© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Điểm nóngĐại hội X và cải cách chính trị tại Việt Nam
Loạt bài: Tranh luận về chủ nghÄ©a Marx
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34   35   36   37   38   39   40   41   42   43   44   45   46   47   48   49   50   51   52   53   54   55   56   57   58   59   60   61   62   63   64   65   66   67   68   69   70   71   72   73   74   75   76   77   78   79   80   81   82   83   84   85   86   87   88   89 
11.3.2006
Trần Thiên Ý
Liều thuốc đắng cùng ngọn roi Đông La
 
talawas trong thời gian gần đây đã chọn đăng hàng loạt bài viết tranh luận trên nhiều lĩnh vực, có lẽ cũng là mong tìm câu trả lời cho vấn đề nhức nhối nhất của dân tộc: làm cách nào cho dân ta thực sự làm chủ nước ta, làm thế nào dân chủ hoá hệ thống chính trị Việt Nam nhanh nhất, có kết quả nhất. Đó là những cố gắng hết sức đáng trân trọng. Nhưng có lẽ phải thẳng thắn dám nhìn nhận một sự thật là tác động tích cực của chúng còn rất hạn chế, thậm chí còn phản tác dụng. Các bài viết của Đông La chính là kết quả của sự phản tác dụng ấy.

Chủ nghĩa Mácxít-Lêninnít cùng với hàng loạt chủ nghĩa biến tướng hay lợi dụng chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xã hội khác đã bị nhân loại dứt khoát vứt bỏ. Chủ nghĩa Mác cũng đã được những học giả lừng danh nhất trên toàn thế giới phê phán một cách khách quan, đầy sức thuyết phục và đầy đủ đến nơi đến chốn từ phương pháp luận, cơ sở khoa học, tính khách quan độ tin cậy trong lập luận, cho đến ngôn từ v.v., dưới góc độ một chủ thuyết ý thức hệ lẫn dưới góc độ một công trình khoa học. Tất cả những gì còn lại của chủ nghĩa Mác ngày nay trước hết là tình thương yêu bao la của ông dành cho người cùng khổ - động lực khiến ông viết cuốn Tư bản luận - đó cũng là lý do khiến rất nhiều người vẫn trân trọng Mác và chúng ta cũng nên như vậy. Ngoài ra, những mô tả tài tình của Mác về cơ chế hoạt động sản sinh giá trị thặng dư của chế độ tư bản thời ông sống vẫn làm sửng sốt các nhà nghiên cứu hiện đại. Loài người sẽ không bao giờ quên chủ nghĩa Mác vì những hậu quả khủng khiếp (ngoài ý muốn của Mác) mà nó gây ra cho họ. Loài người cũng sẽ còn nghiên cứu nó trong tương lai để có thể hiểu cơ chế gây ra thảm hoạ từ một ý tưởng tốt là gì để phòng tránh. Chỉ giản dị có vậy thôi!

Trong thời đại truyền thông Internet, toàn cầu hoá ngày nay, ai ai cũng thể đọc trên Internet, tự mình đi tới và trải nghiệm trong các xã hội văn minh dân sự để tin vào những kết luận trên một cách tâm phục khẩu phục. Gán cho chủ nghĩa Mác là nguyên nhân của mọi sai lầm như ở ta hiện nay, tranh cãi về những vấn đề đã từ lâu không còn là vấn đề của nó, quả thực rất vô tích sự và có lẽ không ngoài chủ đích tiếp tục lợi dụng Mác. Thế nhưng không chỉ Đảng Cộng sản mà cả các nhà „dân chủ đối lập“ Việt Nam hình như vẫn cố tình dùng chủ nghĩa Mác như một chiêu bài. Dường như đối với bên này, bảo vệ được chủ nghĩa Mác là bảo vệ được tính chính danh của quyền lực đang có; đối với bên kia, đập nát nó cũng đồng nghĩa với giành được quyền lực. Cuộc tranh luận gay gắt giữa Đông LaLữ Phương thực chất không phải là „cuộc chạm trán gay gắt giữa hai thế lực văn hoá - chính trị tiêu biểu ở nội địa đã âm thầm diễn ra từ lâu“ (Nguyễn Hoà Mai), bởi theo tôi, Đông La không phải là một chiến sĩ của Đảng, một đại diện của thế lực văn hoá chính trị bảo thủ. Anh cũng không phải là một đồng chí của Lữ Phương, của các nhà dân chủ đối lập hay „phong trào dân chủ Việt Nam“. Có lẽ Đông La chỉ giản dị là một nhà phê bình thấy lý luận cùn chẳng tha, thấy phách lối thì ghét, thấy ai cũng im lặng theo đuôi thì tức, thấy tai hại thì chửi vậy thôi.

