Xã há»™iThể thaoDịch thuáºt20.7.2006
François Weyergans
Tấm thẻ Ä‘á»
T.N. dịch
Lá»i ngá»: Bữa nay Ä‘i mần rảnh rang, tui mò dzô talawas Ä‘á»c vá»› vẩn thì đụng ngay bà i "
Tấm thẻ Ä‘á»" của François Weyergans, bản dịch của Phạm Toà n. Äá»c mấy lần mà cÅ©ng hổng hiểu thiệt sá»± ý tác giả François Weyergans là chi!
Ấm ức và tò mò, tui và o net tìm kiếm một hồi thì ra bà i viết
nguyên tác tiếng Tây ở mục à kiến (Opinion) đăng trong báo
Le Monde số ra ngà y 10 tháng 7, tức 24 tiếng sau tráºn chung kết World Cup. Vì bản dịch của ông Phạm Toà n ‘Tây quá’, lại có và i lá»—i nhá» nữa (nhÆ° dịch sai câu
Ils ne sont pas virtuels chẳng hạn) nên tui xin dịch lại bằng tiếng Việt bình dân há»c vụ cho dá»… hiểu (váºy mà hiểu củng hổng dá»…).
Nhà văn François Weyergans đoạt giải Goncourt của Hà n lâm viện Pháp với quyển
Trois jours chez ma mère, đã được dịch ra nhiá»u thứ tiếng. Bà i viết rất văn chÆ°Æ¡ng bác há»c nên Ä‘iển tÃch cÅ©ng bá»™n, chÆ°a kể là chấm phết lung tung chá»› hổng xuá» xoà giản dị nhÆ° kiểu văn chÆ°Æ¡ng quán cóc.
Sau đây là và i chú thÃch trÆ°á»›c khi và o việc.
Mowgli: NhÆ¡n váºt chánh của quyển truyện cổ tÃch nhi đồng
The Jungle Book của Rudyard Kippling là má»™t bé trai được đám khỉ nuôi nấng rồi lá»›n lên trong rừng vá»›i bà y thú. Tuy thú váºt rừng già hiá»n là nh nhÆ°ng có con sÆ° tá» dữ dằn ra tâm muốn ám hại Mowgli, nhá» tình đồng Ä‘á»™i Mowgli thoát hiểm, rồi gặp má»™t sÆ¡n nữ Phà ca Ä‘eo gùi và theo nà ng xuôi vá» bản thượng vá»›i ánh sáng văn minh. Mowgli hổng phải là con ếch, hổng có con ếch nà o trong truyện nhÆ° ông Phạm Toà n phụ Ä‘á» ráo trá»i!
Le Petit Prince: CÅ©ng là truyện nhi đồng của văn hà o Antoine de Saint-Exupéry. Má»™t nhà thám hiểm rá»›t máy bay xuống sa mạc Sahara, kết bạn vá»›i Petit Prince. Prince là ngÆ°á»i từ hà nh tinh khác rá»›t xuống trái đất thế nên tâm hồn rất ngây thÆ¡ trong trắng. Qua chuyến viá»…n du nà y, Petit Prince nháºn biết ra thế nà o là sống chết, tình yêu tình bạn v.v. Tuy sách viết cho trẻ con nhÆ°ng y hình nghiêng nhiá»u vá» triết há»c thì phải (lâu quá tui hổng nhá»› Ä‘Ãch xác nữa).
Nijinski & Noureev: cả hai Ä‘á»u là vÅ© công ballet nổi tiếng.
Pari de Pascal: Pascal nói tá»›i chuyện hên xui may rủi và tìm cách chứng minh nó bằng con số, và y hình đây là nguồn gốc của xác suất và thống kê trong toán há»c. Trong bà i dịch tui là m lÆ¡ hổng dịch term nà y cho bá»›t bà hiểm.
