi. Như vậy, để hiểu đời sống xã hội, chúng ta phải đi quá phân tích thuần tuý về các nguyên nhân và kết quả thực sự, tức là phân tích về các động cơ, lợi ích, và phản ứng do các hành động gây ra: chúng ta phải hiểu mọi sự kiện như biểu diễn một phần đặc trưng nào đó trong cái toàn thể. Sự kiện có được tầm quan trọng của nó từ ảnh hưởng mà nó có trên cái toàn thể, và tầm quan trọng của nó, một phần được xác định bởi cái toàn thể.
Biến thể thứ ba của học thuyết hiểu biết trực giác còn đi xa hơn nữa, trong khi chấp nhận mọi thứ của biến thể thứ nhất và thứ hai. Nó cho rằng: Ðể hiểu ý nghĩa hay tầm quan trọng của một sự kiện xã hội, cần nhiều hơn sự phân tích về căn nguyên, kết quả, và giá trị tình thế của nó. Ngoài một nghiên cứu như vậy ra, cần phải phân tích các xu hướng và xu thế lịch sử cơ sở, khách quan (như sự phát triển hay suy thoái của các truyền thống hay thế lực nào đó) thịnh hành tại giai đoạn đang bàn, và phân tích sự đóng góp của sự kiện đó đối với quá trình lịch sử, theo đó, các xu thế như vậy bộc lộ. Một sự hiểu biết đầy đủ về Vụ Dreyfus
[1] , thí dụ, ngoài một phân tích về căn nguyên, kết quả, và giá trị tình thế của nó ra, còn cần đến sự thấu hiểu sự thực rằng nó biểu hiện sự tranh giành giữa hai xu hướng lịch sử trong sự phát triển của Cộng hoà Pháp, dân chủ và chuyên quyền, tiến bộ và phản động.
Biến thể thứ ba này của phương pháp hiểu biết trực giác, với việc nhấn mạnh đến các xu hướng hay khuynh hướng, là một lập trường gợi ý ở mức độ nào đó đến việc áp dụng
suy diễn bằng tương tự từ một giai đoạn lịch sử này sang giai đoạn khác. Vì, mặc dù nó hoàn toàn công nhận rằng: Các giai đoạn lịch sử là khác nhau về bản chất, và rằng: Không sự kiện nào có thể thực sự tự lặp lại trong một giai đoạn khác của tiến triển xã hội, nó có thể thừa nhận rằng: Các xu hướng tương tự có thể trở nên chi phối trong các giai đoạn khác nhau, các giai đoạn, có lẽ, rất xa nhau. Những sự giống nhau hay tương tự như vậy được cho là đã có, thí dụ, giữa Hi Lạp trước Alexander và Nam Đức trước Bismarck. Phương pháp hiểu biết trực giác, trong các trường hợp như vậy, gợi ý rằng, chúng ta phải đánh giá ý nghĩa của các sự kiện nào đó bằng việc so sánh chúng với các sự kiện tương tự trong các giai đoạn trước, sao cho có thể giúp chúng ta tiên đoán những tiến triển mới - không bao giờ quên, tuy vậy, rằng những khác biệt không thể tránh khỏi giữa hai giai đoạn phải được tính đến một cách thích đáng.
Do đó, chúng ta thấy rằng: Một phương pháp có khả năng hiểu ý nghĩa của các sự kiện xã hội phải đi khá xa sự giải thích nhân quả. Nó phải mang tính chỉnh thể; nó phải hướng tới sự xác định vai trò do sự kiện ấy đóng trong phạm vi một cấu trúc phức tạp - trong cái toàn thể bao hàm không chỉ các thành phần đương thời mà cả các giai đoạn kế tiếp nhau của diễn tiến thời gian. Điều này có thể giải thích, vì sao biến thể thứ ba của phương pháp hiểu biết trực giác hay dựa vào sự tương tự giữa một sinh vật và một nhóm, và vì sao nó hay hoạt động với các ý tưởng như ý tưởng về một tâm trí hay tinh thần của một thời đại, nguồn và giám thị của tất cả các xu hướng hay khuynh hướng lịch sử đó, những cái đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định ý nghĩa của các sự kiện xã hội.