Trái với truyền thống đấu tranh dân chủ hoá ở các nước Đông Âu cũ, Hàn Quốc, Thái Lan, thậm chí là ở Trung Quốc, những người khơi mào và hạt nhân „phong trào dân chủ Việt Nam“ (chữ của Hoàng Minh Chính) như Trần Độ, Bùi Tín, Hoàng Minh Chính, Lữ Phương, Đặng Quốc Bảo, Trần Khuê v.v. đều chỉ trở thành „nhà bất đồng chính kiến“ khi đã về hưu, bị thất sủng, hay không còn nắm giữ quyền lực trong Đảng và nhà nước nữa. Tất nhiên điều này cũng không nói lên được gì, bởi con người ai mà chẳng có thể phải mất một thời gian rất lâu mới nhận ra sai lầm, ngộ được chân lý. Nhưng tôi chưa một lần thấy ai trong số các vị ấy tỏ ra ăn năn, hối hận - hay thậm chí chỉ là một lời tự phê mình - đối với nhận thức sai lầm, đối với quá khứ hoạt động trong hàng ngũ Đảng Cộng sản của mình. Dường như khi là đảng viên họ là đảng viên tốt - đối lập với phần đảng viên còn lại của Đảng bị tiêm nhiễm cái chủ nghĩa mà họ phê phán khi đã ra khỏi Đảng - khi còn là các ông quan cách mạng họ cũng là những ông quan thanh liêm thương dân, chứ không là các ông quan tham nhũng, lạm quyền của cái chế độ mà họ đang phê phán sau khi hết chức mất quyền? Dường như, đối với các „nhà chống đối“ là cựu cán bộ Đảng Cộng sản thì „cả đời đục cả chỉ mình ta trong“. Tất nhiên, công khai thừa nhận sai lầm một cách trực tiếp là rất khó. Nó đòi hỏi cái Tâm thật sáng, niềm tin và cả sự dũng cảm. Nhưng, dù chỉ là một dấu hiệu gián tiếp cho sự ân hận rất cần thiết để thu phục lòng người của các vị ấy ta cũng không thể tìm thấy. Giá như họ có một đôi dòng đòi chính quyền cũng phải có chính sách xã hội giúp đỡ các thương bệnh binh của quân đội Việt Nam Cộng Hoà bình đẳng như đối với thương bệnh binh cách mạng; có vài dòng về việc lập lại nghĩa trang quân đội cho tử sĩ của quân đội Sài Gòn… thì có lẽ sự hoài nghi cái Tâm của các vị ấy cũng giảm đi rất nhiều. Có ai lớn tiếng đòi công bằng cho bá tánh lại không dám sòng phẳng với bản thân không?

Khởi đầu chỉ là những ý kiến đóng góp - dù là khác với quan điểm chính thống - nhằm giúp Đảng nắm quyền chặt hơn, lâu hơn, chúng trở thành quan điểm có tính chống đối sau khi Đảng không biết trân trọng tiếp thu. Thế nhưng phương pháp và „công nghệ“ tư duy - lý luận từ ý kiến chuyển thành quan điểm chống đối của họ cũng chỉ là phương pháp tư duy - lý luận của Đảng Cộng sản. Vẫn là dùng ý chí thay cho lập luận, trừu tượng hoá để giấu lỗ hổng tri thức, lấy mỹ từ thay cho tư duy logic, vẫn chỉ có ta mới là chân lý (có thể xem các phân tích của Đông La như ví dụ cụ thể). Dường như chỉ cần thay vài danh từ như: „chủ nghĩa xã hội“ bằng „dân chủ-đa nguyên“, „chuyên chính vô sản“ bằng „nhà nước pháp quyền“ v.v. trong hệ thống lý luận của Đảng Cộng sản là đã có ngay „quan điểm chống đối“ của những cán bộ cách mạng không còn được Đảng trọng dụng.

