© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
1.12.2002
Tạ Duy Anh
Đi tìm nhân vật
tiểu thuyết
 1   2   3   4   5   6   7   8   9 
 
Chương VII

Sự xuất hiện một cách đường đột của các nhân vật trong câu chuyện này khiến những người nóng ruột muốn biết chuyện gì xảy tiếp ở phố G cảm thấy bực tức. Xin quý vị cứ bực tức đi, bực tức thay cho cả tôi, bởi vì, quả thật, chính tôi cũng đang nóng ruột trở lại công việc chính. Nhưng khi ta muốn ra khỏi nhà mà ai đó lại đứng chắn ở cửa thì, vì sự nhã nhặn, khó mà không hỏi họ một câu: Anh cần gì ạ?

Trường hợp ông Bân, với tôi, chính là vị khách ấy. Vì vậy xin quý vị - những người giàu lòng thể tất - nếu không thì biết bao nhà văn, nhà thơ của chúng ta chết sẽ không có chỗ chôn - nán đợi tôi thêm một lát.

Hôm đó, sau khi đi dạo về - từ hôm tiến sĩ N tự tử, tôi đâm ra thích đi dạo một mình trên hè phố, không muốn gặp ai, không thích ai gặp. Tôi bước lặng lẽ, vô định, đôi khi chỉ thấy những chiếc lá đuổi nhau trên đường, hoặc một đám mây vụt sáng lên như từ đó sắp bay ra một thiên thần - Tôi nhận được một lá thư, giọng điệu khá kỳ quặc so với các mẫu thư xã giao. Nội dung lá thư như sau:

Mong anh thứ lỗi vì sự quấy quả này. Nhưng tôi đã tìm anh từ lâu và giờ đây, dù đổi giá nào tôi cũng không nhường anh cho ai. Tôi giới thiệu tôi với anh e hơi sớm và khó lòng để anh hình dung được tôi thế nào với công việc mà tôi đang theo đuổi. Vậy thế này, trưa mai lúc 11 giờ, tôi mời anh dùng bữa với tôi ở quán Bạn của văn chương - hẳn anh không lạ chỗ đó, theo tôi thì nó rất hợp với tạng của chúng ta - Tôi ngồi một mình ở bàn số 3. Anh chỉ cần bước vào là tôi nhận ra anh ngay mặc dù tôi chưa có hân hạnh biết mặt anh. Tôi rất vui mừng được tiếp kiến anh và rất sợ bị từ chối.

Bạn của anh

Trần Bân.

Tôi đặt lá thư xuống, lại cầm lên, cố tập trung suy nghĩ về những lời ghi trong thư nhưng không tìm thấy ý nghĩa gì đặc biệt. Có thể lại thêm một kẻ hiếu kỳ nào đó? Ðiều này tôi vẫn thường gặp, thông thường qua điện thoại. Ai đó gọi cho tôi, hỏi rõ tên tuổi rồi mới rú lên: "Anh đấy à? Ðúng là anh rồi!" tưởng như chúng tôi đã quen nhau từ hàng chục năm. Sau đó là một tràng tán thưởng bài viết nào đó của tôi, đôi khi chính tôi cũng không nhớ. Làm sao có thể nhớ được bài đó, bài ấy, bài hôm nọ, bài trứ danh... tôi viết về cái gì? Nhưng vị độc giả nào đó thì nhớ cặn kẽ, nhớ từng chi tiết. Bao giờ tôi cũng bị hỏi, đại loại: "Anh sắp cho nhau xơi món gì đấy?". Tôi cố nhã nhặn đáp: "Xin cảm ơn và xin vui lòng chờ".

Bao giờ tôi cũng đặt máy trong tâm trạng của người vừa thoát một cuộc rượt đuổi. Thú thực tôi rất mệt mỏi khi phải đáp lại những quan tâm kiểu đó. Tôi thường thầm rủa họ là những kẻ thừa thời gian, vô công rồi nghề, hiếu sự... Bởi vì chỉ riêng việc y đọc báo một cách kỹ lưỡng, đọc thuộc lòng từng đoạn, đã biết y là loại người nào rồi. Chả lẽ lại bảo thẳng cho y biết, ngay bài của tôi tôi cũng không đủ kiên nhẫn đọc lại, còn các loại báo chỉ cần đọc đầu đề đã là quá hạ mình rồi.

Nhưng lời lẽ trong thư có cái giản dị của một người từng trải. Chỉ có điều nó vẫn hơi bí ẩn vì thế đã có lúc tôi lóe lên ý nghĩ có thể y là tay chân của mụ chủ tiệm vàng? Sau khi dìm bài báo viết sẵn của chồng mụ vào hố ga, tôi cũng quên ngay sự kiện nhục nhã đó, thề sẽ không bao giờ phạm lại sai lầm. Chả lẽ mụ chịu nhục đơn giản thế? Tôi đọc lại lá thư và chính ý nghĩ ấy khiến tôi quyết định nhận lời với một kẻ chưa biết mặt.

Ông Bân hơi già so với tuổi, gương mặt nhầu nhĩ, đặc biệt trán như bị đào rãnh. Cặp mắt ông chỉ có thể ví như hai cái hố chứa những gì mà một người hạnh phúc ghê sợ.

- Tôi tìm anh đã lâu - ông chìa tay ra một cách cởi mở. Tôi cảm nhận từ tay ông khá nhiều điều: Sự nồng ấm, một người từng trải và dễ bị tổn thương, nói chung có thể tin cậy được - Tôi tìm anh suốt - ông nhắc lại như thể làm cho tôi hiểu rằng cuộc gặp này rất quan trọng với ông - cảm ơn bạn đã tin cậy và hạ cố nhận lời mời của tôi.

- Tôi muốn biết, tóm lại, xin không khách khí, tôi có thể giúp gì cho ông, kể cả để ông có một "món" tráng miệng.

Tôi cảm thấy, có lẽ do bối rối mà mình đùa không được nhã lắm, dễ gây hiểu lầm. Không ngờ mắt ông Bân hân hoan hướng vào tôi:

- Tuyệt vời! Từ "món" thật đúng là từ mà tôi tìm để diễn đạt điều tôi cần ở anh. Chà, kể như cuộc tìm kiếm của tôi đã được đền đáp. Tôi sẽ "dọn" anh cho bọn họ xơi mà không cần sơ chế...

Ông Bân thích chí cười to và tôi nhận ra thêm ở ông nét hồn nhiên của một thi sĩ.

