© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
27.1.2005
Joseph E. Stiglitz
Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?
16 kỳ
Nguyễn Quang A dịch
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16 
 

Chính sách cạnh tranh

Suốt thế kỉ qua đã có những thay đổi rõ rệt cả trong các chính sách mà chính phủ dùng để điều tiết và thúc đẩy cạnh tranh và trong các lí lẽ dùng để biện hộ cho các chính sách ấy. Những năm gần đây các nhà kinh tế học đã có ảnh hưởng to lớn đến tiến hoá của các chính sách đó. Có thể chúng ta không có vua-triết học Plato, nhưng chúng ta có luật sư-kinh tế gia: Ít nhất, ở Mĩ, các cá nhân như Thẩm phán (Giáo sư) Posner đã có ảnh hưởng to lớn đến diễn tiến của chính sách cạnh tranh hiện thời. Trong khi với tư cách các học giả chúng ta có thể khó tìm ra lỗi lầm trong cố gắng đưa tính hợp lí vào bất kể lĩnh vực đàm luận công nào, các vấn đề nảy sinh từ bản chất chưa ổn của lí thuyết kinh tế. Quá thường xuyên là sự chậm trễ trong phổ biến các ý tưởng đến mức chúng được áp dụng đúng khi chúng bị mất uy tín, hoặc ít nhất đang có sự nghi ngờ về tính hiệu lực chung của chúng.

Điều này đúng với chính sách cạnh tranh: Nhiều nguyên lí làm cơ sở cho những thay đổi hay kiến nghị thay đổi gần đây về chính sách cạnh tranh dựa vào những giả thiết kinh tế hoặc các mô hình đáng nghi ngờ về tính thoả đáng cho các thị trường được đề cập. Các học thuyết có thể tranh đua/cạnh tranh tiềm tàng được củng cố trong các phiên toà, hệt như chúng mất lòng tin trên vũ đài học thuật.

Mục tiêu của phần này của chương là tóm tắt (ở mức lí thuyết) một số vấn đề chính của cuộc tranh luận hiện thời về chính sách cạnh tranh ở Hoa Kì. Tôi hi vọng, và tin, rằng những viễn cảnh này sẽ có sự xác đáng với các nước khác những nước đang trong quá trình đánh giá lại chính sách cạnh tranh của mình. Tôi thấy hữu ích định khung khổ cho thảo luận về mặt lịch sử. Không chỉ là các cuộc tranh luận hiện thời phản ánh diễn tiến lịch sử của chính sách cạnh tranh, mà việc xem xét lại như vậy cũng để nêu bật một số viễn cảnh trái ngược về chính sách cạnh tranh.

Những nguồn gốc dân tuý

Chính hình ảnh của các vua tư bản kẻ cướp- các Rokefeller và Morgan - đã làm nảy sinh các chính sách chống trust ở Hoa Kì vào cuối thế kỉ thứ mười chín. Các độc quyền được hình thành trong những ngành quan trọng, như dầu và thép. Vài người đã trở nên cực kì giàu có. Nhưng mối lo ngại đã không chỉ là bất bình đẳng về của cải: Đã có sự lo ngại về các hậu quả của sự tích tụ quyền lực kinh tế. Không nghi ngờ gì mối lo ngại cũng nhiều về các hệ luỵ chính trị - và những hệ luỵ rộng hơn đối với bản chất xã hội - hơn là những lo ngại hẹp về kinh tế. Chắc hẳn, đã có sự nghi ngờ lan rộng rằng những người lập ra các độc quyền này có nhiều ý trong đầu hơn chỉ đơn thuần là "hợp lí hoá" ngành: Không chắc rằng quyền lực kinh tế, một khi đã hình thành, lại không được hành sự. Giá sẽ tăng.

Điều đó xảy ra đã hơn ba phần tư thế kỉ trước khi Arnold Harberger tiến hành công trình tiên phong lượng hoá tổn thất phúc lợi của việc tăng giá như vậy. Giả như phân tích của ông, gợi ý rằng các tổn thất phúc lợi của độc quyền là hạn chế, bằng cách nào đó đã được những người tranh luận về Luật chống Trust của Sherman, luật gốc tạo nên chính sách cạnh tranh ở Hoa Kì, biết đến, thì liệu tình hình có thay đổi? Tôi nghĩ là không. Điểm mấu chốt lúc đó nhiều hơn sự tính toán tổn thất hiệu quả: Đó là một tầm nhìn về nền kinh tế hoạt động ra sao, về ý niệm nào đó (dùng từ hiện đại) về một sân chơi bình đẳng và một trò chơi công bằng. Những người chơi nhỏ đơn giản đã ở thế chơi bất lợi đối lại các đại gia hay ức hiếp. [1]

Tranh luận kinh tế

Các nhà kinh tế tham gia muộn hơn, nhưng với ảnh hưởng đáng kể. Chúng ta đã thấy trong các đoạn trước sự dao động trong tư duy của các nhà kinh tế -từ quan niệm khuyết tật thị trường ban đầu, nhấn mạnh sự cần thiết của cạnh tranh hoàn hảo nếu các nền kinh tế muốn có hiệu quả, nhưng chỉ chú ý đến các độc quyền tự nhiên; đến quan niệm rằng các tổn thất thậm chí từ độc quyền là hạn chế, và rằng cái cần không phải là cạnh tranh thực mà là cạnh tranh tiềm năng; đến quan niệm mới, chứng tỏ rằng những hạn chế về cạnh tranh chắc là phổ biến tràn lan hơn lí thuyết ban đầu về khuyết tật thị trường đã gợi ý. Tối thiểu quan niệm mới cho một phê phán mạnh đối với thuyết có thể tranh đua, với quan niệm ẩn rằng chính sách cạnh tranh là không cần thiết. Quan niệm mới chứng tỏ rằng các thị trường có thể không hiệu quả và lợi nhuận có thể không bằng không. Có cơ hội tiềm năng cho chính sách cạnh tranh cả để hạn chế lợi nhuận lẫn tăng hiệu quả.

Quan niệm mới nhấn mạnh tầm quan trọng của cạnh tranh không hoàn hảo, đối lập với độc quyền, mối lo chính của cách tiếp cận trong lí thuyết khuyết tật thị trường cũ. Nó lập luận không chỉ rằng trong hầu hết thị trường ở các nước công nghiệp hiện đại, cạnh tranh là hạn chế mà rằng tổn thất phúc lợi từ cạnh tranh hạn chế có thể lớn hơn nhiều so với hình dung trước kia - và có thể khác đáng kể với tổn thất gắn với độc quyền.

Những tổn thất phúc lợi từ cạnh tranh hạn chế

Quan niệm mới chứng tỏ rằng tổn thất phúc lợi kinh tế gắn với bất hoàn hảo của cạnh tranh có thể lớn hơn nhiều so với tam giác Harberger gợi ý.

Không chỉ là giá tăng tương đối với chi phí biên của sản xuất. Bản thân chi phí sản xuất có thể bị tác động xấu, khi các hãng tiến hành các hoạt động làm tăng chi phí của đối thủ hoặc để ngăn cản tham gia. [2] Thực vậy trong một số trường hợp tác động chính có thể lên chi phí sản xuất chứ không phải lên lợi nhuận. [3]

Chúng ta có thể phân biệt hai loại ảnh hưởng, những cái ảnh hưởng trực tiếp đến ứng xử của các hãng và những cái ảnh hưởng đến ứng xử của các nhà quản lí (và như thế gián tiếp đến ứng xử của hãng). Trong các mô hình truyền thống, các hãng tăng lợi nhuận bằng cách tạo ra các sản phẩm mới được người tiêu dùng thích và sản xuất các mặt hàng đã có với chi phí thấp hơn. Họ duy trì lợi nhuận của mình bằng cách trội hơn các đối thủ cạnh tranh, liên tục đưa ra các sản phẩm tốt hơn và giảm chi phí sản xuất. Trong các lí thuyết về cạnh tranh không hoàn hảo, các hãng có thể tăng và duy trì lợi nhuận theo bốn cách nữa: kiếm đặc lợi, cản trở tham gia, làm giảm mức cạnh tranh, và làm tăng chi phí của các đối thủ.