Nhưng phương pháp hiểu biết trực giác không chỉ hợp với các ý tưởng của chỉnh thể luận. Nó cũng rất phù hợp với việc nhà lịch sử chủ nghĩa nhấn mạnh về tính mới; vì tính mới không thể được giải thích một cách nhân quả hay duy lí, mà chỉ có thể lĩnh hội được một cách trực giác. Sẽ thấy, hơn thế nữa, trong cuộc thảo luận về các học thuyết theo tự nhiên của chủ nghĩa lịch sử, rằng có mối quan hệ rất mật thiết giữa chúng và “biến thể thứ ba” của chúng ta về phương pháp hiểu biết trực giác, với sự nhấn mạnh của nó lên các xu hướng hay khuynh hướng lịch sử. (Xem, thí dụ, mục 16).
Mục 9: Các phương pháp định lượng
Giữa những đối lập và trái ngược thường được nhấn mạnh, có liên quan đến học thuyết hiểu biết trực giác, các nhà lịch sử chủ nghĩa thường nhấn mạnh điểm sau. Trong vật lí học, họ nói, các sự kiện được giải thích nghiêm ngặt và chính xác, ở dạng định lượng, với sự giúp đỡ của các công thức toán học. Xã hội học, mặt khác, cố gắng hiểu sự tiến triển lịch sử ở dạng định tính hơn; thí dụ, ở dạng các xu hướng và mục đích xung khắc nhau.
Lí lẽ chống lại tính có thể dùng các phương pháp định lượng và toán học hoàn toàn không lạ kì đối với các nhà lịch sử chủ nghĩa; và, thực vậy, các phương pháp như vậy đôi khi bị ngay cả các tác giả, với các quan điểm chống lịch sử chủ nghĩa mạnh mẽ, bác bỏ. Nhưng một số lí lẽ có sức thuyết phục nhất chống lại các phương pháp định lượng và toán học làm nổi bật rất rõ quan điểm mà tôi gọi là chủ nghĩa lịch sử, và các lí lẽ này sẽ được thảo luận ở đây.
Khi chúng ta xem xét sự phản đối sử dụng các phương pháp định lượng và toán học trong xã hội học, một sự phản đối mạnh mẽ phải hiện ngay ra với chúng ta: Thái độ này có vẻ như mâu thuẫn với sự thực là các phương pháp định lượng và toán học thực sự được dùng rất thành công trong một số khoa học xã hội. Đối diện với điều này, làm sao có thể từ chối rằng chúng có thể áp dụng được?
Chống lại sự phản đối này, sự đối lập với quan điểm định lượng và toán học có thể được giữ vững bởi một số lí lẽ đặc trưng cho cách tư duy chỉnh thể.
Tôi hoàn toàn đồng ý với các nhận xét của bạn, nhà lịch sử chủ nghĩa có thể nói; song vẫn còn một sự khác biệt to lớn giữa các phương pháp thống kê của các môn khoa học xã hội và các phương pháp định lượng toán học của vật lí học. Các môn khoa học xã hội chẳng biết cái gì có thể so với
các định luật nhân quả của vật lí học được trình bày bằng toán học.