Nhà hàng đưa thức ăn đến. Ông Bân chờ cho cô tiếp viên quay đi mới nói tiếp:

- Tôi là nhà văn. Anh đừng nghĩ tôi hợm hĩnh, khoe khoang bởi vinh quang nỗi gì cái danh hiệu nhà văn ở thời buổi này. Chẳng qua tôi muốn anh biết tôi là hạng người nào ngay từ đầu. Ðiều muốn nói tiếp với anh là tôi đang đi tìm nhân vật cho mình. Cụ thể tôi đang viết một cuốn sách, trong đó nhân vật chính là một thanh niên có tài, hơi khác người ở chỗ anh ta chuyên đi sưu tầm các kiểu chết: chết do bị giết; chết vì tai nạn; chết bởi không biết sống thêm để làm gì; chết vì sợ; chết vì sướng quá; chết vì tình, vì tiền; chết bởi quyền lực; chết bởi bạn bè; chết do thắt cổ, trầm mình, uống thuốc độc; chết bằng dao, bằng chun quần phụ nữ; chết vì thua kiện; vì hóc xương gà; chết vì sám hối, vì thấy vô nghĩa; chết như thánh thần, như trâu chó v.v... Nghĩa là những cái chết thể xác. Anh đừng nghĩ tôi bắt chước Gô-gôn. Tôi chỉ tự hào được giống Gô-gôn bởi cũng mắc bệnh trĩ như ông! - Sẽ có dịp tôi nói với anh về loại bệnh đầy ân sủng này. Tôi hứa là sẽ có lúc quay lại chủ đề vui vẻ và bổ ích ấy, cũng như chuyện xét giải thưởng ở ta - Trở về với nhân vật của tôi, nhờ miệt mài mà hắn có một bộ sưu tập khá dày dặn về những cái chết. Song sự việc không dừng lại ở đó. Trong khi đi tìm những cái chết với hy vọng hiểu được bi kịch của thời đại, hắn luôn luôn bị những hoàn cảnh gợi hắn nhớ về quá khứ, nơi hắn trở thành nhân vật chính. Bí mật của câu chuyện mở ra ở đây - ông ta nhìn tôi một cách hứng khởi - Bởi vì, cùng với việc chìm vào dòng hồi ức triền miên, những gì chi phối cuộc sống của chúng ta dần dần hiện lên. Nó là thiết chế quyền lực, sự trớ trêu của lịch sử, những cuộc biến đổi, những ảo tưởng cũng như những ngẫu hứng điên rồ của tư tưởng... đã vùi con người xuống đáy cùng trong khi bản thân hắn cũng góp phần tạo ra bi kịch ấy. Cuối cùng cuộc tìm kiếm thật sự, cuộc tìm kiếm bi thảm nhất chính là tìm kiếm cái chết của chính nhân vật. Hắn chết, tức là giấc mơ của con người tắt giụi kéo theo sự sụp đổ cái thế giới, với bát nháo các loại tư tưởng, nơi mà hắn nương náu. Chủ đề mà tôi theo đuổi là khi lịch sử phụ họa cho các cuộc phiêu lưu mang con người ra thể nghiệm, tất yếu nó đẩy con người đến chỗ là kẻ thù của tương lai. Nó tạo ra một thế giới vong thân, vong bản, và đó là cái chết kinh khủng nhất, cái chết không có cơ hội phục sinh.

Tôi để mặc cho ông ta nói.

- Tôi suy nghĩ về điều đó từ khá lâu - ông tiếp tục - Thú thật với anh, cuộc đời tôi luôn luôn bị đẩy tới những khúc ngoặt đau đớn. Hồi bé tôi ảnh hưởng tư tưởng của cha tôi có tên là Láo toét. Ngoài sự hiện tồn dưới dạng vật chất, còn lại, theo ông đều là hậu quả của sự láo toét! Thánh thần, ma quỷ, những giấc mơ, nỗi buồn... đều do láo toét mà ra. Hồi đó cha tôi có một ảnh hưởng rất lớn đối với tôi. Ðám đông do ông dẫn dắt chỉ coi trọng đánh chén và làm tình. Họ bị chi phối bởi sức mạnh bản năng tăm tối. Họ hiếu sát, thích tàn phá, tham lam, vô trách nhiệm. Với họ, quá khứ, tương lai, vẻ đẹp tinh thần, sự tôn kính... là một thứ cứt. Mỗi khi kéo nhau đi tàn phá, họ gào lên cứt! cứt! Tôi cũng gào theo: cứt! cứt!

Thế rồi xảy ra một việc khiến tôi bị tổn thương ghê gớm: Ðó là việc đám đông quyết định chôn sống con bé bạn tôi vì cả quyết nó mang theo bệnh hủi của bố và mẹ nó - những người đều chết trong đau đớn và bị ruồng bỏ. Nó xinh đẹp, da dẻ hồng hào, và với tôi nó sạch sẽ nhất trên đời. Làm sao nó lại mang những con hủi trong tim gan, như mọi người nói được? Và không lý luận dài dòng, một buổi chiều họ lừa con bé ra nơi có chiếc hố đào sẵn đã được rắc vôi bột rồi hùa nhau đẩy nó xuống. Cho tới giờ tôi vẫn còn nhớ không khí hào hứng của mọi người khi hô lên:

- Cứt nát... hai ba! Nhanh tay lên! Ðả đảo bệnh hủi!

Không hiểu sao vào giây phút ấy, khi biết rõ sự thật, con bé chỉ gào tên tôi, muốn tôi cứu nó. Nhưng cả một trận mưa đất đã vùi nó trong nháy mắt. Vật bị lấp cuối cùng là hai bàn tay nó - hai bàn tay mà tôi vẫn nắm mỗi khi chúng tôi dung dăng dung dẻ trên đê. Tôi thấy nó chới với cầu xin và vĩnh biệt tôi, chỉ riêng tôi thôi.

Sau khi ở chỗ chôn sống con bé hủi về, tôi lên cơn sốt nóng và chạy nhảy gào thét lung tung. Tôi gào tên con bé bạn tôi và cứ đòi chui xuống mồ với nó. Cha tôi bảo mọi người trói tôi lại, đắp chiếu ướt lên. Khi tỉnh lại tôi thấy mọi người đang bàn tán xem có cần chôn sống nốt tôi không? Cha tôi ngồi im, có lẽ ông đang nhẩm tính xem nếu đẻ bù một thằng như tôi thì có tốn kém quá không, trong khi mẹ tôi tay dao, tay thước dọa đứa nào gan to bằng núi thì hãy động vào tôi. Bà gào vào mặt cha tôi: "Ông là tên sát nhân!".