Tìm kiếm đặc lợi

Khi có lợi nhuận hay đặc lợi, có thể có cạnh tranh để kiếm lợi nhuận hay đặc lợi đó. Các hãng có thể chi một khoản bằng lợi nhuận để kiếm chúng. Tổn thất phúc lợi từ đó (lãng phí nguồn lực) sẽ điển hình lớn hơn nhiều tổn thất phúc lợi gắn với tăng giá (mà phần lớn ảnh hưởng là sự chuyển giao nguồn lực, từ người tiêu dùng sang nhà sản xuất).

Khái niệm kiếm đặc lợi đầu tiên được phát triển trong bối cảnh các mô hình kinh tế chính trị, nơi lợi nhuận (hay đặc lợi) nảy sinh từ các rào cản tham gia do chính phủ đặt ra. Như thế các hãng có thể dùng nguồn lực đáng kể để xui chính phủ tăng thuế quan hay áp hạn ngạch. Nguyên lí của kiếm đặc lợi, tuy vậy, cũng áp dụng tốt khi có các nguồn khác của hạn chế cạnh tranh. Như thế nghiên cứu nhằm giải quyết một patent hiện hành có thể coi như tìm kiếm đặc lợi.

Cản trở tham gia

Trước đây trong chương, tôi đã mô tả các rào cản tham gia chiến lược: Các hãng có thể tiến hành các tập quán cản trở các hãng khác tham gia vào thị trường, cho phép hãng hiện hành duy trì lợi nhuận. Nhiều tập quán này gây lãng phí. Hãng có thể, thí dụ, tạo năng lực thừa, chứng tỏ sự sẵn sàng và năng lực để phản ứng lại gia nhập bằng cách giảm giá và tăng sản xuất. (Trong trường hợp năng lực dư không có ảnh hưởng lên chi phí sản xuất biên, giá đòi người tiêu dùng không bị ảnh hưởng bởi năng lực dư; các chi phí cản trở là tiêu tán hoàn toàn). Hoạt động nghiên cứu có thể nhằm kiếm patent được thiết kế để ngăn phát triển sản phẩm đối địch.

Các hoạt động nhằm thay đổi mức cạnh tranh

Có sự khác biệt căn bản gữa các thị trường trong đó có một hãng (tức là, không có cạnh tranh) hoặc có cạnh tranh hoàn hảo, và các thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Trong các trường hợp trước, mức độ cạnh tranh, theo định nghĩa, là cố định, còn dưới cạnh tranh không hoàn hảo hành động của hãng có thể ảnh hưởng đến mức độ hay phạm vi cạnh tranh. Tập quán về địa hạt độc quyền cho một thí dụ về hành động kiềm chế có thể ảnh hưởng đến mức độ cạnh tranh. Giả sử rằng có hai hãng trong ngành. Có thể chứng tỏ rằng khi các nhà sản xuất kí các hợp đồng độc quyền địa hạt như vậy với các nhà phân phối, độ co dãn của đường cầu đối mặt mỗi hãng cho các sản phẩm của nó sẽ thấp hơn. Do đó, với mỗi giá do đối thủ của hãng đặt ra, tối ưu đối với hãng là đặt một giá cao hơn. Tác động thuần là hiển nhiên: Giá cân bằng sẽ cao hơn. Thật vậy giá cân bằng có thể cao hơn nhiều đến nỗi lợi nhuận của các nhà sản xuất là cao, dù là họ có khả năng thâu ít, nếu có, lợi nhuận của các nhà phân phối. (Trong cạnh tranh hoàn hảo giữa các nhà phân phối lợi nhuận của họ bằng không).

Đây là thí dụ của một tập quán hạn chế cạnh tranh nhằm tăng giá. Trong môi trường cạnh tranh không hoàn hảo các hãng luôn đối mặt với mâu thuẫn liệu cạnh tranh hay câu kết. Chúng có thể tăng lợi nhuận bằng cách thử bán rẻ hơn đối thủ và hút khách hàng của họ, hoặc bằng cách thuyết phục các đối thủ cạnh tranh cấu kết với chúng để nâng giá. Ở Hoa Kì định giá câu kết tường minh là bất hợp pháp. Nhưng có thể có các tập quán tạo thuận lợi cho câu kết ngầm, hoặc có các tác động giống câu kết. Các tập quán khét tiếng như vậy và có lẽ nổi bất nhất, là chính sách "đáp ứng cạnh tranh". Một hãng công bố rằng nó sẽ "không bị bán rẻ". Nó sẽ đáp ứng mọi khoản cắt giảm giá của đối phương. Nghe có giống một hệ thuyết về ứng xử cạnh tranh? Sai: Nó thực tế là một tập quán gây tăng giá tiêu dùng. Mọi đối thủ đều biết rằng không bõ hạ giá. Cạnh tranh giá đơn giản không thể được dùng để kiếm khách hàng. Chính sách này cho phép một cân bằng trong đó giá cartel (độc quyền) có thể được duy trì.

Làm tăng chi phí của đối thủ

Trong môi trường cạnh tranh không hoàn hảo, lợi nhuận của một hãng phụ thuộc vào chi phí của nó so với của các hãng khác. Thí dụ, với cạnh tranh Bertrand lợi nhuận trên đơn vị của một hãng đơn giản bằng hiệu số giữa chi phí biên của nó và của đối thủ. Một hãng có thể tăng lợi nhuận như thế hoặc bằng cách giảm chi phí của mình, hoặc làm tăng chi phí của đối thủ. Rõ ràng là có cạnh tranh huỷ diệt -khi mỗi hãng cố làm tăng chi phí của các đối thủ của mình- cũng như có cạnh tranh xây dựng. [4]

Chểnh mảng về quản lí

Lí thuyết chuẩn cho rằng các hãng, bất luận trong các thị trường cạnh tranh hoặc độc quyền, sản xuất bất kể sản phẩm nào ở mức giá khả dĩ thấp nhất. Chúng có đầy đủ khuyến khích để giảm chi phí, cân đối chi tiêu ngày nay về giảm chi phí với lợi ích nhận được. (Thực ra, nếu đầu ra là thấp hơn dưới độc quyền, sẽ có ít khuyến khích để giảm chi phí, vì tổng tiết kiệm từ giảm chi phí trên đơn vị sản xuất sẽ nhỏ hơn). Thế mà có nhận thức rộng rãi rằng các hãng được giải phóng khỏi kỉ luật của thương trường thường là không hiệu quả. Trong văn khoa cũ hơn (Leibenstein 1966) điều này được nhắc đến như phi hiệu quả-χ. Lí thuyết gần đây đã đóng góp vào sự hiểu biết hiện tượng này của chúng ta theo hai cách.

Thứ nhất, bởi vì thông tin không hoàn hảo thường khó cho các cổ đông để nói rằng hãng có hiệu quả, trừ bằng cách so sánh. Trong đoạn đầu của chương này, chúng ta đã chứng tỏ thông tin do thành tích tương đối cung cấp như thế là quan trọng sống còn ra sao, trong phán xét ban quản lí hãng làm việc tốt đến đâu; thông tin như vậy có thể và có đóng một vai trò xây dựng quan trọng trong thiết kế hệ thống khuyến khích cũng như trong lựa chọn các nhà quản lí để cất nhắc và trong phân bổ nguồn lực giữa các đơn vị tranh đua. Dưới độc quyền, với một nhà sản xuất duy nhất, thông tin này thiếu, với các hệ quả có thể tiên đoán được.