Cái cách thức gây dựng phong trào dân chủ của họ cũng thấm đượm tinh thần cộng sản. Có lẽ chúng ta đều biết ở Việt Nam hiện chỉ có một nhóm vài người cựu quan chức cộng sản bất đồng chính kiến, trong đó có các ông Hoàng Minh Chính, Lữ Phương, Trần Độ (đã mất), Trần Khuê...; một nhóm các nhà khoa học có „tư tưởng chống đối“ với các ông Hà Sĩ Phu, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Kiên Giang, Mai Thái Lĩnh v.v.; và một số trí thức trẻ như Lê Chí Quang, Nguyễn Vũ Bình, Phạm Hồng Sơn… Các nhóm này mặc dù có liên hệ với nhau, nhưng chưa liên kết phối hợp hoạt động. Đặc biệt, hoạt động đòi tự do tôn giáo của Phật giáo, Phật giáo Hoà Hảo, Công giáo, về nguyên tắc và do sự tế nhị trong chính trị - ngoại giao quốc tế hiện tại không thể liên kết với các phong trào chống đối khác. Vậy mà, ông Hoàng Minh Chính đã tuyên bố tại đại học Harvard thế này: „Sự liên kết các tiếng nói đòi tự do dân chủ, tự do tôn giáo, đang thành một phong trào, một mặt trận thống nhất toàn quốc cho Dân Chủ Hoá đất nước. Phong trào dân chủ Việt Nam với người đại diện là giáo sư Trần Khuê đang nỗ lực liên kết các lực lượng dân chủ trong nước và phối hợp với phong trào dân chủ hải ngoại với người đại diện là bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi thành một Phong trào Dân chủ Việt Nam Thống Nhất.“ Ai ở hải ngoại chắc chắn không thể không biết ở đó có hàng trăm tổ chức hoạt động đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam. Nhưng họ chưa và có lẽ cũng không cần thiết liên kết để thành „phong trào dân chủ hải ngoại“. Đảng Cộng sản Việt Nam là bậc thầy tạo dựng thần tượng, thần thánh hoá lãnh tụ. Ông Trần Khuê trước khi nghỉ việc phục vụ Đảng và quân đội để trở thành nhà bất đồng chính kiến vốn là sĩ quan cấp tá quân đội cụ Hồ, chuyên nghiên cứu lịch sử cách mạng. Từ khi ông Hoàng Minh Chính đặt chân đến đại học Harvard danh tiếng, ông Khuê bỗng trở thành Giáo sư Trần Khuê. Năm ngoái tôi được đọc bài viết của ông Giang (tôi quên không nhớ là Thanh Giang hay Kiên Giang) ca tụng Hà Sĩ Phu là người có tướng lãnh tụ vì có tướng ngũ đoản. Dường như „Phong trào dân chủ Việt Nam“ cũng đang bắt đầu quá trình thần thánh hoá lãnh tụ? Vốn là cán bộ cao cấp, có chức có quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, các nhà bất đồng chính kiến như Hoàng Minh Chính, Lữ Phương… bị hoài nghi về chữ Tâm của họ là chuyện không thể tránh khỏi. Tuy vậy, các dấu hiệu về sự hối hận, về phương pháp luận, về sự thành thật được trình bày rất vắn tắt ở trên cho thấy chữ Tâm của họ chưa đủ sáng để ta nhìn rõ niềm tin của họ vào dân chủ. Ngược lại, tấm gương của các vị ấy cùng với các ý kiến mới đây của ông Võ Văn Kiệt, Nguyễn Trung làm ta có thể tin chắc rằng rất nhiều quan chức đương quyền hiểu rất rõ sự phi lý, bất công của chế độ. Họ chỉ chờ đến khi về hưu để được nói ra điều đó.