Tôi không thấy sợ mà chỉ buồn. Lúc bấy giờ tôi mới nghe tiếng trái tim non nớt của tôi thổn thức một cách đau đớn. Anh tin hay không thì tùy nhưng tôi yêu từ lúc lên mười và người yêu của tôi chính là con bé bị chôn sống. Ðó là người yêu đầu tiên, mối tình đầu thần tiên của tôi. Suốt những ngày sau đó tôi chỉ còn biết ngồi khóc thầm một mình. Tôi khóc cho mối tình bị đứt đoạn của tôi, đồng thời cũng là khóc đưa hồn tôi về một cõi khác. Tôi trở thành đứa trẻ câm lặng, đầy mặc cảm, luôn trốn tránh đám đông, luôn luôn bị ám ảnh về cái chết. Tôi căm thù những kẻ chôn sống bạn gái của tôi. Tôi thường nói chuyện với nàng, cầu mong nàng tha thứ. Ðể không ai biết, tôi trốn vào chùa, ngồi yên lặng hàng giờ. Và rồi tôi tin có kiếp sau, một niềm tin không sao cưỡng lại được. Tôi tin bạn gái tôi đợi tôi ở một kiếp khác. Giờ đây thỉnh thoảng tôi vẫn cầu xin Bồ Tát cho lòng mình được yên tĩnh.

Ông ta dừng lại tiếp thức ăn cho tôi.

- Việc tôi cầm bút cũng là một kiểu bị đẩy đến sự lựa chọn đau đớn. Hồi bé tôi chỉ thích cầm kiếm. Cha tôi có một thanh kiếm Nhật và tôi thấy nó đẹp lắm. Tôi thường mân mê nó, lòng khao khát được chém đứt đầu kẻ thù, khi đó là một lão địa chủ hết thời, bị lẫn, ăn cả cứt trâu khô mà không biết. Tôi ao ước được tự tay chém lão một nhát, xách thủ cấp về báo công với vua cha. Vậy mà cuối cùng tôi lại cầm bút, thứ mà tôi cho là vô dụng nhất. Tôi âm thầm viết, như một cách tự giải thoát mình. Và rồi tôi nảy ra ý tưởng viết cuốn sách mà tôi vừa kể. Tôi đặt cho nó cái tên: "Ði tìm nhân vật". Tôi tưởng tất cả do tôi bịa ra. Ai ngờ lại có một nhân vật ngoài đời hành động giống hệt như nhân vật của tôi. Thoạt đầu tôi phát hoảng, sau đó tôi thấy thú vị và lao bổ đi tìm anh ngay.

- Câu chuyện của ông ấn tượng lắm. Bản thân nó là bản tổng kết lịch sử mấy chục năm qua. Nhưng dường như nó chả liên quan gì đến việc ông đi tìm tôi - Tôi bảo ông Bân.

- Sao lại không? Ngược lại, nó rất quan trọng là khác. Anh nhớ cho là tôi vẫn đang đi tìm nhân vật, tức là chưa thấy. Anh đừng nghĩ rằng nó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng thôi, cứ biết là anh đang rất cần cho tôi. Tôi muốn hỏi: Anh lao vào việc sưu tầm những cái chết vì lý do nào, tức là có bị cái gì đó thôi thúc không?

Tôi sợ hãi nhìn ông ta:

- Ðó chính là điều mà cho tới nay tôi không tự giải thích được. Quả thực, hình như tôi có bị thôi thúc bởi một cái gì đó?

- Nhân vật của tôi cũng thế. Hắn cũng tự hỏi nhiều lần vì sao hắn lại lao vào làm việc đó? Thế là cả anh và nhân vật của tôi cùng có chung tâm trạng. Tuổi thơ của anh có bị mặc cảm bởi nỗi sợ chết không?

Tôi giấu được sự kinh ngạc sau câu hỏi của ông ta. Tôi không trả lời thẳng vào câu hỏi của ông mà kể cho ông ta nghe về tuổi thơ của tôi, về một cuộc rượt đuổi bí mật, về cái chết của cụ nội tôi, ông nội tôi, cha tôi và theo trình tự ấy sẽ đến tôi. Ngay cả việc vì sao tôi chưa đến lượt, mặc dù đã được báo trước, cũng là một bí ẩn. Có thể do tôi rời khỏi làng, cũng có thể màn kịch đã chấm dứt.

- Thật là khủng khiếp! Khủng khiếp quá! - Ông Bân thốt lên - Hóa ra sức tưởng tượng của tôi còn thua xa hiện thực cuộc sống. Anh chính là nhân vật của thời đại - ông ta cười - Nhưng mà này, có bao giờ anh đi tìm nguyên nhân của cuộc báo thù ghê gớm ấy không?

- Hồi bé, nỗi sợ hãi đã không cho tôi nghĩ được bất cứ điều gì ngoài ý định chạy trốn. Mẹ tôi bí mật đưa tôi đi khỏi làng sau khi đoạn tang cha tôi. Cho đến nay tôi vẫn chưa trở lại. Ðiều này có lý do của nó. Tôi sợ phải đối mặt với sự thật. Giả dụ nếu cụ, ông, bố tôi từng giết người và việc các vị bị giết chỉ là báo ứng của số phận, thì sao? Tôi sẽ chạy trốn vào đâu? Lịch sử nhiều khi nham hiểm lắm!

- Hẳn là thế - ông Bân gật gù - Tôi cũng nghĩ như anh là không nên hiểu quá kỹ về lịch sử. Nó là chiếc bình quý nhưng đừng có thò tay vào bởi rất có thể một con rắn nào đó sẽ đớp cho anh một phát. Vả lại, bản thân nó chỉ thiêng liêng khi tù mù. Vậy là tôi hình dung ra bi kịch của anh rồi. Khi ông cụ thân sinh ra anh mất, anh được mấy tuổi?

- Tôi đã có thể nhớ được khá nhiều điều. Cái in sâu nhất vào ký ức tôi là vẻ mặt đau đớn của cha tôi khi ông nhìn tôi. Ông thốt lên: Hắn sẽ ăn thịt con tôi mất.

- Hắn là ai? - Bất ngờ ông ta hỏi cái câu tôi từng hỏi mẹ tôi hàng trăm lần. Tôi thoáng rùng mình.

- Trong hình dung của tôi thì hắn là một bóng đen khổng lồ. Tôi chưa bao giờ nhìn vào tận mặt hắn. Sau khi lập mưu đẩy cha tôi vào tù, sau khi biến cha tôi thành thân tàn ma dại, đêm nào hắn cũng lảng vảng quanh nhà tôi khiến cha tôi suy sụp rất nhanh và chết âm thầm trong bóng tối.

- Tuy tôi không bị một gã đàn ông cụ thể săn đuổi như trường hợp của anh, nhưng tôi luôn luôn có cảm giác bị một bóng đen khổng lồ trùm lên. Ðấy là lúc tôi thấy mình đơn độc ngoài lề cuộc sống. Hồi đó anh đã thoát khỏi tay hắn bằng cách nào?