Trong khi kinh tế học thông tin như thế đã giải thích tầm quan trọng của cạnh tranh để cung cấp cơ sở cho thiết kế cơ cấu khuyến khích và, rộng hơn, cho đánh giá thành tích quản lí, nó cũng cung cấp một giải thích vì sao các cơ chế kiểm soát như vậy lại quan trọng đến thế, như chúng ta đã thấy ở các chương trước. Ở đó chúng ta đã lưu ý sự công nhận càng tăng của các hạn chế về mức kiểm soát, hoặc do biểu quyết của cổ đông hoặc do cơ chế thôn tính, áp đặt lên ứng xử quản lí. Có tư liệu khá tốt về những khả năng cho quản lí làm bậy - sự bất tài, hoặc tồi hơn. Những bất hoàn hảo này trong các hệ thống kiểm soát quản lí làm cho cạnh tranh trong thị trường sản phẩm càng quan trọng. Thị trường cạnh tranh sản phẩm áp đặt kỉ luật lên ban quản lí trong các công ti lớn do công chúng nắm giữ mà không có được bằng cách khác khác.

Định nghĩa thị trường thích đáng

Đến giờ phải rõ là quan niệm mới cho những viễn cảnh khác rõ rệt về chính sách cạnh tranh so với các quan niệm cũ cung cấp. Như một minh hoạ, xét vấn đề định nghĩa thị trường thích đáng.

Đã trở thành tập quán chuẩn để bắt đầu đánh giá tính hiệu quả của cạnh tranh bằng một phân tích thị trường sản phẩm và địa lí "thích đáng". Cái mà hãng đang sản xuất là thay thế gần cho sản phẩm phải sản xuất? Nếu chi phí vận tải là cao, thì một nhà sản xuất ở xa không trong cùng thị trường địa lí và không gây ra mấy cạnh tranh thật sự. Giảm các chi phí vận tải đối với nhiều sản phẩm tạo ra một thị trường địa lí rộng hơn. Trong phạm vi một thị trường địa lí rộng hơn có nhiều nhà sản xuất hơn, và vì thế thị trường chắc sẽ cạnh tranh hơn. Điều này đã dẫn một số nhà quan sát đi đến kết luận rằng trong môi trường toàn cầu mới chính sách chống trust thực tế không cần thiết. Có thể chỉ có ba nhà sản xuất ôtô chính ở Hoa Kì, nhưng có nhiều hơn các nhà sản xuất chính trên thế giới. Nhiều trong số họ có cạnh tranh ở Hoa Kì, và có lẽ tất cả họ đều có thể. Như thế thị trường ôtô là cạnh tranh.

Có sự thật nào đấy trong quan niệm này, hoặc trình bày chính xác hơn: Mở cửa các thị trường quốc tế, giảm các rào cản thương mại, là một trong những công cụ chính sách cạnh tranh quan trọng nhất. Nhưng tuy có một số, có lẽ nhiều, sản phẩm mà cạnh tranh quốc tế là đủ, có nhiều sản phẩm mà điều này là không đúng.

Các thị trường có thể "bị khu biệt" không chỉ vì các chi phí vận tải, mà cả vì các rào cản thông tin và tiếp thị. Chi phí chuyên chở ôtô từ Châu Âu sang Mĩ tương đối thấp ba mươi hay bốn mươi năm trước. Thế mà ôtô Châu Âu chỉ tạo cạnh tranh hạn chế, một phần vì thiếu hệ thống đại lí thoả đáng (và hệ thống đại lí độc quyền không nghi ngờ gì đã gây khó khăn cho hãng ôtô Châu Âu thiết lập hệ thống đại lí toàn quốc) và một phần vì thông tin hạn chế về các xe này cho người tiêu dùng Mĩ.

Trong phạm vi các thị trường khu biệt, lợi tức với qui mô có thể là một rào cản tham gia hữu hiệu. Các tuyến phân phối có cùng kinh tế theo qui mô hay phạm vi mà chúng ta gắn với điện thoại địa phương và các dịch vụ công cộng khác. Chi phí biên của giao hàng đến cửa hàng B nằm giữa A và C có thể nhỏ, và chi phí biên của giao một nhãn bia thứ hai cho bất kể cửa hàng nào có thể là nhỏ. Như thế trong nhiều khu chỉ có hai hay ba nhà phân phối bia. Chỗ của bất hoàn hảo cạnh tranh trong ngành bia có thể không phải chủ yếu ở sản xuất bia (với sản xuất tính kinh tế theo qui mô tỏ ra hạn chế hơn) như trong phân phối nó.

Chính sách cạnh tranh và những hạn chế của nó

Trong khi quan niệm mới nhấn mạnh phạm vi quan trọng cho chính sách cạnh tranh, nó cũng thừa nhận rằng chính sách cạnh tranh có thể có các tác động có hại. Bốn mối lo nảy sinh. Thứ nhất, trong một số trường hợp chính sách cạnh tranh được dùng để hạn chế cạnh tranh. Một hãng, lo về đe doạ cạnh tranh của hãng khác, buộc tội nó có tập quán thương mại không lành mạnh. Giá thấp hơn bị coi là giá diệt nhau. Và phân biệt định giá diệt nhau khỏi định giá cạnh tranh tốt, theo kiểu cũ, là một việc không dễ. Quan niệm cũ cho rằng giá dưới chi phí biên là giá diệt nhau. Nhưng một khi chúng ta tính đến việc học qua làm, chi phí biên thoả đáng không phải là chi phí biên hiện hành. Hãng phải tính đến giảm về chi phí biên do sản xuất thêm ngày nay gây ra. (Khi thiếu chiết khấu, điều này có tác động hạ chi phí biên hiệu lực hiện hành xuống chi phí biên dài hạn của hãng). Nhưng các chi phí biên "dài hạn" - tính đến giảm chi phí sản xuất biên như kết quả của học tập trong tương lai - chỉ là dự tính. Một hãng có thể khai là nó tính giá thấp bởi vì tin rằng nó cho nó một lợi thế chiến lược, đơn giản như kết quả học hỏi. Đối thủ thì cho rằng hãng này tìm cách diệt nó. Thực tiễn, cả hai có thể là không thể phân biệt được.

Thứ hai, các chính sách chống trust gây trở ngại cho các nỗ lực hợp tác trong R&D. Mối lo ngại này đã dẫn đến qui định cho phép một số nỗ lực hợp tác R&D. Một số chủ trương miễn thêm, trong khi những người khác lại lo rằng dưới chiêu bài hợp tác R&D, các hoạt động câu kết rộng hơn được tiến hành.

Thứ ba, các chính sách chống trust đặt các hãng Mĩ vào thế bất lợi so với các hãng nước ngoài, nhiều trong số đó không phải chịu các qui định chống trust nghiêm ngặt.

Thật khó biết cái gì làm cho đòi hỏi rằng "to" là cần thiết cho tính cạnh tranh quốc tế. Trong nhiều trường hợp không có bằng chứng về tính kinh tế theo qui mô hay phạm vi quan trọng được đưa ra, và thiếu bằng chứng như vậy, sự tranh luận dường như là một lí lẽ tự-xưng cho việc đề cao quyền lực kinh tế. Khi có bằng chứng về tính kinh tế theo qui mô, chính phủ đối mặt với một tình thế khó xử: một sự đánh đổi giữa tính hiệu quả theo qui mô và sự hành sự tiềm năng của quyền lực thị trường. Chỉ trong các trường hợp nơi có đủ cạnh tranh quốc tế để hạn chế hành sự quyền lực thị trường thì mới rõ cách giải quyết mâu thuẫn ra sao.

Mối lo cuối cùng về chính sách chống trust là chi phí của nó. Chi phí tranh tụng đã lên rất cao. Các nhà kinh tế học là những người hưởng lợi chính, nhưng điều này khó thể là cơ sở cho khuyến nghị nó.
Không có câu trả lời dễ cho câu hỏi phải thiết kế một chính sách cạnh tranh ra sao để nó "công bằng" và thúc đẩy hiệu quả kinh tế, nhưng chi phí thực hiện nó là phải chăng.