Tôi có quen một trí thức uyên bác ở Hà Nội. Ông vốn được đào tạo rất bài bản về triết học, kinh tế học tại Paris. Vài năm trước, khi chính thức được đề nghị công khai luận chiến với Hà Sĩ Phu trên báo chí Việt Nam ông đã từ chối với lý do „ người ta có thể dễ dàng chỉ ra sự mâu thuẫn, vô lý và hời hợt trong mỗi trang viết của Hà Sĩ Phu. Nhưng làm điều đó không có lợi mà chỉ có hại“. Ông Hà Sĩ Phu trở thành nhà lý luận nổi tiếng với những bài tiểu luận gây xôn xao dư luận những năm 1988-1995 và được coi là nhà tư tưởng của „phong trào dân chủ Việt Nam“. Những phát hiện của Hà Sĩ Phu về mâu thuẫn và sự vô lý của chủ nghĩa Mác, là những điều ai ai cũng biết ở nước ngoài và nhiều người biết ở Việt Nam. Dũng khí phổ biến điều ai cũng biết mà không dám lên tiếng thật đáng khâm phục. Nhưng dũng khí không thể là trí tuệ, nhất là thứ trí tuệ đỉnh cao cho mọi người dắt tay nhau đi theo. Dũng khí cũng không phải là chuẩn mực cho phép người hùng có quyền đánh giá tầm văn hoá cao thấp của dân tộc. Ông Hà Sĩ Phu kêu gọi xây dựng: „Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội dân chủ“. Sự thật, kinh tế thị trường là một nền kinh tế được định hướng bởi quan hệ cung - cầu tức là chỉ và chỉ được định hướng theo thị trường mà thôi. Thị trường vừa là động lực vừa là cơ chế hiệu chỉnh vừa là đích hướng đến của nền kinh tế thị trường. Khi bị định hướng theo một cái gì đó không phải thị trường thì cái nền kinh tế ấy không còn là kinh tế thị trường nữa. Khi ca tụng Mai Thái Lĩnh trong nhóm của mình, Hà Sĩ Phu nói Mai Thái Lĩnh đã đề nghị một định nghĩa đúng đắn, hợp lý hơn về nhà nước: „Nhà nước là quyền lực công cộng, là nhà nước của toàn dân“. Không phải cứ cái gì đối lập với cái sai đều đương nhiên là đúng. Nhà nước là một đối tượng được nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng trên thế giới. Định nghĩa về nhà nước cũng được giới học giả quốc tế nhất trí từ lâu rồi. Tất nhiên nó khác với quan niệm của Mác và hoàn toàn khác hẳn với định nghĩa của Mai Thái Lĩnh về mọi mặt. Trước hết, xét về hình thức, định nghĩa của Mai Thái Lĩnh không phải là một định nghĩa. Vì định nghĩa một danh từ không thể lấy chính nó để giải nghĩa kiểu „nhà nước là… nhà nước của toàn dân“. Nhà nước cũng không thể là quyền lực. Quyền lực chỉ là một trong những đặc trưng của nhà nước. Quyền lực nhà nước không phải chỉ đơn giản là quyền lực công cộng. Thuộc về công cộng chỉ là một trong những tính chất đặc trưng của quyền lực nhà nước. Theo cái cách của Mai Thái Lĩnh và Hà Sĩ Phu ta có thể định nghĩa thế nào là một cái ô tô như sau: Ô tô là phương tiện giao thông công cộng, là ô tô của chung! Có lẽ tưởng rằng hễ cứ chỉ ra được những sai lầm của Mác thì mình là chân lý, là vĩ đại trong mọi lĩnh vực, nên ông Hà Sĩ Phu đã rất hồn nhiên phán trong rất nhiều lĩnh vực đòi hỏi phải có kiến thức tối thiểu tử tế.