- Tôi không biết. Có vô số điều tù mù - như đã nói - mà tôi không dám làm sáng tỏ. Sau khi rời làng, mẹ tôi có lẽ theo ý nguyện của cha tôi muốn tôi lớn lên mà không bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi, vì thế bà không bao giờ nhắc đến bi kịch của gia đình tôi.

- Trước khi mất bà có hé thêm điều gì không?

- Bà chỉ bảo: Cha và mẹ sẽ che chở cho con.

- Tôi bắt đầu rối tung rồi đây - ông ta ấp tay lên mặt. Anh khiến tôi phải suy xét lại những ý đồ định đưa vào cuốn sách. Rõ ràng anh đơn thương độc mã, bị bao vây bởi sự tối tăm, thù hận, ngu dốt... và tôi tin cả sự lầm lẫn nữa... ngần ấy thứ hợp sức lại thành một thế lực mà ta gọi là cái ác, nhưng đã không làm gì nổi anh. Ðiều đó chứng tỏ vẫn có một cuộc chiến đấu ngoan cường nào đó chống lại nó. Trong khi đó nhân vật của tôi nhìn thế giới như một chiếc nhà mồ và cảm nhận về cái chết, như một sự kết thúc, là điều tất yếu. Chính anh cho tôi ý nghĩ rằng cuộc tìm kiếm của tôi mới chỉ bắt đầu - ông Bân đột ngột hướng vào tôi:

- Tôi có một đề nghị nhỏ với anh không biết có nên nói ra không?

- Tôi chờ nghe ông đây.

- Thật là một dịp tốt để anh trở về cái làng cũ của anh. Tôi lấy làm lạ rằng tại sao anh không bị thúc bách bởi nghĩa vụ phải tìm cho ra nguyên nhân của thảm kịch gia đình mình, đành rằng, như anh nói, lịch sử có thể chơi xỏ anh.

Im lặng một lát ông ta nói thêm:

- Ðó là lời khuyên của tôi đấy.

- Cảm ơn ông - tôi đáp - dù sao tôi vẫn cần phải có một chút thời gian.


Chương VIII

Tôi đến để báo cho Mặt Ðen biết tôi tiếp tục theo đuổi vụ thằng bé đánh giầy ở phố G. Giữa tôi và Mặt Ðen luôn luôn có những bất đồng vì thế hắn thường rình có cơ hội tốt là chơi tôi từ phía sau. Chúng tôi vẫn gọi Mặt Ðen là kẻ báo điềm gở. Hắn có một thứ khoái cảm quái gở: thích được thấy người khác lâm vào cảnh khốn nạn. Hắn đi lụt cụt, đầu hơi cúi xuống, mắt nghiêng ngó nhìn qua các khe cửa để hôm sau có tin xấu về ai đó loan khắp cơ quan. Hôm nào mặt hắn phởn phơ, tính tình xởi lởi, là y như hôm ấy có ai đó gặp chuyện bất hạnh và hắn được chứng kiến.

Nghe tôi thông báo cộc lốc, Mặt Ðen nhìn tôi tủm tỉm. Mẹ khỉ! - Tôi chột dạ - nhất định có điềm xấu với mình đây. Quý vị từng thấy con mèo vờn chuột bao giờ chưa. Ðấy là lúc trông con mèo ít nham hiểm và hung ác nhất. Mắt nó, thay vì ánh lên tia xanh lét, hơi cười cợt nhìn con mồi mà nó biết không thể thoát tay nó. Có lúc nó còn vờ lảng đi, vờn nắng hoặc một cái lá vàng nào đó. Nhưng đấy là lúc con vật đang sửa soạn tinh thần để móc mắt đối phương. Chỉ cần con chuột tưởng bở khẽ cựa mình, lập tức như từ trên trời chụp xuống, móng vuốt con mèo móc vào cơ thể nó ngay tức khắc.

Sáng hôm ấy Mặt Ðen y như con mèo còn tôi giống như con mồi trong tầm tay hắn. Sau khi tủm tỉm lần nữa với tôi, hắn hỏi:

- Mấy hôm vừa rồi ông đi đâu?

- Tôi không đi chơi - tôi đáp xẵng.

Mặt Ðen cúi xuống làm gì đó, như là tiện mồm hỏi thêm:

- Ông không làm gì ngoài công việc đấy chứ?

- Theo ông thì tôi làm gì?

- à, tôi hỏi để biết. Dù sao tôi cũng được giao quản lý ông mà.

Tôi uống nhanh một ngụm nước.

- Có một con ca-ve đến tìm ông đấy.

Tôi giật thót mình:

- Ông vừa nói cái gì? Ông dựa vào đâu mà bảo người ta là ca-ve?

- Chạm tự ái rồi hả! - Mặt Ðen cười đểu. Ca-ve thì đã sao?

Tôi thấy ngứa ngáy chân tay và trong vài giây đã nhìn vào tinh mũi hắn, nhưng tôi kìm lại bằng cách tiếp tục uống nước nóng bỏng môi.

- Ông thử tử tế với tôi một lần xem nào? - Tôi nhún mình.

Mặt Ðen đến đứng đối diện với tôi, vẻ cười cợt vờn mồi biến mất. Thay vào đó là cái nhìn khô khốc, vằn lên những tia máu chạy như mạng nhện đỏ trong mắt hắn.

- Ông nói thế tức là từ trước đến nay tôi luôn luôn đểu giả, phải không?

- Ông tự nói ra đấy nhé.

- Thì cứ nói mẹ nó ra như vậy, khách khí làm gì. Hôm nay ông yêu cầu tôi tử tế, thì đây, ông cầm lấy mà cất đi.

Hắn rút toẹt tờ giấy, loại phôtô, đẩy về phía tôi. Tôi liếc qua và nhận ra nó là đơn tố cáo. Tôi cười khinh miệt:

- Ông thích thì giữ lấy, tưởng gì, trò cũ rích...

- Không cũ đâu. Ông đúng là con cáo. Tôi hỏi lại: Mấy hôm vừa qua ông đi đâu?

- Ông tự cho ông cái quyền lục vấn người khác từ bao giờ thế?

- Ông sợ rồi. Bởi vì ông đi tống tiền để chơi đĩ...

Hắn nói rít qua kẽ răng từ "đĩ", vẻ mặt trở lại đắc thắng.

- Ông nhớ là ông nói đấy nhé!