Quan niệm mới cho chúng ta một số gợi ý không quả quyết. Có lẽ chúng ta phải dùng nhiều hơn đến các qui tắc per se (tự nó). Cách xử thô bạo (hay hiệu quả thô ráp) mà các qui tắc như thế cung cấp có thể là không thô bạo hơn, và ít tốn kém hơn nhiều, so với loại quá trình toà xét xử hiện đang được dùng. Như thế, bất chấp việc sử dụng sự phòng thủ "hiệu quả" cho các tập quán kiềm chế từ lâu, một vài trường hợp nơi chúng là quan trọng dường như đã được ghi chép lại. Các tập quán kiềm chế như các quan hệ kinh doanh độc quyền và các địa hạt độc quyền có lẽ phải đơn giản coi là bất hợp pháp.


Cạnh tranh và các vấn đề chuyển đổi

Vấn đề cạnh tranh đặt ra một tập các vấn đề cho các nước Đông Âu hiện trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Một vấn đề trung tâm của quá trình chuyển đổi là tốc độ tư nhân hoá (xem chương 6). [5]

Những người chủ trương tư nhân hoá nhanh có cái nhìn thần thoại hoá về các quá trình thị trường. Trong cách nhìn của họ, các thị trường nhanh chóng làm cho các tài sản được sử dụng bởi những người có thể sử dụng chúng một cách hữu hiệu nhất. Loại bỏ các rào cản thương mại và các rào cản tham gia khác nhanh chóng dẫn đến giải phóng các năng lực kinh doanh bị dồn nén. Tôi đã tham gia vào các cuộc thảo luận nơi những lo ngại về thiếu vận tải thoả đáng để đưa các sản phẩm của nông dân ra thị trường, về thiếu những người trung gian để mua các mặt hàng của nông dân (để phân phối chúng trực tiếp ra các thị trường hoặc đưa đến các nhà máy chế biến) và cung cấp cho nông dân đầu vào, như hạt giống và phân bón, về thiếu tín dụng để tài trợ mua đầu vào - tất cả những cái này và những thiếu sót thị trường khác, người ta lập luận, sẽ được thoả mãn "trong vòng khoảng mấy tuần" bởi một loạt các nhà doanh nghiệp mới tăng lên nhanh chóng, được bổ sung, ở nơi cần, bởi một cuộc xâm lấn của các nhà kinh doanh nước ngoài. Những mối lo ngại về thiếu cạnh tranh và về các rào cản tham gia do thị trường gây ra - những thứ đã ám ảnh văn khoa tổ chức công nghiệp suốt mười năm qua - đã bị gạt bỏ ngay lập tức: Không cần đến các luật chống độc quyền, chừng nào mà bản thân nhà nước không tạo ra các rào cản. Adam Smith đơn giản đã sai khi ông viết, "Những người trong cùng một ngành kinh doanh hiếm khi gặp nhau, ngay cả để vui vẻ và giải trí, mà cuộc nói chuyện có kết cục là một âm mưu chống dân chúng, hoặc là thủ đoạn nâng giá nào đấy".

Tôi đã lập luận rằng cần nhiều thứ hơn "cạnh tranh không bị trói buộc" rất nhiều để cho các thị trường hoạt động có hiệu quả: Phải có, thí dụ, các thị trường tài chính hoạt động trôi chảy, và phải có khung khổ pháp lí cho phá sản và cho thực thi các hợp đồng. Trong số những "nhân tố cần thiết khác" cho thành công là một tập các luật để đảm bảo khả năng tồn tại của cạnh tranh. Làm cho cạnh tranh hoạt động có thể là đặc biệt khó giải quyết ở một số trong các nước chuyển đổi này. Để cho cam kết của chính phủ về cạnh tranh là đáng tin cũng khó ngang thế; không có sự cam kết như vậy, các chính phủ ở các nước này sẽ bị các nỗ lực xin bảo hộ nhâu nhâu quấy rầy.

Cạnh tranh mạnh và các chính sách thương mại tự do

Thật vậy, ở mọi nước, có các áp lực chính trị mạnh mẽ cho bảo hộ khỏi cạnh tranh (như Adam Smith đã nhấn mạnh)- kể cả khỏi cạnh tranh từ nước ngoài và cạnh tranh trong nội bộ. Tôi nghi rằng điều này chắc là đúng ở các nước Đông Âu chưa có kinh nghiệm cạnh tranh trước đây. Một số bất lợi của cạnh tranh- như những công việc kinh doanh thất bại - sẽ trở nên rõ rành rành trước khi một số lợi thế dài hạn của cạnh tranh tự biểu lộ. Hơn thế nữa, các hệ tư tưởng mà dưới chúng nhiều nhà lãnh đạo doanh nghiệp và chính trị đã trưởng thành, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của phối hợp trong nội bộ các độc quyền nhà nước và những bất lợi của các thị trường không được tổ chức, được bổ sung bởi quan điểm phổ biến về tầm quan trọng của "qui mô to lớn" - các nước này, người ta viện dẫn, sẽ cần đến các tổng công ti lớn, các tập đoàn lớn để cạnh tranh với các công ti lớn của Tây Âu, Nhật Bản, và Hoa Kì. Cuối cùng, các lí lẽ về ngành công nghiệp non trẻ cần bảo hộ sẽ được dùng để biện hộ cho sự bảo hộ "tạm thời" khỏi cạnh tranh nước ngoài khi các nước này thích nghi với các tiêu chuẩn khác cần cho buôn bán với các nước không cộng sản.

Các lực phi cạnh tranh sẽ còn được tăng cường hơn nữa bởi vì các quan hệ làm việc cá nhân mật thiết đã có thể được thiết lập trong những ngày khi toàn bộ ngành nằm trong một tổ chức độc quyền nhà nước duy nhất. Sẽ có thiên hướng tự nhiên của một số người này, những người đã hoà đồng với ứng xử hợp tác, còn bây giờ những phần ngành mà họ phụ trách được cho là phải cạnh tranh lẫn nhau, để thử tổ chức các thị trường "trật tự hơn" và thực hiện các "liên doanh cùng có lợi" - các tên đội lốt cho ứng xử thông đồng. Căn cứ vào vai trò kiểm soát hạn chế mà cạnh tranh tiềm năng và cạnh tranh quốc tế, ở tầm ngắn hạn, ít nhất trong nhiều ngành, chắc sẽ đóng, ứng xử câu kết như vậy có thể là tối đa hoá lợi nhuận. Như Willig (1992) đã nhấn mạnh, cần các luật chống độc quyền mạnh mẽ, và thực hiện các luật này dễ hơn nhiều trước khi quá trình tư nhân hoá bắt đầu. Một khi nó khởi động, các giới có thế lực sẽ nảy sinh cố hạn chế phạm vi cạnh tranh.

Các hệ quả của thiếu cạnh tranh là rõ rệt trong trường hợp của chế biến thực phẩm. Nông dân sản xuất các thứ dễ hư phụ thuộc vào các nhà chế biến địa phương (đặc biệt căn cứ vào những hạn chế của hệ thống vận tải), và các nhà chế biến này có thể hành sự quyền lực độc quyền mua để hạn chế giá trả cho nông dân. Đặc lợi độc quyền người mua, thay cho chuyển đến cho chính phủ, lại dồn cho chủ của các nhà máy chế biến: Nông dân thấy ít lợi từ tư nhân hoá; đơn thuần chỉ là sự thay đổi ai nhận đặc lợi.