Xét, thí dụ, định luật vật lí cho rằng (với ánh sáng có bất kể bước sóng nào) độ mở (độ rộng của khe hở), qua đó một tia sáng xuyên qua, càng nhỏ thì góc khúc xạ càng lớn. Một quy luật vật lí loại này có dạng: “Dưới các điều kiện nhất định, nếu độ lớn A biến đổi theo một cách nào đó, thì độ lớn B cũng thay đổi theo một cách có thể dự đoán được nào đó”. Nói cách khác, một quy luật như vậy bày tỏ sự phụ thuộc của một đại lượng có thể đo được vào một đại lượng khác, và cách theo đó, một đại lượng phụ thuộc vào đại lượng khác được trình bày ở dạng định lượng chính xác. Vật lí học đã thành công trong việc biểu diễn mọi định luật của nó ở dạng này. Để đạt điều này, nhiệm vụ đầu tiên của nó là biến tất cả các tính chất vật lí thành các khái niệm định lượng. Thí dụ, nó đã thay thế việc mô tả định tính của một loại ánh sáng nào đó - thí dụ, ánh sáng xanh vàng chói - bằng một mô tả định lượng: Ánh sáng có bước sóng nào đó và cường độ nào đó. Một quá trình mô tả định lượng các đại lượng vật lí hiển nhiên là điều kiện tiên quyết cần thiết cho việc trình bày các quy luật vật lí nhân quả một cách định lượng. Những điều này cho phép chúng ta giải thích vì sao cái gì đó đã xảy ra; thí dụ, dưới giả thiết của định luật liên quan đến độ rộng của khe hở và góc khúc xạ, chúng ta có thể đưa ra một giải thích nhân quả của việc tăng góc khúc xạ bằng sự thực là độ mở đã giảm.
Giải thích nhân quả, nhà lịch sử chủ nghĩa kiên định, cũng phải được thử với các môn khoa học xã hội. Họ có thể, thí dụ, nhận giải thích chủ nghĩa đế quốc bằng sự bành trướng công nghiệp. Nhưng, nếu xem xét thí dụ này, chúng ta thấy ngay rằng: thật vô vọng khi đi thử biểu diễn các quy luật xã hội học bằng các khái niệm định lượng. Vì nếu xem xét cách phát biểu nào đó như thế, như “xu hướng bành trướng lãnh thổ tăng lên với cường độ công nghiệp hoá” (một cách trình bày chí ít là dễ hiểu, mặc dù có lẽ
không phải là một mô tả đúng của sự thực), chúng ta sẽ mau chóng thấy rằng: Chúng ta không có bất kể phương pháp nào để có thể đo xu hướng bành trướng, hoặc cường độ công nghiệp hoá.
Tổng kết lại lí lẽ lịch sử chủ nghĩa chống lại các phương pháp định lượng-toán học, đó là nhiệm vụ của nhà xã hội học để đưa ra giải thích nhân quả của những thay đổi đã trải qua, trong tiến trình lịch sử, bằng các đại lượng xã hội, thí dụ, như các quốc gia, các hệ thống kinh tế, hay các hình thức chính phủ. Vì không có cách nào để biểu diễn chất lượng của các đại lượng này bằng các khái niệm định lượng, không định luật định lượng nào có thể được trình bày. Như thế, các quy luật nhân quả của các môn khoa học xã hội, nếu giả như là có, thì phải khác xa về mặt đặc tính với các định luật vật lí, và mang tính định tính hơn là định lượng và toán học. Nếu các quy luật xã hội xác định mức độ của bất kể thứ gì, thì chúng sẽ chỉ làm vậy bằng những khái niệm rất mơ hồ, và sẽ cho phép, nhiều nhất, một thang độ rất thô.
Dường như chất lượng - bất luận vật lí hay phi vật lí - chỉ có thể được đánh giá bằng trực giác. Các lí lẽ mà chúng ta thảo luận ở đây, vì thế, có thể dùng để hỗ trợ các lí lẽ được đưa ra để ủng hộ phương pháp hiểu biết trực giác.
Mục 10: Bản chất luận (Essentialism) đối lại Thuyết duy danh (Nominalism)
Sự nhấn mạnh tính chất định tính của các sự kiện xã hội dẫn thêm đến vấn đề địa vị của các khái niệm biểu thị chất lượng: Ðến cái gọi là
vấn đề về cái chung (problem of universals), một trong những vấn đề cổ nhất và căn bản nhất của triết học.