- Và cả ông nữa. Ông không thoát được đâu. Người bị ông tống tiền sẽ trực tiếp tố cáo ông. Một chuyện như thế không ai có thể bịa ra được. Ông phạm hai tội một lúc - Mặt Ðen nói như quan tòa tuyên án - tống tiền dân lương thiện, cụ thể là bà... chủ hiệu kim hoàn, để trả tiền cho gái điếm, cụ thể là cô Thảo Miên, một gái điếm cao cấp, chỉ cặp với những kẻ tai mắt, coi tiền như vỏ hến. Chà, ông bạn, chơi sang quá đấy!

Tôi nhìn Mặt Ðen như nhìn một con chó và khi nghe hắn nói bằng vẻ hùng hồn, tôi không nhịn được, phá ra cười. Tôi cười to đến nỗi mọi người đổ xô lại tưởng có chuyện gì.

- Tôi tưởng ông khá hơn kia - tôi vẫn cười vào mặt hắn - Về việc tôi tống tiền như con mẹ chết giẫm ấy tố cáo, thì ông khỏi phải mất việc, sẽ có người khác sờ gáy tôi. Còn với cô Thảo Miên, tôi cấm ông không được xúc phạm cô ta. Ông sẽ phải trả giá ngay đấy.

- Mọi người làm chứng cho tôi - Mặt Ðen quay như con lật đật - ngài Chu Quý tống tiền và chơi đĩ, chứng cớ có trong tay tôi đây. Nay ngài còn lớn tiếng đe dọa tôi. Tôi sẵn sàng chết cho công lý...

Mặt Ðen bức tôi phải ra tay để đưa tôi vào bẫy. Ðấy là bài quen thuộc của hắn. Mắt tôi, quả thực, có lúc đã mờ đi vì căm tức. Tôi chỉ thấy một bộ mặt đen sì, cặp mắt trắng dã đang chường ra ngay cạnh tôi. Tôi gập các ngón tay lại, khẽ xoay chân ở thế đinh tấn... Nhưng ngay lúc ấy tôi thấy rõ nụ cười quen thuộc của hắn cùng với khoái cảm được hắn kìm nén... Tôi thả lỏng tay, nghiến răng:

- Ðược, ta sẽ còn gặp nhau.

Tôi bỏ đi, tay nới cổ áo, thở sâu mấy cái để lấy lại sự thăng bằng. Lý trí nói với tôi rằng tôi đã hành động đúng, đã tránh được cái bẫy mà Mặt Ðen giăng ra từ lâu (Tôi không hiểu vì sao hắn căm ghét tôi đến thế). Nhưng bản năng sôi sục trong tôi vẫn đòi được thỏa mãn bằng cách băm vào bộ mặt đen sì của hắn, để thấy óc hắn - chắc cũng đen như hắc ín - phọt ra.

Cho đến nay Mặt Ðen vẫn là một ẩn số đối với tôi. Hắn có một khả năng rất kỳ lạ: Vạch ra những thói xấu của người khác, nhất là những trò ma quỷ, khá nhanh. Vì thế không ít người có quyền lực tìm cách tránh mặt hắn. Hắn hợp với tất cả những gì quái dị. Một người đồng hương của hắn kể lại, hồi bé hắn đã có những biểu hiện khác người: Ai đó vui thì hắn buồn; hắn cười khi người khác khóc; thích bóng tối, nhất là bóng tối ở những khu đền miếu. Cũng chính người đó kể, tự tay hắn giết chết hàng trăm con chó đực vào mùa phối giống. Ða phần bọn cẩu đực chết khi khoái cảm với bạn tình đang lên cao độ: Con thì vỡ đầu, con thì đứt cổ, con thì cháy hết dương vật... Chính do bị tình nghi về việc trên mà hắn bỏ nhà ra phố học. Hắn học vào loại chăm và thông minh. Hắn đọc nhiều sách, đủ loại và càng đọc, càng nung nấu ý nghĩ phải trở thành nổi tiếng. Nhưng sự nghiệp của hắn bị đứt đoạn do một sự cố nhỏ: Hắn bố trí cho hai thằng bạn cưỡng dâm một cô bạn gái để đứng ngoài quan sát "biểu hiện thú vật của con người" - Như sau này hắn khai trước tòa. Hắn bị kết án 4 năm tù. Trong tù hắn giúp nhà chức trách khá nhiều trong việc quản lý tù nhân nên chỉ sau hai năm hắn được tha. Ra tù hắn tìm mọi cách học tiếp, bảo vệ thành công ở hạng xuất sắc bản luận án tốt nghiệp, nên được giữ lại làm trợ giảng cho một vị giáo sư tâm lý kiêm nhà tướng số. Hắn không biết vị giáo sư nọ dùng hắn để trắc nghiệm công trình của ông: Những căn nguyên của tội ác. Theo ông, có những tâm hồn vĩnh viễn bị dìm trong bóng tối, có những tâm hồn thích bóng tối. Ông liên hệ tới những kẻ coi phạm tội ác là nhu cầu thể hiện mình, những tên khùng ở các cấp độ mà Hitler là cấp độ đỉnh cao... thấy chúng giống nhau ở chỗ đều thù ghét đồng loại, muốn dùng đồng loại làm thí nghiệm. Ông dẫn ra ba mươi tên bạo chúa trong lịch sử, mỗi tên có một căn bệnh về tâm thần và chúng có một điểm chung là không chịu nổi sự thật lịch sử. Ðây là một công trình cho vị giáo sư sự nổi tiếng. Trong một bài trả lời phỏng vấn ông nói về người trợ giảng như một "trợ thủ" quan trọng và "tôi phải tạ ơn Chúa vì đã đưa ông ta đến cho tôi". Chính câu nói đầy hàm ý bí ẩn này khiến Mặt Ðen được chú ý theo hướng có lợi cho hắn. Hắn không những xóa được vết nhơ trong quá khứ mà còn tạo lập được một chút vị thế. Không ít người tìm đến hắn như tìm đến một bậc đại gia ẩn danh. Vốn thông minh, hắn có một khả năng hiếm có: Tổng hợp ý kiến của người khác và biến nó thành của mình rất nhanh. Hắn mê Nietzche, Ðoxtoiepxki, Mao Trạch Ðông, Tần Thủy Hoàng, Caesar, Hitler, Stalin... ở phần kỳ dị của họ. Hắn có thể ba hoa về những biểu hiện đối nghịch trong tính cách Trung Hoa, đặc biệt thích thú những xảo thuật như phù thủy trong chuyện chăn gối của người Tầu.

Sau nhiều trôi giạt, người ta dần dần nhận chân ra Mặt Ðen như một kẻ chuyên đi hãm hại người khác, một gã mắc bệnh thị dâm và hám lợi. Cuối cùng hắn về cuốn tổ ở cơ quan tôi do có ơn riêng với sếp. Tôi chỉ không hiểu vì sao hắn ghét tôi đến thế. Và đây là cơ hội hiếm hoi để hắn vờn tôi trước khi chụp nanh vuốt xuống.