Những cam kết cho cạnh tranh

Có nhiều thứ mà các nước Đông Âu có thể làm để cho cam kết của họ về cạnh tranh là đáng tin hơn, ngoài việc chỉ thông qua các luật chống độc quyền mạnh mẽ và không áp đặt những cản trở thương mại. Một trong những cam kết hữu hiệu nhất sẽ là tham gia Thị trường Chung - và sự thâu nạp các nước Đông Âu vào Thị trường Chung có thể là một trong những hình thức giúp đỡ quan trọng nhất mà Tây Âu có thể đưa ra cho Đông Âu, không chủ yếu (trong ngắn hạn) bởi vì các lợi ích tiềm năng từ thương mại mà nhiều hơn là bởi vì những lợi ích tiềm năng từ cam kết cho cạnh tranh và thương mại. Nó loại bỏ (hay chí ít làm nản lòng) hàng loạt các hoạt động kiếm đặc lợi. Cuối cùng, mở cửa quá trình tư nhân hoá cho các hãng nước ngoài có thể có lợi ích vượt quá nguồn vốn bổ sung và tinh thần nghiệp chủ - trong cạnh tranh được tăng cường.

Chính phủ như một nguồn của quyền lực độc quyền

Trong khi chương này quan tâm tới cái mà chính phủ có thể và phải làm để tạo thuận lợi cho cạnh tranh trong khu vực tư nhân, chúng ta cần nhớ rằng chính phủ thường là nguồn của quyền lực độc quyền và đôi khi tạo thuận lợi cho cấu kết. Giả thuyết điều tiết cầm giữ của Stigler (1971), tuy có thể không có tính tổng quát như ông hình dung, [6] chắc chắn cảnh báo chúng ta về khả năng rằng các nhà điều tiết có thể giúp đảm bảo ứng xử thông đồng được duy trì, khi các lực lượng cạnh tranh làm cho nó khó đứng vững. (Ngành rượu ở Hoa Kì có lẽ cho một thí dụ về điều này). [7]

Thích được giải phóng khỏi kỉ luật cạnh tranh, chính phủ chẳng khác các định chế khác trong xã hội chúng ta, và nó không kém lanh lợi để đưa ra các lí lẽ vì sao cạnh tranh trong lĩnh vực của nó là không thích hợp. Các trường công không muốn cạnh tranh với các trường tư với các điều kiện tài chính ngang nhau. Bưu điện không muốn cạnh tranh với các nhà chuyển phát thư loại một.

Trong thập kỉ qua đã có các đợt tư nhân hoá, chuyển các doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp tư nhân. Trong nhiều trường hợp quan trọng hơn chuyển đổi "sở hữu" là chuyển đổi cơ cấu thị trường - bắt các doanh nghiệp này phải cạnh tranh. Thách thức là nghĩ ra các cơ chế để đưa nhiều cạnh tranh vào cung ứng các dịch vụ công. Tuy cạnh tranh chính trị có tạo sự kiểm soát nào đấy, nó là một công cụ cùn, không sắc bén, chỉ có tính hiệu quả hạn chế. Phi tập trung hoá, phân cấp cung ứng dịch vụ công cho các cộng đồng địa phương là một cách để tăng cường cạnh tranh trên lĩnh vực này, sẽ được thảo luận ngắn gọn ở chương 9.

Quá lo về độc quyền

Chương này tuy đã nhấn mạnh tầm quan trọng của các chính sách cạnh tranh thật sự đối với các nền kinh tế chuyển đổi, có mối nguy hiểm khác mà nỗi sợ hãi ám ảnh đã thành quá rõ rệt trong vài năm qua. Trong quá trình chuyển đổi có nhiều cơ hội cho lợi nhuận "chênh lệch giá". Các thị trường sẽ không điều chỉnh tức thì để loại bỏ các khoản lợi nhuận này. Hàng thập kỉ nhân dân ở các nước nguyên xã hội chủ nghĩa đã được nhồi sọ rằng lợi nhuận là xấu xa, và sẽ có- và đã có- nỗ lực để coi lợi nhuận như bằng chứng của thực hành quyền lực độc quyền. Sẽ có các áp lực để xây dựng, nhân danh ngăn chặn chủ nghĩa tư bản độc quyền, một chế độ điều tiết gần như lặp lại nhiều tính chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Sự lo sợ quyền lực độc quyền sẽ dẫn đến các hành động làm giảm cạnh tranh.


Chủ nghĩa xã hội thị trường và cạnh tranh

Chúng ta đã lập luận trong chương này rằng cạnh tranh thực sự về cơ bản là thiếu trong mô hình Arrow-Debreu chuẩn - một sự thực mà các nhà xã hội chủ nghĩa thị trường đã không nắm được. [8] Chủ nghĩa xã hội thị trường có thể bảo tồn được tính chất cốt yếu của [9] thị trường cạnh tranh: Các hộ gia đình và các hãng được bảo chấp nhận giá. Các nhà xã hội chủ nghĩa thị trường nghĩ rằng bằng cách lệnh cho các nhà quản lí tối đa hoá lợi nhuận, chấp nhận giá cho trước, họ có thể đạt hiệu quả Pareto- cái mà một nền kinh tế cạnh tranh lí tưởng hoá có thể đạt, nhưng một nền kinh tế cạnh tranh thực tế không đạt được. Như thế, tuy các nhà xã hội chủ nghĩa thị trường đã chứng tỏ chủ nghĩa xã hội thị trường có thể làm tốt như mô hình của nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo làm, việc các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường không đón nhận cạnh tranh giải thích cho sự thất bại của nó không kém các thiếu sót khác được nhắc tới ở các chương trước.

Trở lại chủ đề cơ bản: Giả như mô hình tân cổ điển mô tả tốt nền kinh tế thị trường, chủ nghĩa xã hội thị trường đã có cơ hội thành công tốt hơn nhiều. Nhưng ứng xử chấp nhận giá phản ánh mờ nhạt ý nghĩa thật của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Có lẽ thật mỉa mai rằng điều này hoá ra là một trong những nguồn chủ chốt của thất bại của chủ nghĩa xã hội thị trường. Rốt cuộc, như chúng ta đã lưu ý ở chương 1, chính nỗi lo về chủ nghĩa tư bản độc quyền là cái đã tạo động lực gốc cho chủ nghĩa xã hội thị trường- lòng tin rằng cạnh tranh sẽ không sống sót ở các nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Cả các sự kiện và phát triển trong lí thuyết kinh tế đã xác nhận cạnh tranh hoàn hảo không có khả năng tồn tại, nhưng mối lo ngại về chủ nghĩa tư bản, theo cùng cách, đã tỏ ra không có cơ sở.


Kết luận

Cạnh tranh là quan trọng. Nó quan trọng với tư cách là nguồn thông tin- để biết liệu các hãng thực có hiệu quả không. Nó quan trọng để thúc đẩy đổi mới, như sẽ thấy ở chương sau. Dạng cạnh tranh-ứng xử chấp nhận giá- được nêu ở mô hình Arrow-Debreu không phản ánh những quan tâm này. Các nền kinh tế thực không cạnh tranh theo ý nghĩa của mô hình Arrow-Debreu. Các nhà xã hội chủ nghĩa thị trường đã bị mô hình Arrow-Debreu làm lạc lối, nghĩ rằng họ có thể có mọi ưu điểm của nền kinh tế thị trường đơn giản bằng dùng hệ thống giá. Thực vậy họ đã nghĩ rằng họ có thể làm tốt hơn các nền kinh tế thị trường thật bởi vì họ nhận ra rằng ở các nền kinh tế thị trường thật các hãng lớn không có ứng xử chấp nhận giá. Giả như mô hình Arrow-Debreu thâu tóm bản chất của các nền kinh tế thị trường, họ đã có thể đúng: Cạnh tranh hoàn hảo không có khả năng sống sót trong nền kinh tế hiện đại, không chỉ vì sự phổ biến của lợi tức tăng dần thông thường (nhân tố mà những thảo luận sớm hơn đã tập trung vào) mà cũng vì tầm quan trọng của đa dạng hoá sản phẩm, của thông tin không hoàn hảo, và đổi mới.