Tragédie grecque: Bi kịch Hy lạp là kịch mang tánh bi ai phát sanh từ Hy Lạp trong thế ká»· thứ 6 trÆ°á»›c Thiên chúa, dÃnh lÃu tá»›i những huyá»n thoại Hy-La, luôn luôn đượm mà u sắc triết lý vỠđịnh mệnh và giải phóng con ngÆ°á»i. Mục Ä‘Ãch của tragédie grecque là gợi lòng thÆ°Æ¡ng xót hay gợi ná»—i sợ hãi ở khán giả, nói tá»›i sá»± bất lá»±c hoà n toà n của loà i ngÆ°á»i trÆ°á»›c số pháºn, để từ đó ngÆ°á»i ta nhìn và o sá»± khốn cùng bằng cái nhìn theo thẩm mỹ há»c hầu thanh tẩy chúng. Catharsis d’Aristote bao hà m ý nà y.
Bây giá» má»i các bạn Ä‘á»c thỠáng văn chÆ°Æ¡ng bà hiểm nà y coi tác giả khen hay chê Zidane nha?
Dù thích hay không thì ngay lúc để mắt tìm hiểu chút xíu về nỗi say mê định kỳ của nhơn loại trong túc cầu, về chuyện hứng chí rồ dại hay không giống ai ráo với một vài cầu thủ biểu tượng của bóng giới, thế là y như phép có chuyện để bàn liền. Mê một vài cầu thủ thì còn cái sướng nào hơn, ít nhứt mấy tên tuổi đó, cho tới giờ này, là có thiệt chớ hổng ảo. Khỏi lễ nghĩa gì ráo, toàn trận đấu, che giấu hay lộ liễu, cũng chỉ ngửi được thứ không khí sặc mùi hung bạo (từ hồi nền bóng đá sơ khai chưa có trọng tài cho tới sau này lúc ‘dàn nhạc’ đã tìm được ra ‘nhạc trưởng’). Đội banh y chang đoàn chó săn, một trong những điều phải có là việc hài hoà giữa cá nhơn với cả nhóm. Có cần phải đọc lại cuốn Chuyện rừng già không ta, đặng nhìn cho ra, ở cầu thủ này hay cầu thủ kia, cái khía cạnh Mowgli của sách, đôi khi bọn họ lại còn làm ta liên tưởng tới những Hoàng tử Bé mà to đầu nữa kìa. Khi nghĩ tới những chuyện được viết hay được nhắc tới trong thời gian World Cup, nếu phải so sánh, thì y hình chúng chẳng đâu vào đâu ráo trọi. Thí dụ Zinedine Zedane chẳng hạn, đây thiệt sự là một Mowgli hay một Hoàng tử Bé đã già nua?
Nhơn vụ tuổi tác, tui xin nhắc tới anh chàng Ăng-lê Stanley Matthews. Lúc tui còn nhỏ, tía tui khoái ảnh hết biết, hồi thập niên 50 chi đó, ở tuổi 38, anh Matthews ni đã thủ huề 3-3 cho đội nhà sau khi bị dẫn trước 3-1, và rồi mãi 50 tuổi mới tà tà về hưu. Nhờ cuốn sách hấp dẫn Nghệ thuật làm bàn (ấn bản Lattès) của Ken Bray, sách gối đầu giường của tui từ 15 bữa nay, mà tui đã tìm ra lại cái tên Mathews này và bài tường thuật về trận chung kết Blackpool-Bolton. Có lẽ ta cũng nên nhắc chút xíu tới anh thủ môn. Dòm bản mặt đưa đám của Fabien Barthez sau chiến thắng đá phạt đền của đội Ý, tui tự nhủ: Mèn ơi, kịch sĩ thứ thiệt đóng tuồng dám cũng hổng xuất sắc bằng!