Vấn đề này, mà một cuộc chiến lớn về nó đã diễn ra ác liệt suốt Thời Trung cổ, có gốc rễ trong triết học của Plato và Aristotle. Nó thường được diễn giải như một vấn đề thuần tuý siêu hình học; nhưng, giống như hầu hết các vấn đề siêu hình học, nó có thể được trình bày lại để trở thành một vấn đề về phương pháp khoa học. Chúng ta sẽ chỉ đề cập đến vấn đề phương pháp luận ở đây, đưa ra một phác thảo ngắn gọn về vấn đề siêu hình học qua một đoạn dẫn nhập.
Mọi khoa học đều dùng các thuật ngữ gọi là các thuật ngữ chung (khái niệm chung), như “năng lượng”, “tốc độ”, “các bon”, “độ trắng”, “tiến hoá”, “công lí”, “quốc gia”, “nhân loại”. Các thuật ngữ này khác biệt với loại từ mà chúng ta gọi là các từ độc nhất hay các khái niệm riêng như “Alexander Đại đế”, “Sao chổi Halley”, “Chiến tranh Thế giới lần Thứ nhất”. Những thuật ngữ như thế này là các tên riêng, các nhãn gắn cho các sự vật riêng biệt được biểu thị bởi chúng theo quy ước.
Về bản chất của các từ chung, đã có sự bàn cãi lâu đời và đôi khi nổ ra dữ dội giữa hai phe. Một phe cho rằng các từ chung, khác các tên riêng chỉ do được gắn với các thành viên của một
tập (hợp) hay
một
lớp của các thứ đơn lẻ, hơn là gắn với chỉ một thứ đơn lẻ. Thí dụ, từ chung “trắng” đối với phe này chẳng là gì khác mà là một cái nhãn gắn cho một tập hợp của nhiều thứ khác nhau - thí dụ như bông tuyết, khăn trải bàn, và thiên nga. Đây là học thuyết của phe
duy danh (nominalist). Đối lập với nó là một học thuyết theo truyền thống được gọi là “
thuyết duy thực” (
realism) - một cái tên hơi gây nhầm lẫn, vì lí thuyết “duy thực” này đã cũng được gọi là “duy tâm”. Vì vậy, tôi kiến nghị đổi lại tên lí thuyết phản tự nhiên này thành
bản chất luận (essentialism). Các nhà bản chất luận phủ nhận việc: Ðầu tiên, chúng ta gom một nhóm các thứ riêng biệt lại và gắn nhãn “trắng” cho chúng; đúng hơn, họ nói, chúng ta gọi mỗi thứ đơn lẻ là “trắng” vì một tính chất nội tại nào đó mà nó chia sẻ với các thứ trắng khác, cụ thể là “màu trắng”. Tính chất này, biểu hiện bằng từ chung, được coi như một đối tượng đáng được nghiên cứu hệt như bản thân các sự vật riêng lẻ. (Tên “duy thực luận” xuất xứ từ sự khẳng định là các đối tượng chung, thí dụ, sắc trắng, “thực sự” tồn tại, ngoài các sự vật riêng lẻ và các tập hay nhóm của các sự vật riêng lẻ). Như thế, các từ chung được cho là để biểu thị các đối tượng chung, hệt như các từ riêng biểu thị các thứ riêng lẻ. Các đối tượng chung này (Plato gọi là “Hình thức” hay “Ý niệm”) được chỉ rõ bằng các từ chung, cũng được gọi là “bản chất”.
Song duy thực luận không chỉ tin vào sự tồn tại của các thứ chung (các đối tượng chung), nó cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của chúng với khoa học. Nó chỉ ra, các đối tượng riêng bày tỏ nhiều đặc tính phụ, các đặc tính không quan trọng gì cho khoa học. Để lấy một thí dụ từ các môn khoa học xã hội: Kinh tế học quan tâm đến tiền và tín dụng, song nó không để ý đến hình thù cá biệt của các đồng tiền, giấy bạc hay séc. Khoa học phải lột đi cái phụ và thấu hiểu cái bản chất của các sự vật. Nhưng bản chất của bất kể thứ gì luôn luôn là cái gì đó chung.