Nhưng cạnh tranh là quan trọng vì các lí do khác những cái được mô hình Arrow-Debreu hình dung, và chính việc không nhận ra các vai trò cốt yếu này đã đóng một vai trò quan trọng trong thất bại của chủ nghĩa xã hội thị trường ở mọi biến thể của nó. Thật cấp bách là các nước Đông Âu phải nhận ra tầm quan trọng của cạnh tranh bền vững khi họ thiết kế các chương trình chuyển đổi của mình.

Chương 3 đã nhấn mạnh một giả thiết trung tâm của phân tích này: giả thiết về thông tin hoàn hảo. Ở đó ta chú tâm vì sao các nền kinh tế cạnh tranh (với ứng xử chấp nhận giá), nhìn chung, không có hiệu quả Pareto (ràng buộc) khi thông tin không hoàn hảo. Chương này cho thấy thêm hai hệ quả của thông tin không hoàn hảo: Thứ nhất, nó có nghĩa rằng nhìn chung thị trường là không cạnh tranh hoàn hảo; và thứ hai, nó cho một vai trò mới cho cạnh tranh thật sự, loại cạnh tranh mà chúng ta thực thấy.

Thông tin không hoàn hảo, tuy vậy, không phải là hạn chế duy nhất của hệ thuyết truyền thống: Nó giả thiết là không có thay đổi công nghệ. Thay đổi công nghệ là biểu hiện đặc trưng của nền kinh tế hiện đại, và do đó thật ngạc nhiên -có thể nói là sốc- là một lí thuyết bỏ qua thay đổi công nghệ lại chiếm một vị trí trung tâm lâu đến vậy. Thay đổi công nghệ, như thông tin không hoàn hảo, làm thay đổi triển vọng của cạnh tranh hoàn hảo và vai trò của cạnh tranh thực. Đây là đề tài của chương tiếp theo.


8. Đổi mới (Inovation)

Thế kỉ qua được đánh dấu bởi sự tăng lên chưa từng có về năng suất lao động và tiêu chuẩn sống. Những đổi mới sáng tạo, như ôtô, transistor, máy tính, máy bay, đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của chúng ta. Thành công của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa một phần không nhỏ là do thành công của nó trong thúc đẩy đổi mới, và sự thất bại của các nền kinh tế Xôviết một phần không nhỏ là do sự bất lực của chúng để duy trì đổi mới, ngoài lĩnh vực khá hẹp, chủ yếu bao quanh lĩnh vực quân sự.

Đổi mới đã không có vai trò nào trong tranh luận thị trường/chủ nghĩa xã hội thị trường, hệt như đổi mới không có vai trò gì trong hệ thuyết tân cổ điển. Thực ra, có các ám chỉ trong những thảo luận phổ thông về các nền kinh tế thị trường thúc đẩy đổi mới ra sao, nhưng mô hình Arrow-Debreu, như tôi đã lưu ý đi lưu ý lại, là mô hình cho tóm tắt được trình bày khéo nhất của hệ thuyết tân cổ điển và tạo cơ sở cho lòng tin rộng rãi vào tính hiệu quả của các thị trường cạnh tranh, giả thiết một cách tường minh rằng công nghệ được cho trước. Không có cơ hội cho đổi mới.

Sự thực rằng đổi mới bị hệ thuyết chuẩn bỏ qua đã làm cho những người đi tìm kiếm các hệ thống kinh tế lựa chọn khả dĩ khác cũng bỏ qua đổi mới. Về dài hạn đây có lẽ là sự phê phán chỉ trích nhất của mọi biến thể của chủ nghĩa xã hội, kể cả chủ nghĩa xã hội thị trường. Như tôi đã chứng minh suốt bài giảng này, bằng cách tập trung vào vì sao chủ nghĩa xã hội thị trường đã thất bại, chúng ta đã có một lăng kính qua đó để thấy những thiếu sót của các mô hình tân cổ điển chuẩn của nền kinh tế.

Một phát triển mới đây trong lí thuyết kinh tế là sự thừa nhận tầm quan trọng của thay đổi công nghệ đối với các nền kinh tế công nghiệp hiện đại, [10] không phải là tầm quan trọng của nó đã không được thừa nhận sớm hơn. Như Schumpeter than phiền (1942), những quan tâm này đã không được đưa vào xu hướng chủ đạo của lí thuyết kinh tế. Những than phiền của Schumpeter là rất chính đáng- thậm chí ngày nay hầu hết các chương trình cao học không bao gồm thứ gì, trừ những thảo luận hết sức hời hợt về thay đổi công nghệ trong các cua học chính. Tất nhiên không chỉ có thay đổi công nghệ là quan trọng mà là các quyết định của hãng ảnh hưởng đến nhịp độ đổi mới; những quyết định về sản xuất bị ảnh hưởng bởi các quyết định đó tác động ra sao đến học tập (học qua thực hành). [11] Các hãng phân bổ nguồn lực ra sao cho nghiên cứu và triển khai, R&D, là mối quan tâm chính của các doanh nghiệp công nghiệp hiện đại.

Phê phán của tôi đối với mô hình chuẩn, tuy vậy, đi xa hơn phàn nàn rằng mô hình không cho chúng ta sự thấu hiểu nào vào các câu hỏi các hãng ra quyết định ra sao, thí dụ, chi bao nhiêu cho R&D. Đúng hơn, là mô hình Arrow-Debreu chuẩn (hệ thuyết cạnh tranh) không những không bao gồm những thay đổi (nội sinh) về công nghệ mà khung khổ của nó là không nhất quán một cách căn bản với kết hợp thay đổi công nghệ. Quan trọng hơn, không chỉ là cạnh tranh không hoàn hảo- tức là các hãng không phải là người chấp nhận giá- mà là hình thức và bản chất của cạnh tranh - cạnh tranh để phát triển các sản phẩm mới và khác - đơn giản không được mô hình Arrow-Debreu chuẩn thể hiện tốt.


Đổi mới và cạnh tranh

Những người chủ trương hệ thuyết chuẩn có thể cãi lí (hai thập niên trước) rằng đã là một chiến lược nghiên cứu hợp lí đi khai phá các mô hình đầu tiên không có thay đổi công nghệ; phải hiểu kĩ chúng trước khi chuyển sang các vấn đề khó hơn gắn với thay đổi công nghệ. Hiện nay chúng ta biết khá đủ về tiến bộ công nghệ và dường như khá thuyết phục là không thể mở rộng hệ thuyết chuẩn (theo bất kể cách dễ hiểu nào), hệ thuyết bỏ qua thay đổi công nghệ, để phân tích các nền kinh tế công nghiệp hiện đại, nơi đổi mới công nghệ là trung tâm.

Cạnh tranh không hoàn hảo và chiếm đoạt lợi tức

Lí do chính là đơn giản (và được Schumpeter hiểu kĩ): Các hãng tiến hành R&D nhằm nhận được tiền lời trên đầu tư của họ; để có lợi tức trên đầu tư, thì phải có cạnh tranh không hoàn hảo. Để thấy điều này, giả sử rằng một hãng phát minh ra cách sản xuất một sản phẩm với chi phí biên (không đổi) nhưng thông tin về công nghệ mới này có thể kiếm được một cách tự do. Thì với cạnh tranh (Bertrand) khốc liệt, giá sẽ bị đẩy xuống mức này (giá bằng chi phí biên). Nhưng mà, vì chi phí biên bằng chi phí khả biến, hãng tiến hành đổi mới sẽ không có khả năng nhận được bất kể lợi tức nào trên đầu tư của mình trong giảm chi phí.