Trở lại với Zidane, một Zidane thôi miên hơn là một Zidane ảo thuật... Không phải vì Zidane được anh chàng Ăng-lê Ken Bray (còn là một tiến sĩ vật lý lượng tử nữa đó nha) coi như thiên sứ, thánh nhơn, thậm chí cả như Thượng đế. Cũng không phải vì đương kim Tổng thống Pháp đã ‘cương’ đại trước máy vi âm, rằng đây là bậc trượng phu với tất cả những đức tánh nhơn bản mà loài người có thể tưởng ra được. Cái gờm nhớm trong những bài viết tui đọc về Zidane, chúng còn tệ hơn cả những điều chung chung vớ vẩn: buổi hoà nhạc bằng những rầm rộ tán dương, nhưng nói xấu những người hết lời khen Zidane làm chi dzậy cà. Cũng có phải lỗi của Zidane đâu. Rồi ảnh có đọc hết ba cái đó không ta? Dám đọc rồi ảnh ngộp thở luôn hổng chừng. Thiệt tình, có lẽ cũng hổng sai nếu ảnh được coi như một cầu thủ vừa hiếm có vừa tuyệt vời. Ảnh là Nijinski của bóng giới. Xui cái là những người coi Nijinski nhảy múa thì hổng ai còn sống hết, thôi thì ví với Noureev của bóng tròn vậy, nhưng tuyển thủ bóng tròn không phải là vũ công, nên rồi luật chơi khác đã đành mà cách chơi cũng khác luôn, trong cả không gian lẫn thời gian.
Ở một trận đấu, tui không nhớ rõ trận nào, Zidane lãnh cái thẻ vàng, thế là anh chàng nổi hung lên, làm ngay một bàn thắng rất lịch lãm, y chang một đoạn văn viết hay và viết lẹ (văn của Morand hay của Cocteau?). Nói về viết lách thì phải kể tới nhà dìu dắt Domenech, trong giờ nghỉ giải lao giữa một trận tranh tài, ông đã tuyên bố: Trận đấu không viết vọn vẹn trong 45 phút mà phải viết trong 90 phút, hay hơn nữa, 120 phút. Động từ ‘viết’ dùng ở đây nghe hay ho quá cỡ. Không dưng thấp thoáng những hình ảnh nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật của cuộc chơi. Aristote, ngay chóc Aristote với luận điểm thuần tuý vì nghệ thuật.
Vốn là một tiểu thuyết gia, tui thấy Zidane quả là hấp dẫn, hấp dẫn vì rằng ảnh bắt ta phải đoán thay vì nhìn coi ảnh làm chi. Chơi trò ấy là thủ và thủ kỹ. Không chừng có chuyện lờ mờ hay thách đố sao đó, đủ sức thuyết phục để anh chàng vòng trở lại mặc áo tuyển thủ quốc gia. Trong một màn phỏng vấn về vụ ni, ảnh nói cho tới khi thở hơi cuối cùng, nhứt định ảnh sẽ ngậm tăm. Nói thế làm người ta liên tưởng tới một bi kịch Hy Lạp, và rồi với tấm thẻ đỏ của ngày 9 tháng Bảy vừa rồi, Zidane biến thành Sophocle y chang: Đời sống con người chỉ được xét đoán trong hồi chung cuộc (trong trường hợp này đúng ra là sự nghiệp của con người và chính cái đoạn chung cuộc này mới sanh chuyện).
Tấm thẻ đỏ là một biến cố lớn. Phản ứng tức thời thì: Ôi định mạng, ôi rủi may, ôi giận dữ, thôi thì nhắm mắt lại rồi quên bà nó đi. Còn bằng như ngược lại, xối xả tuôn ra là coi như tiêu. Tui dòm sự việc này như một hình thức tự hủy và liên tưởng tới một câu ngạn ngữ có ít nhiều mùi phân tâm học: "Cái chi tưởng sẽ rối rắm thiệt ra lại êm ru bà rù". Biến cố lớn đã có trọng tài cầm cân nẩy mực, mắc mớ chi tới tui, tới chúng ta, mà bọn mình dzô trỏng xớ rớ kia chớ!
Bản tiếng Việt © 2006 talawas