Hắn là ai nhỉ? - Tôi tự hỏi mình khi đã bình tĩnh trở lại để có thể suy xét một vài việc. Cứ để cho hắn hí hửng bởi vì bản nhạc hay nhất của hắn là tiếng rên la của ai đó khi biết mình cùng đường. Tôi đã có lý do để làm theo đề nghị của ông Bân và chúng tôi rũ lại tất cả, lên đường ngay vào sáng sớm hôm sau. Với tôi đây là cuộc trở về sau nhiều năm chạy trốn.

*

Từ thành phố về phố huyện chúng tôi đi ô tô. Còn từ huyện về làng chúng tôi thuê xe ngựa. Bác xà ích có lẽ già lắm, già hơn cả quá khứ của tôi. Người ta bảo bất cứ một bác xà ích nào về già cũng là một nhà hiền triết. Ðiều đó như hiện ra trước mắt tôi. Từ cặp mắt, vẻ mặt với những đường nhăn thành nếp, đến bộ râu lòa xòa... toát ra từ bác ta một nỗi trầm mặc của người thấu gần hết cõi người. Bác không vồn vã, không lạnh lùng, chỉ làm những gì thấy cần và có vẻ chú ý đến tôi. "Ði được chưa nào? Huých! Huých!".

Tiếng xe bánh gỗ bắt đầu gõ xuống mặt đường. Từ phút ấy trở đi tôi trở thành một thứ quả lắc, đều đều điểm nhịp còn ông Bân thì biến thành một chú bé lần đầu được độc lập quan sát thế giới. Trong khi đó bác xà ích già - như bất cứ nhà hiền triết nào - vẻ mặt in tạc vào không gian, mắt lim dim.

Tôi bắt đầu để mặc cho cảm xúc bung ra, không tập trung nổi vào bất cứ ý nghĩ nào. Tôi không còn một chút ý niệm nào về thời gian, về hiện tại hay quá khứ. Tất cả nó bỗng trở nên một khối trong suốt. Tôi nhìn được tôi cả từ ba chiều, vừa xa hun hút, vừa cận hình như đập vào mắt. Thỉnh thoảng tôi bị hẫng hụt như người rơi thẳng đứng trong mơ bỗng tỉnh giấc. ấy là khi ông Bân thốt lên khe khẽ:

- Quê cậu đẹp quá! Làm gì cậu chả có một ký ức như cổ tích ấy.

Mỗi lần như thế, không hiểu sao tôi lại nhìn vào mặt bác xà ích, vẫn như in tạc vào không gian nhưng khi nghe tiếng ông Bân, cặp mắt bác bớt lim dim hơn và tôi hiểu rằng tâm hồn bác đang mở về phía chúng tôi.

Lát sau ông Bân bắt đầu chuyển sang nói về văn chương, nghệ thuật. Tôi nghe lõm bõm còn hơn cả tiếng vó ngựa chạy vào con đường lổn nhổn đá sỏi. Ông nêu ra một loạt tên tuổi bị rêu mốc bám cả khi họ còn sống phây phây và hỏi tôi có đọc không? Một ông T nào đó cả một đời bước cúm rúm, lưng phải khom xuống đến nỗi về già thành tật; một ông K. nào đó chế tác ra một thể loại thơ mới chỉ có thể gọi là thơ nói leo, trước khi chết mới bừng tỉnh rằng mình cầm vàng đổ xuống sông Ngô, đổi lấy toàn cát sỏi. Một ông H nào đó mặt như mặt chúa đất, coi thơ là một thứ đạn dược... và ông Bân đưa ra nhận xét rằng: Nếu phải bán mình thì đàn bà bán hồi trẻ còn đàn ông lại thường bán khi về già? Ông Bân như tìm được nơi để trút ra những suy nghĩ ứ đọng mấy chục năm. Ðáp lại ông, tôi chỉ mỉm cười. Khi bị gặng hỏi thì tôi đáp cho qua. Bởi vì còn có bài thơ nào mà tôi từng đọc trong sách giáo khoa, trên báo, nghe ai đó gào thét giữa quảng trường... hay hơn được tiếng vó ngựa, lẫn tiếng bánh gỗ vang lên trong một không gian nhuốm màu hoài niệm? Nếu bạn chưa trải qua tâm trạng như tôi, đang trên đường trở về nơi chôn nhau cắt rốn đồng thời cũng là nơi chôn giấu mọi khát vọng thời thơ ấu, bạn sẽ khó mà cảm nhận hết vẻ đẹp của từng tiếng gõ móng với tiếng huýt, hầy đều đều của bác xà ích. Nó gõ vang không gian, thời gian và ký ức.

Xe vào con đường lát bằng những phiến đá to như mặt bàn. Tôi bắt đầu thấy nhói lên trong ký ức những gì trước đây ít phút còn bị vùi lấp bởi tầng tầng sự kiện. Giống như khi tôi nhìn vào bức tranh cổ, làng quê tôi hiện ra vừa quen, vừa lạ, lên nước thời gian thành ra xa vắng, heo hút. Tôi nhìn thấy quá khứ qua một lăng kính ẩm ướt, trong đó mọi thứ đều mốc meo và bất động. Ðây là con đường mẹ tôi vẫn đưa tôi qua mỗi khi phố huyện vào hội. Nó chạy qua một khu đền miếu cổ mà một lần tôi nhìn thấy hai con rắn mào phơi mình trên lớp rêu. Sau đó con đường lượn sát vào khu nghĩa địa. Hồi bé tôi vẫn thường bất ngờ chạy vụt xuống, xoa tay vào tấm bảng gỗ để đánh vần tên ai đó. Có lẽ chỉ những phiến đá câm lặng và bị mài bóng kia là còn lưu giữ vết chân bé xíu của tôi. Giờ đây cảnh vật hiện ra như là hình ảnh còn đọng lại của quá khứ. Vẫn những nấm mộ thấp tè, cỏ mọc xanh rì, nằm phía bên trong lớp hàng rào sơ sài. Một vài con bò đang mài răng xuống gặm cỏ, thỉnh thoảng lại ngửa mặt lên ngơ ngác nhìn trời xanh. Vẫn những bóng người ẩn hiện sau mỗi nếp nhà. Họ hướng về phía chúng tôi nhưng không biểu lộ sự soi mói hoặc lạ lẫm. Liệu có ai trong số họ nhớ đến cậu bé con là tôi mấy chục năm trước từng chạy chân trần qua con đường này? Không còn một tí gì thuộc về tôi in dấu nơi đây, cả trên đất và trong ký ức mọi người nữa ư? Và ngay tức khắc tôi phát hiện ra bộ nhớ mốc meo của làng đã không còn hoạt động từ lâu, có thể từ sau cái ngày người Pháp lấy cớ một lính của họ bị giết chết đã xua quân làm cỏ làng để sau đó Việt Minh làm cỏ làng lần thứ hai, lần này họ làm cỏ những kẻ đến làm cỏ làng lần trước. Thế là suốt nhiều năm làng trở thành nơi tắm máu các loại người, đến nỗi dân làng đâm ra nói ngọng (do phải kiêng quá nhiều tên tuổi, sự kiện) và nhớ lẫn lộn các năm tháng, nhân vật. Có những sự kiện bị nhớ lầm sang ngày hội thi trâu đầu tiên, còn cuộc đấu tố nổi tiếng năm 1956 thì trở thành ngày hội làng, rước Thành Hoàng.