Những nhận xét cuối này biểu thị một số hệ luỵ phương pháp luận của vấn đề siêu hình học này. Tuy vậy, vấn đề phương pháp luận mà tôi sắp thảo luận, thực ra có thể được xem xét độc lập với vấn đề siêu hình học. Chúng ta sẽ tiếp cận nó theo con đường khác - một cách tránh vấn đề về sự tồn tại của các đối tượng chung và riêng, và về sự khác biệt của chúng. Chúng ta sẽ chỉ thảo luận các mục đích và phương tiện của khoa học.
Trường phái của các nhà tư tưởng mà tôi kiến nghị gọi là
các nhà bản chất luận phương pháp được sáng lập bởi Aristotle, người chủ trương là nghiên cứu khoa học phải đi sâu vào bản chất của các sự vật nhằm giải thích chúng. Các nhà bản chất luận phương pháp có thiên hướng trình bày các vấn đề khoa học dưới dạng như “vật chất là gì?” hay “lực là gì?” hay “công bằng là gì?” và họ tin rằng: Một câu trả lời thấu đáo cho các câu hỏi như vậy, bộc lộ ý nghĩa thực sự hay bản chất của các khái niệm này và vì vậy bộc lộ bản tính thực hay đúng của các bản chất biểu hiện bởi chúng, ít nhất là điều kiện tiên quyết, nếu không phải là nhiệm vụ chủ yếu, của việc nghiên cứu khoa học.
Các nhà duy danh luận phương pháp, tương phản với điều này, sẽ đặt các vấn đề của họ dưới dạng như “miếng vật chất này ứng xử ra sao?” hay “nó chuyển động thế nào trong sự hiện diện của các vật thể khác?” Vì các nhà duy danh luận phương pháp cho rằng nhiệm vụ của khoa học chỉ là mô tả các sự vật ứng xử ra sao, và gợi ý rằng: Ðiều này phải được tiến hành một cách tự do, bằng cách đưa ra các thuật ngữ mới nơi cần thiết, hoặc bằng việc định nghĩa lại các thuật ngữ cũ nơi thấy thuận lợi, trong khi vui vẻ bỏ qua ý nghĩa ban đầu của chúng. Vì họ coi
các từ chỉ là
các công cụ hữu ích để mô tả.
Hầu hết mọi người đều thừa nhận rằng: Thuyết duy danh phương pháp luận đã chiến thắng trong các môn khoa học tự nhiên. Vật lí học, thí dụ, không thẩm tra bản chất của nguyên tử hay ánh sáng, mà nó dùng các thuật ngữ này với độ tự do cao để giải thích và mô tả các quan sát vật lí nào đó, và cũng như tên của các cấu trúc vật lí quan trọng và phức tạp nào đó. Với sinh học cũng vậy. Các nhà triết học có thể đòi hỏi từ các nhà sinh học lời giải của các vấn đề như “cuộc sống là gì?” hay “tiến hoá là gì?” và đôi khi một số nhà sinh học có thể cảm thấy có ý thích thoả mãn các đòi hỏi như vậy. Tuy nhiên, khoa học sinh học giải quyết tổng quát các vấn đề khác, và chấp nhận các phương pháp giải thích và mô tả rất giống các phương pháp dùng trong vật lí học.
Như thế, trong các môn khoa học xã hội, chúng ta trông đợi các nhà phương pháp theo tự nhiên ủng hộ thuyết duy danh, còn các nhà phương pháp phản tự nhiên ủng hộ bản chất luận. Thế mà thực ra, bản chất luận dường như thắng thế ở đây; và nó thậm chí không đối mặt với bất kể sự phản đối rất mãnh liệt nào. Cho nên được gợi ý rằng:
Trong khi các phương pháp của khoa học tự nhiên căn bản là duy danh, khoa học xã hội phải theo phương pháp bản chất luận.