Các chính phủ đã nhận ra điều này từ lâu, và do đó họ cấp patent cho các hãng, tạo cho họ các quyền độc quyền tạm thời. Có thể có cạnh tranh vì R&D, nhưng bản chất của loại cạnh tranh này không được mô tả tốt bởi mô hình cạnh tranh cấp nhận giá. [12]

Các chi phí cố định

Không chỉ là cạnh tranh phải là không hoàn hảo, nếu muốn có bất kể đổi mới nào. Thay đổi công nghệ kéo theo các loại "tính không lồi" (các chi phí cố định, lắng chìm, lợi tức tăng theo qui mô) những cái làm nảy sinh cạnh tranh không hoàn hảo một cách tự nhiên. [13] Nếu hãng phát triển một cách rẻ hơn để làm ra các đồ dùng, thí dụ, thì tổng tiết kiệm chi phí càng lớn khi mức sản xuất càng lớn.

Một cách hình thức, nếu hàm sản xuất có dạng Q = AF(K,L), nơi K và L là các đầu vào cho quá trình sản xuất và A là trạng thái công nghệ, và nếu F có lợi tức không đổi (hoặc không gảm nhanh) đối với qui mô và A có thể được tăng bởi tăng đầu vào (đầu vào dành cho nghiên cứu), thì quá trình sản xuất như một tổng thể có lợi tức tăng đối với mọi yếu tố.

Học bằng cách làm

Nếu có học bằng cách làm, thì hãng sản xuất nhiều (hôm nay) có chi phí thấp hơn (trong tương lai), hệt như với các hàm chi phí giảm tiêu chuẩn. Theo một nghĩa, trừ khi có lợi tức giảm theo qui mô bù trừ (thí dụ, từ tính phi kinh tế theo qui mô mang tính tổ chức), các khu vực, trong đó R&D hoặc học bằng cách làm là quan trọng, là các độc quyền tự nhiên. Nhìn nhận từ viễn cảnh này, các độc quyền tự nhiên không chỉ hạn chế ở các dịch vụ công cộng như gas, nước, điện thoại và điện, mà chúng phổ biến tràn lan trong các nền kinh tế công nghiệp.

Độc quyền nhóm tự nhiên

Thậm chí khi không có độc quyền tự nhiên, có thể có độc quyền nhóm tự nhiên: Trong nhiều khu vực hình như có chi phí cố định lớn gắn với đổi mới, đủ lớn đến nỗi số các hãng có thể cạnh tranh tích cực là hạn chế. Điều này là đúng, thí dụ, với ngành hoá chất và sản xuất máy bay. Trong ngành sau dường như, không có trợ cấp của chính phủ, thì có thể chỉ có một hoặc hai nhà sản xuất máy bay phản lực chở khách trên toàn thế giới.

Thực ra, có cả tính kinh tế theo qui mô lẫn tính phi kinh tế theo qui mô: Thường khó quản lí R&D trong các doanh nghiệp có qui mô lớn, và kết quả là có bằng chứng nào đó rằng một phần không cân xứng của những đổi mới đã xảy ra ở các hãng nhỏ. Tuy IBM đã có khả năng duy trì thị phần áp đảo trong thị trường máy tính từ lâu, với sự xuất hiện của máy tính cá nhân, PC, các hãng nhỏ hơn không những có khả năng tham gia thị trường mà còn phát đạt nữa. Khi sự tập trung trong mảng thị trường này của thị trường máy tính đã giảm đi, thì sự tập trung trong các mảng khác như phần mềm (hoặc chí ít phần mềm hệ điều hành) thực sự đã tăng.

Cạnh tranh tiềm tàng sẽ đủ?

Trong chương trước tôi đã xem xét lí lẽ rằng ngay cả nếu có số lượng hạn chế các hãng, nền kinh tế vẫn có thể ứng xử một cách cạnh tranh: Cái mấu chốt không phải là mức cạnh tranh thực mà là mức cạnh tranh tiềm tàng. Khi tôi thảo luận vấn đề này ở chương trước, vấn đề là liệu, với sự hiện diện của tính không lồi, mối đe doạ tham gia có đảm bảo (1) rằng lợi nhuận bị đẩy xuống bằng không và (2) rằng hiệu quả kinh tế sẽ đạt được.

Sự tồn tại của lợi nhuận không nhất thiết thu hút tham gia: Cái mà các hãng lo là lợi nhuận sẽ là bao nhiêu sau khi tham gia. Nếu những người tham gia tin rằng sẽ có cạnh tranh khốc liệt, thì họ có thể sợ rằng giá sẽ bị kéo xuống, hoặc gần tới, chi phí biên. Khi có các chi phí lắng chìm (các chi phí không thể thu hồi nếu hãng rút khỏi ngành công nghiệp), thì tham gia bị cản trở. Hãng biết rằng trong trường hợp cạnh tranh khốc liệt như vậy, nó không thể đơn giản rút lui và thu hồi chi phí của mình.
Các chi tiêu về R&D không những là cố định (không thay đổi theo qui mô sản xuất) mà còn là các chi phí lắng chìm; một khi tiền đã được tiêu, không thể lấy lại được. Các chi phí cao, cố định, lắng chìm này hoạt động như các rào cản tham gia tự nhiên, hạn chế cả mức cạnh tranh thực lẫn phạm vi của cạnh tranh tiềm tàng.

Độc quyền và nhịp độ đổi mới

Cho đến đây tôi đã chứng minh rằng các ngành trong đó đổi mới là quan trọng chắc, may nhất, là cạnh tranh không hoàn hảo. Câu hỏi tiếp theo là, Ảnh hưởng của mức độ cạnh tranh lên nhịp độ đổi mới là thế nào? Sự tiến triển của sự hiểu biết của chúng ta về các vấn đề này đã có một lịch sử lạ kì, đáng được thảo luận vắn tắt.

Cách nhìn đầu tiên: Độc quyền Không khuyến khích đổi mới

Những thảo luận ban đầu về chủ nghĩa tư bản độc quyền đã gợi ý rằng đổi mới dưới các độc quyền sẽ là chậm. Các hãng sẽ nhận ra rằng những đổi mới mới sẽ phá huỷ giá trị của vốn đã được xây dựng trước kia của họ, và điều này sẽ làm cùn nhiệt tình của họ để tiến hành nghiên cứu. [14]

Khoảng ba mươi năm trước Arrow (1962b) cung cấp một lí lẽ khác là các độc quyền sẽ tiến hành quá ít nghiên cứu. Lí lẽ của ông đã dựa vào giả thiết rằng nhà độc quyền không chiếm được thặng dư người tiêu dùng gắn với hạ giá và rằng nhà độc quyền sản xuất ít hơn các đối thủ cạnh tranh, nên tiết kiệm chi phí thấp hơn. (Tổng tiết kiệm chi phí tỉ lệ với qui mô sản xuất). Cả hai giả thiết này đều có thể bị nghi ngờ. Nếu các nhà độc quyền có thể tiến hành định giá phi tuyến, thì họ có thể nhận được ít nhất một phần của thặng dư người tiêu dùng. Nếu tất cả các khu vực của nền kinh tế được đặc trưng bởi cạnh tranh không hoàn hảo, thì qui mô sản xuất trong phạm vi bất kể khu vực nào có thể lớn hơn hoặc ít hơn so với dưới cạnh tranh, phụ thuộc vào độ co giãn của cung lao động và độ co giãn của cầu đối với sản phẩm cá biệt, so sánh với các khu vực khác.

Tuyên bố có "quá ít nghiên cứu" dưới độc quyền, tất nhiên, hàm ý một so sánh. Có các câu hỏi về so sánh thoả đáng là gì. Cho trước mức đầu ra dưới độc quyền, mức R&D là có hiệu quả. Nếu mức đầu ra thấp hơn trong một số khu vực như kết quả của độc quyền, thì đáng tiến hành ít nghiên cứu. (Giá trị của giảm một mức cho trước về chi phí tỉ lệ với mức đầu ra). Điều này tất nhiên chỉ là sự phản ánh kết quả chung rằng ngay cả khi có độc quyền (về hàng hoá cuối cùng), nền kinh tế vẫn có hiệu quả sản xuất.