Nhưng tất cả những điều đó chỉ còn lại mơ hồ trong tôi qua lời kể của ai đó. Ký ức tôi như một chiếc ngăn kéo bày lộn xộn và vớ được gì tôi rút bừa ra.

Hết con đường lát đá là đến khúc ngoặt rẽ về làng tôi. Lần cuối cùng rời làng theo mẹ, tôi đứng lại ở lối rẽ này. Nhưng hồi đó nó chỉ là một lối nhỏ ngập lút trong cỏ lác. Giờ đây nó được mở rộng sang hai bên, trải sỏi. Tiếng bánh xe lăn lạo xạo một cách mệt mỏi và nó tạo ra một thứ nhịp đời sống tù hãm. Tôi có cảm giác mình đang vào một thế giới bị tách ra khỏi đời sống văn minh.

Bọn trẻ con trần truồng chạy tớn tác, báo tin theo kiểu của chúng.

- A a... ầm oà... u u... ơ ơ ba ba ba...

Mọi người lấm lét, sợ hãi, cảnh giác, khinh miệt nhìn chúng tôi. Khi sắp xuống xe, bác xà ích mới hỏi:

- Bao giờ thì nhị vị quay ra?

- Nếu chúng cháu đến để ở lại thì sao?

- Hồi đó cũng có những người đến, ở lại và gây tai họa cho chúng tôi. Họ bức tử ông giáo làng của chúng tôi khiến làng nước cứ tối om om.

Tôi thấy nổi gai ốc:

- Cụ nói hồi đó là hồi nào ạ?

- Ồ, trí nhớ của tôi kém lắm, cậu ạ. Chúng tôi lại rất sợ nhớ những tai họa.

- Gia đình ông giáo làng có còn ai không? - Tôi thấy giọng mình âm u.

- Phiêu bạt đi cả. Từ bấy đến nay chẳng thấy tăm hơi gì. Mà này, sao cậu có vẻ quan tâm đến chuyện đó thế - Bác xà ích liếc nhìn tôi một cách dò xét rồi lại trở về với tư thế lim dim. Có cảm giác thời gian đứng im trong ký ức bác.

- Hồi đó... bác có biết gì về những người đến và ở lại không?

- Ta không muốn nhớ, mặc dù làm sao ta quên được những bộ mặt quỷ dữ của họ. Họ xét xử ông giáo căn cứ theo một lá đơn vu cáo của người có thù với ông. Nhưng ta thì ta cho rằng, đó là sự ngu đần dồn đuổi kẻ có học vấn. Còn chuyện thù oán cá nhân thì ta chỉ biết láng máng.

- Cụ ơi, tôi sẽ nói cho cụ biết tôi là ai. Nhưng ngay bây giờ tôi muốn cụ hãy nói về những kẻ báo thù nhau ấy đi.

- Về họ ấy à? Hồi bé ta có nghe kể một truyền thuyết, về người đàn ông bị cắt cụt hạ bộ. Ðúng ra nó bị chó đớp mất khi ông ta bị bắt cởi truồng đứng đội đèn cho một cụ lớn. Thế là xảy ra cuộc báo thù triền miên giữa con cháu họ. Ta nghe nói có một bản di chúc nào đó ghi rằng, nhân một sự kiện nào đó có thể tạo thời cơ, thì tìm cách giết kẻ thừa tự nhà nó. Tất cả đều chỉ nghe nói vì chưa có ai ở làng này trông thấy những điều ta vừa kể.

- Nhưng... tại sao lại phải nhân một sự kiện nào đó?

- Con ạ, ta đâu có biết. Nhưng ta đoán rằng những kẻ báo thù vẫn muốn giấu tay. Hồi ông giáo làng bị bức tử, để ta nhớ xem có sự kiện gì? à, chính là sự kiện đám người lạ mặt ở đâu kéo đến và ở lại...

- Họ ở lại làm gì hả cụ?

- Ta nói rồi, họ ở lại để gây tai họa. Sau khi họ rút đi và sau khi ông giáo làng qua đời, bọn ta lại nói ngọng, nhớ lẫn lộn tên tuổi, họ mạc, chẳng còn biết thứ bậc gì nữa. Nhưng thôi, hơn 30 năm nay ta câm như hến, nay ta nói ra tức là ta xong việc rồi. Nếu nhị vị đến để gây tai họa thì sẽ có người khác nhớ. Nhưng nhìn mặt nhị vị ta biết nhị vị không phải loại người đó. - Con quỷ già dừng lại! Ðến rồi đó.

Tôi định nán lại hỏi thêm bác xà ích già nhưng bác đã lại bí ẩn như một nhà hiền triết. Bác lắc đầu nói là không nhớ được gì nữa. Vòng trở ra tôi không được đi xe của bác vì chỉ vài hôm sau, khi chúng tôi còn đang ở trong làng, bác qua đời.

Sau khi chia tay bác xà ích, tôi và ông Bân cứ im lặng bước, trong sự tò mò của dân làng. Gần tối, khi tin chắc là mình không lầm, tôi vào xin ở nhờ một gia đình của đôi vợ chồng trẻ, chưa có con. Chị vợ làm nghề thêu ren, mặt mũi phúc hậu, cơ thể nở nang sạch sẽ. Anh chồng làm một chân gì đó ở thôn, chạy loong toong cả ngày, về nhà lại chúi mũi vào sổ sách. Họ là những người tốt bụng và nhẹ dạ. Khi đêm ập xuống, tôi có cảm giác mình vừa chui vào một cái động nào đó. Tất cả như bị đóng đinh vào một thời gian biểu tồn tại từ cả ngàn năm nay. Sau bữa cơm tối, chúng tôi ngồi tán gẫu bên ngọn đèn tù mù. Tôi cố gắng nhớ lại thời thơ ấu để xác định lại khu vườn mà khi bỏ đi mẹ tôi bán rẻ cho người bà con xa. Nhưng tất cả cố gắng của tôi cuối cùng chỉ giúp tôi hỏi ông chủ trẻ:

- Buổi chiều tôi thấy một con nghê đá cụt đầu bị vứt ở sân đình, nó vốn dĩ của ai thế?