[2] Người ta lí luận rằng: Nhiệm vụ của khoa học xã hội là hiểu và giải thích các thực thể xã hội học như nhà nước, hoạt động kinh tế, nhóm xã hội, v.v., và rằng điều này chỉ có thể được tiến hành bằng sự thấu hiểu bản chất của chúng. Mỗi thực thể xã hội học quan trọng giả định trước các thuật ngữ chung cho sự mô tả nó và sẽ vô nghĩa khi đưa ra các thuật ngữ mới một cách tự do, như được làm rất thành công trong các môn khoa học tự nhiên. Nhiệm vụ của khoa học xã hội là mô tả các thực thể như vậy một cách rõ ràng và đúng đắn, tức là, để phân biệt cái bản chất khỏi cái tình cờ, cái phụ; nhưng điều này đòi hỏi tri thức về bản chất của chúng. Các vấn đề như “Nhà nước là gì?”; và “công dân là gì?” (được Aristotle coi là các vấn đề cơ bản của cuốn
Politics [Chính trị học] của ông), hoặc “tín dụng là gì?” hay “sự khác biệt căn bản giữa linh mục và người theo môn phái (hay nhà thờ và môn phái) là gì?” không chỉ là hoàn toàn chính đáng, mà chính xác là loại vấn đề mà các lí thuyết xã hội học được thiết kế để trả lời.
Mặc dù các nhà lịch sử chủ nghĩa có thể khác nhau về thái độ của họ đối với vấn đề siêu hình học, và về ý kiến của họ liên quan đến phương pháp luận của khoa học tự nhiên, rõ ràng là họ sẽ có thiên hướng đứng về phía bản chất luận và chống thuyết duy danh trong chừng mực liên quan đến phương pháp luận của khoa học xã hội. Thực vậy, gần như mọi nhà lịch sử chủ nghĩa mà tôi biết đều có thái độ này. Nhưng đáng xem xét, liệu có phải chỉ xu hướng phản tự nhiên của chủ nghĩa lịch sử giải thích cho điều này, hay liệu có bất kể lí lẽ lịch sử chủ nghĩa đặc thù nào cũng có thể thúc giục việc ủng hộ bản chất luận phương pháp hay không.
Đầu tiên, rõ ràng là lí lẽ chống lại việc dùng các phương pháp định lượng trong khoa học xã hội có liên quan đến vấn đề này. Sự nhấn mạnh đến tính chất định tính của các sự kiện xã hội, cùng với sự nhấn mạnh đến hiểu biết trực giác (ngược với mô tả thuần tuý), biểu lộ một thái độ liên quan mật thiết với bản chất luận.
Nhưng có các lí lẽ khác, điển hình hơn của chủ nghĩa lịch sử, theo một khuynh hướng tư tưởng mà bây giờ là quen thuộc đối với bạn đọc. (Tình cờ, chúng hầu như là cùng các lí lẽ, theo Aristotle, đã dẫn Plato đi phát triển lí thuyết đầu tiên về bản chất).