Đọc phần thư mục nghèo nàn mà tác giả Mai Thái Lĩnh, một nhà tư tưởng khác của „Phong trào dân chủ Việt Nam“, dùng viết cuốn Huyền thoại về một nhà nước tự tiêu vong - cuốn sách được Hà Sĩ Phu ca tụng hết lời - tôi thấy tủi vì ranh giới giữa trí thức và nông dân ở ta mong manh quá. Bác nông dân cũng được khen ngợi hết lời vì sản xuất ra máy bay trực thăng đó thôi. Người ta có thể chỉ ra hằng hà sa số sự yếu kém, non nớt, vô lý trong lập luận của các nhà tư tưởng chống đối, mà Đông La cũng chỉ nêu lên phần nào. Chính sự nghèo nàn về kiến thức, yếu kém trong lập luận, đồng thời vẫn sử dụng phương pháp luận không khác gì phương pháp luận của Đảng Cộng sản tự coi mình là chân lý, lấy ý chí thay lập luận thuyết phục, các nhà tư tưởng đối lập đã khiến người ta không tin vào cái Trí của họ. Chưa đủ kiến thức để Tri, chưa có đức khiêm để Trí, thử hỏi làm sao thuyết phục được mọi người tin theo? Dường như các bài viết của họ chỉ là để chứng tỏ mình giỏi hơn người chứ không phải là để bảo vệ niềm tin vào lẽ phải của họ?

Dù không quen biết Đông La, nhưng tôi tin rằng Đông La phải nhảy dựng lên lớn tiếng chửi thề: giời ơi là giời, dễ thế mà cũng không biết cách trả lời, nói thế mà cũng đòi nói v.v. trước khi viết bài hầu chuyện với Lữ Phương, Hà Sĩ Phu… bằng những ngôn từ không mấy lịch sự như thế. Khi thấy một thí sinh trả lời không đạt câu hỏi ai cũng có thể trả lời được trong cuộc thi „Vượt lên đỉnh Olympia“, bạn tiếc lắm chứ. Nếu thí sinh ấy cứ khăng khăng là mình trả lời hoàn hảo, thì bạn phải bực chứ. Rồi không biết người biết ta, thí sinh nọ cứ lại xuất hiện trong các cuộc thi sau, thì bạn ắt phải thấy nguy mà lên tiếng chứ.

Không còn nghi ngờ gì nữa, chắc chắc nước ta sẽ phải được dân chủ hoá tiến tới một thể chế dân chủ - đa nguyên chính trị thực sự. Nhưng, hoàn toàn khác hẳn „cuộc cách mạng giải phóng dân tộc“ của Đảng Cộng sản Việt Nam trước đây, quá trình dân chủ hoá ngày nay thực sự là cuộc cách mạng nhận thức. Nó không thể bùng nổ bằng những kiến thức hạn hẹp, nhận thức mù mờ. Muốn dân tin theo, thì phê phán con đường sai trái đang tồn tại chưa đủ, mà phải chỉ ra được con đường khác tốt hơn. Các nhà tư tưởng đối lập của ta hiện nay vừa không đủ sức thuyết phục, không sắc bén khi phê phán Đảng Cộng sản, vừa hiểu mù mờ về con đường mới - con đường dân chủ xã hội - như thế, thử hỏi mấy ai nén giận được mà không quất cho họ một ngọn roi giúp tỉnh ngộ? Mấy ông thầy bói mù xem voi có thể cãi nhau đến chết về con voi dài như cái cột, hay to như cái quạt… nếu các ông sống giữa đảo hoang. Nhưng nếu họ cãi nhau để mọi người nhìn vào thì hãy coi chừng! Nghe các ông cãi nhau mãi, người ta sẽ đi đến kết luận rằng, thực tế không tồn tại một sinh vật có tên là con voi. Các nhà tư tưởng đối lập, Đảng Cộng sản Việt Nam và cả Đông La nữa, bên ném cát, bên hắt bùn vào nhau làm tối tăm, mù mịt tầm nhìn khiến người dân không nhìn thấy ngay bên cạnh con đường mù mịt mà họ đang lần đi từng bước là một con đường trải nhựa thênh thang của xã hội dân sự văn minh-dân chủ-pháp quyền mà nhân loại tiến bộ đang đi. Làm như vậy là có tội với dân với nước hay không? Mong quí vị tu Tâm rèn Trí để trở thành ngọn gió lành cuốn sạch cát bụi cho dân nhờ được chăng?

Sài Gòn, ngày 05.03.2006

© 2006 talawas