- Chính của khu vườn này. Khi tôi mua lại từ một người khác, bà ấy dặn: Ðem con nghê ra đình cung tiến bởi nó là Thạch Thần, thiêng lắm.

Tôi lén thở trút ra. Theo mẹ tôi kể lại, con nghê đá đó do cụ bảy đời của tôi tự tay tạc, bằng một tảng đá cụ đào được ở chỗ bị sét đánh. Như vậy là tôi đã xác định đúng. Cũng trong cuộc chuyện, khi tôi hỏi vài chuyện về làng, gã trai trẻ bảo rằng: "xưa kia còn ông giáo - là tôi nghe các cụ bảo thế - mọi chuyện kim cổ cứ đến hỏi ông giáo là ra hết. Từ khi ông mất, chỉ còn bác xà ích là nhớ được đôi chút nhưng mấy chục năm nay bác ấy không mở miệng. Bác ấy bảo bác sẽ nói cho bất kỳ ai mà bác ấy thấy có quý tướng".

Ông Bân bấm tôi. Tôi ngồi im nhưng ý nghĩ xáo trộn. Tôi có cảm giác càng tìm càng lạc vào một đường hầm nhiều ngách. Nếu nhân chứng cuối cùng im lặng, thì mọi chuyện sẽ trở thành huyền thoại. Ðiều đó có nguy cơ đẩy tôi ra ngoài vĩnh viễn trước một sự kiện mà tôi có tham dự.

Chúng tôi quyết định đi ngủ để đôi vợ chồng trẻ khỏi phá nếp sinh hoạt của họ. Cả ông Bân và tôi đều trằn trọc trong đêm tối. Quãng nửa đêm, từ buồng bên vọng sang tiếng thở, thoạt đầu khoan thai sau dồn dập, sau nữa chỉ còn lại như một hòa điệu. Chị vợ chỉ dám rên khe khẽ trong khi chiếc giường nấc lên một cách khốn khổ. Chỉ có thể hình dung họ bện chặt vào nhau, tan biến vào nhau trong sự trào dâng của một sức sống mãnh liệt. Tiếng thở của họ trở thành niềm hy vọng nhói lên trong đêm đen. Nó đẩy tất cả ra rìa: Quyền lực, lịch sử, nỗi sợ hãi... Nó còn lại là duy nhất và chỉ nhờ nó con người mới thoát khỏi nỗi ám ảnh bị bỏ rơi giữa trùng trùng tai họa.

- Thằng cha này khỏe thật! - Ông Bân thì thào.

Sau đó từng đợt sóng lại trào lên, cuốn phăng đi những vướng bận vụn vặt. Nó cuốn ta đi như khi nghe bản giao hưởng anh hùng.

- Thằng cha khỏe thế nhỉ? Vấn đề là họ lấy đâu ra cảm hứng để có thể duy trì lâu đến thế.

- Sự thanh sạch... - tôi lẩm bẩm, không thành một ý kiến.

Vũ điệu của đồng quê lên đến cao trào. Tất cả đều mới mẻ, chan chứa một chất thơ dịu ngọt, căng đầy. Cái chết trở thành thảm hại, vô nghĩa lý. Có một khoảnh khắc phi thời gian, hay đúng hơn thời gian dừng lại khi vũ khúc sinh nở chói lên âm thanh cao vút rồi tắt đột ngột.

- Ðáng vỗ tay quá cậu ạ! - Ông Bân thì thào. Không ai nghĩ đó là xác thịt cả. Mình sẽ phải xét lại rất nhiều điều...

Chúng tôi ở lại thêm vài hôm nữa nhưng không có diễm phúc được chứng kiến "Sự vĩ đại của cuộc sống" như lời ông Bân - một người bi quan - phải thốt lên. Một hôm, khi tôi đang bần thần nhìn ngắm khu vườn thì anh chồng trẻ lặng lẽ đến đứng bên cạnh. Tôi mỉm cười với anh ta trong khi anh ta có vẻ xúc động lắm.

- Tôi... tôi có điều không phải muốn hỏi ông - anh ta ngập ngừng.

- Ồ, anh cứ tự nhiên.

- Ông có điều gì... rất liên quan đến khu vườn?

- Tôi có lỗi gì chăng?

- Ấy chết, không dám nghĩ xấu. Tôi có cảm giác ông chính là anh ta?

- Sao? - Tôi xoay người lại - Sao tôi lại là anh ta và anh ta là ai?

- Có đúng là ông đang tìm lại cái gì đó ở khu vườn này không? Tôi đã nghe được câu ông nói với con nghê cụt đầu.

Tôi kinh hãi nhìn gã nhà quê:

- Vậy anh là ai?

- Nhưng có đúng anh là con ông giáo không? Trời ơi, chả lẽ đây lại chính là người mà tôi chờ suốt mấy năm nay.

- Tôi chả hiểu ra làm sao nữa...

- Anh vào đây - gã cầm tay tôi kéo vào trong nhà - Ðây - gã lôi ra một bọc nhỏ, gói buộc cẩn thận - ông ta bảo tôi trao cho anh. Ông ta bảo thêm: "Thể nào hắn cũng trở về" - ông ta khẩn khoản nhờ tôi trao tận tay đứa con tha phương của ông giáo làng.

- Ông ta là ai?

- Một người đàn ông ở xóm trên. Sau khi trao gói nhỏ này cho tôi, ông ta bị điên, tự tay đốt nhà và thiêu luôn cả mình.

- Ông ta đưa cho anh vào lúc nào?

- Vào một buổi tối. Lúc ấy trông ông ta tôi tưởng ma vì mặt ông ta bị phù, mắt sụp xuống do nghiện rượu.

Tôi cầm bọc nhỏ lên xem xét. Có một tờ giấy gấp lại cài ở bên ngoài lớp giấy bọc. Tôi cảm ơn gã nhà quê, đem về buồng và tò mò giở tờ giấy ra. Ðó là mấy dòng do hắn viết, nét chữ dị dạng, đề gửi cho "con trai của giáo Tri".

Ta nguyền rủa sự mềm yếu của ta. Vì tình yêu với mẹ anh mà ta đành phản bội lại di huấn của tổ tiên ta, để cho anh được sống.