Chủ nghĩa lịch sử nhấn mạnh tầm quan trọng của thay đổi. Bây giờ, trong mọi sự thay đổi, nhà lịch sử chủ nghĩa có thể lí luận, phải có cái gì đó thay đổi. Cho dù chẳng có gì là không thay đổi, chúng ta phải có khả năng nhận diện ra cái đã thay đổi để có thể nói về sự thay đổi nói chung. Điều này là tương đối dễ trong vật lí học. Trong cơ học, thí dụ, mọi sự thay đổi đều là chuyển động, tức là những thay đổi về không-thời gian, của các vật thể vật lí. Nhưng xã hội học, chủ yếu quan tâm đến các định chế xã hội, đối mặt với những khó khăn lớn hơn, vì các định chế như vậy là không dễ nhận diện sau khi chúng đã trải qua sự thay đổi. Theo ý nghĩa mô tả đơn thuần, không có khả năng coi một định chế xã hội
trước một sự thay đổi là cùng như định chế đó
sau sự thay đổi; nó có thể, từ quan điểm mô tả, là hoàn toàn khác nhau. Một mô tả theo tự nhiên của các định chế chính phủ đương thời ở Vương quốc Anh, thí dụ, có thể phải trình bày chúng hoàn toàn khác cái mà chúng đã là bốn thế kỉ trước. Thế mà chúng ta có thể nói, trong chừng mực có một
chính phủ, nó
về bản chất là như nhau, cho dù nó có thể đã thay đổi một cách đáng kể. Chức năng của nó trong xã hội hiện đại
về bản chất tương tự như chức năng nó đã thoả mãn khi đó. Mặc dù hầu như chẳng có đặc tính đáng muốn nào còn như cũ, nét riêng biệt
bản chất của định chế được duy trì, cho phép chúng ta coi một định chế như một dạng được thay đổi của cái kia: Chúng ta không thể nói, trong các môn khoa học xã hội, về những thay đổi hay tiến triển mà không giả định trước một bản chất không thay đổi, và vì thế mà không tiến hành phù hợp với bản chất luận phương pháp.
Tất nhiên, rõ ràng là một số thuật ngữ xã hội học, như suy thoái, lạm phát, thiểu phát, v.v., ban đầu được đưa ra theo phong cách duy danh thuần tuý. Nhưng dù có đúng như thế, chúng không giữ lại đặc tính duy danh của chúng. Khi điều kiện thay đổi, chúng ta mau chóng thấy các nhà khoa học xã hội không đồng ý về việc: Liệu các hiện tượng nào đó thật sự là lạm phát hay không; như thế, vì sự chính xác có thể trở nên cần thiết để điều tra nghiên cứu bản tính căn bản (hay ý nghĩa thực chất) của lạm phát.
Vì thế, có thể nói về bất kể thực thể xã hội nào, rằng: Nó “có thể, trong chừng mực liên quan đến
bản chất của nó, có mặt ở bất kể chỗ nào khác và dưới bất kể hình thức nào khác, và có thể cũng như thế thay đổi trong khi thực ra vẫn không thay đổi, hoặc thay đổi khác hơn cách mà nó thực sự thay đổi” (Husserl). Mức độ của những thay đổi khả dĩ không thể bị hạn chế
a priori (một cách tiên nghiệm). Không thể biết: Một thực thể xã hội có thể cưỡng lại loại thay đổi nào mà vẫn giữ được nguyên trạng. Các hiện tượng mà theo các lập trường nào đấy có thể khác nhau một cách bản chất, lại có thể về bản chất như nhau theo các lập trường khác.
Từ các lí lẽ lịch sử chủ nghĩa được phát triển ở trên, suy ra rằng: Một sự mô tả trần trụi các diễn tiến xã hội là không thể; hay đúng hơn, rằng: Một mô tả xã hội học chẳng bao giờ có thể đơn thuần là một mô tả theo nghĩa duy danh. Và nếu mô tả xã hội học không thể không cần đến bản chất, một lí thuyết về phát triển xã hội sẽ thậm chí ít có khả năng như vậy hơn. Vì ai dám từ chối, rằng các vấn đề như xác định và giải thích các nét đặc trưng của một giai đoạn xã hội nào đó, cùng với những căng thẳng và xu hướng nội tại và khuynh hướng của nó, chắc hẳn thách đố mọi nỗ lực để áp dụng các phương pháp duy danh?
Bản chất luận về phương pháp, do đó, có thể dựa vào lí lẽ lịch sử chủ nghĩa, mà thực tế đã dẫn Plato đến bản chất luận siêu hình học của ông, lí lẽ của Heraclite cho rằng, những thứ thay đổi thách đố mô tả duy lí. Cho nên khoa học hay tri thức giả thiết trước một cái gì đó không thay đổi mà vẫn y hệt như bản thân nó - một bản chất.
Lịch sử, tức là mô tả sự thay đổi, và
bản chất, tức là cái vẫn không thay đổi trong lúc sự thay đổi diễn ra, hiện ra ở đây như các khái niệm tương quan. Nhưng tương quan này còn có mặt khác của nó: Theo một nghĩa nào đó, bản chất cũng giả thiết trước sự thay đổi, và do đó, giả thiết trước lịch sử. Vì nếu nguyên lí đó về một thứ vẫn còn y nguyên hay không thay đổi khi sự vật thay đổi là bản chất (hay tư tưởng, hay hình thức, hay bản tính, hay thực chất) của nó, thì những thay đổi mà sự vật trải qua làm sáng tỏ các mặt hay các khía cạnh hay các khả năng khác nhau của sự vật và vì vậy của bản chất của nó. Bản chất, vì vậy, có thể được diễn giải như tổng hay nguồn của các khả năng vốn có trong sự vật, và những sự thay đổi (hay chuyển động) có thể được diễn giải như sự thực hiện hay sự hiện thực hoá các khả năng tiềm ẩn của bản chất của nó. (Lí thuyết này có xuất xứ từ Aristotle). Suy ra rằng một sự vật, tức là bản chất không thay đổi của nó, có thể được biết đến chỉ
thông qua những thay đổi của nó. Nếu, thí dụ, chúng ta muốn khám phá ra, liệu một vật nào đó có phải được làm bằng vàng hay không, chúng ta phải đập nó, hoặc xét nghiệm nó về mặt hoá học, như thế làm thay đổi nó và bằng cách ấy, để lộ ra một số khả năng tiềm ẩn của nó. Theo cùng cách, bản chất của một người - nhân cách của anh ta - chỉ có thể được biết khi nó tự bộc lộ ra trong tiểu sử của anh ta. Áp dụng nguyên lí này vào xã hội học, dẫn chúng ta đến kết luận rằng: Bản chất hay đặc tính thật của một nhóm xã hội có thể tự tiết lộ, và được biết đến, chỉ thông qua lịch sử của nó. Nhưng nếu các nhóm xã hội có thể được biết chỉ qua lịch sử của chúng, thì các khái niệm dùng để mô tả chúng phải là các khái niệm lịch sử; và thực vậy, các khái niệm như
nhà nước Nhật Bản hay
dân tộc Ý hay
dòng giống Aryan hầu như không thể diễn giải như bất kể thứ gì khác mà chỉ như các khái niệm dựa vào sự nghiên cứu lịch sử. Cũng đúng vậy với
các giai cấp xã hội:
Giai cấp tư sản, thí dụ, chỉ có thể được định nghĩa bằng lịch sử của nó: Như giai cấp lên nắm quyền thông qua cách mạng công nghiệp, đẩy các địa chủ ra bên lề, chiến đấu với và bị đánh bại bởi giai cấp vô sản, v. v.
Bản chất luận có thể được đưa vào với lí do: Nó cho phép chúng ta phát hiện ra một sự đồng nhất trong các sự vật thay đổi, nhưng đến lượt nó, nó cung cấp một số lí lẽ hùng mạnh nhất để ủng hộ học thuyết cho rằng: Các môn khoa học xã hội phải chấp nhận phương pháp lịch sử; tức là, ủng hộ học thuyết của chủ nghĩa lịch sử.
© 2004 talawas
[1]Chú thích của dịch giả: Afred Dreyfus, một sĩ quan quân đội Pháp, gốc Do thái, bị kết án làm gián điệp cho Đức cuối thế kỉ thứ mười chín. Nhà văn Émile Zola đã tố cáo việc tạo dựng vụ này.
[2]Xem mục vi của chương 3 của cuốn
Open Society and Its Enemies của tôi, đặc biệt chú thích 30, và mục ii của chương 11.