Một so sánh khả dĩ khác là so với một thị trường cạnh tranh, trong đó chính phủ tài trợ R&D. (Nếu, sau đổi mới, thị trường vẫn cạnh tranh, thì R&D phải nhận hỗ trợ của chính phủ). Nhưng khi đó chúng ta phải hỏi chính phủ tăng thu ra sao. Nếu chính phủ phải thu các khoản thuế méo mó, thì các loại thuế đó có thể gây ra các mức đầu ra thấp hơn (hệt như trong các hoàn cảnh mà định giá độc quyền gây ra các mức đầu ra thấp hơn) và do đó các mức chi tiêu cho R&D thấp hơn.

Hệ thống patent có thể được xem như một loại thuế lợi ích, với những người mua hàng trả, qua giá cao hơn, chi phí R&D liên quan. Trong sự hiện diện của thông tin không hoàn hảo liên quan đến ai hưởng lợi từ các đổi mới cá biệt (sao cho không thể áp các khoản thuế trọn gói lên những người thụ hưởng), sự đánh thuế như vậy có thể đáng mong mỏi. [15]

Cách nhìn thứ hai: Gia nhập quá thể dưới cạnh tranh

Tuy các lí lẽ trước gợi ý (chí ít trước khi chúng bị hạn chế) rằng với độc quyền có quá ít R&D, nó không cho một đánh giá liệu với cạnh tranh có quá nhiều hay quá ít R&D. Hiển nhiên, không có một hệ thống patent, các nhà nghiên cứu không thể nhận được bất kể lợi tức nào từ đổi mới của họ, và vì thế sẽ có quá ít nghiên cứu. Nhưng cái gì xảy ra nếu có một patent sống vô hạn sao cho nhà đổi mới có thể chiếm toàn bộ lợi tức từ đổi mới.

Đã có lo ngại rằng cạnh tranh vì patent có thể dẫn tới chi tiêu quá thể về R&D. Các khoản lợi nhuận mà các hãng chiếm đoạt khi chúng nhận được một patent đã không phản ánh lợi tức biên xã hội - nhận đổi mới sớm hơn một chút so với nó được phát triển nếu khác đi. [16] Hệ quả của một hãng mới tham gia vào cuộc đua patent có thể là phát minh xảy ra sớm hơn một ít so với nó có thể xảy ra nếu khác đi, thế nhưng lợi tức của hãng bằng giá trị của đổi mới.

Tất nhiên tham gia vào cuộc đua patent được xác định bởi lợi tức kì vọng: hãng phải tính đến sự thực rằng xác suất để thắng cuộc đua patent là nhỏ hơn một. Nếu giả như tất cả các hãng là hệt nhau, thì lợi tức kì vọng, hay trung bình, chính là giá trị patent chia cho số người tham gia. Việc tham gia xảy ra cho đến khi lợi tức kì vọng, hay trung bình, này bằng chi phí tham gia cuộc đua. Bài toán giống như bài toán hội chung (common pool): các thuyền đánh cá tham gia một hội chung, cho đến khi giá trị trung bình của thu hoạch của mỗi thuyền bằng chi phí của thuyền. Nhưng nếu tổng số thu hoạch tăng ít tỉ lệ hơn với số thuyền, thì thu hoạch biên của một chiếc thuyền thêm sẽ nhỏ hơn giá trị trung bình, và vì vậy, với tham gia tự do, sẽ có tham gia quá thể. Cũng thế, giá trị kì vọng (chiết khấu hiện thời) của patent tăng chậm hơn nhiều so với tăng số lượng của những người tham gia cuộc đua patent. (Tăng gấp đôi số người tham gia vào cuộc đua patent không chắc đẩy nhanh như thế thời gian kì vọng của phát minh để giá trị chiết khấu hiện tại của đổi mới tăng gấp đôi!) Như thế lợi tức xã hội biên cho một người tham gia thêm là ít hơn nhiều so với lợi tức tư nhân: Với tham gia tự do thì có tham gia quá thể.

Cách nhìn thứ ba: Cạnh tranh kiểu Schumpeter

Như đã lưu ý trước đây, Schumpeter đã nhận ra cạnh tranh là quan trọng với thay đổi công nghệ, tuy không hoàn hảo. Ông hình dung nền kinh tế như được đặc trưng bởi một sự kế tiếp nhau của các nhà độc quyền; đổi mới giống như một quá trình phá huỷ sáng tạo, khi một đổi mới làm lỗi thời đổi mới trước đó. Mối đe doạ tham gia đã là cái giữ các hãng cảnh giác. Hãng hiện hành không thể thanh thản trên vòng nguyệt quế của mình - áp lực cạnh tranh buộc nó phải tiến hành nghiên cứu. Như vậy các thị trường được đặc trưng bởi sự kế tiếp nhau của các độc quyền tạm thời.

Tương tự, trong thảo luận về gia nhập tự do ở trên tôi đã giả thiết rằng các hãng là đối xứng và rằng tham gia sẽ xảy ra cho đến khi lợi tức kì vọng (trung bình) bằng chi phí R&D: Lợi tức sẽ bằng không trong khu vực R&D, hệt như lợi tức bằng không ở các khu vực cạnh tranh khác của nền kinh tế. Cả hai kết luận này là đáng ngờ. [17]

Nhìn chung, lợi tức đối với đổi mới cho hãng hiện hành vượt lợi tức của hãng mới tham gia. Giả như hãng tham gia thành công, thị trường sẽ được đặc trưng bởi hai hãng. Trong lưỡng độc quyền, lợi nhuận sẽ thấp hơn dưới độc quyền, như vậy bõ cho hãng hiện hành tiến hành R&D vừa đủ để ngăn cản kẻ khác. Khi một hãng đã trở nên có uy tín, sẽ bõ để duy trì vị trí độc quyền. Hình như, Sumpeter đã nhầm trong mô tả đặc điểm các thị trường như sự kế tiếp nhau của các nhà độc quyền. Tất nhiên các sự kiện ngẫu nhiên (như phát minh ra transistor hay laser) có nghĩa rằng các vị thế độc quyền không được duy trì vĩnh viễn.

Kết luận của cách nhìn nêu ở trên rằng tham gia sẽ xảy ra cho đến khi lợi nhuận trung bình xuống bằng không, cũng không đúng. Cạnh tranh kéo lợi nhuận của người tham gia biên xuống không, nhưng lợi nhuận của các hãng nội biên- hãng hiện hành- là hoàn toàn dương ở điểm này.

Cách nhìn thứ tư: Hạn chế của cạnh tranh kiểu Schumpeter

Theo cách nhìn vừa mô tả, tuy Schumpeter sai trong quan niệm của ông về tính tạm thời của các độc quyền, tuy vậy, luận điểm của ông đúng rằng cạnh tranh tiềm năng là một cái kích thích quan trọng cho tiến hành nghiên cứu. Vì để duy trì vị trí độc quyền hãng hiện hành phải tiến hành nghiên cứu đủ để không bõ cho bất kể hãng khác nào tham gia vào.

Nhưng một giả thiết cốt lõi trong kết luận đó [18] là cạnh tranh R&D không "tuần tự"; tức là, nó không buộc chuỗi các quyết định tuần tự theo thời gian. Đúng hơn, một quyết định một lần cho mãi mãi được đưa ra về tốc độ nghiên cứu. Một khi chúng ta đưa ra giả thiết thực tế hơn về tốc độ nghiên cứu có thể được xét lại, thì ngay cả kết luận rằng cạnh tranh tiềm năng buộc các hãng tiến hành nghiên cứu "nhanh" bị nghi ngờ. Hãng hiện hành có thể dẫn đầu trong chương trình R&D và sau đó tiến hành một chính sách giữ nhịp R&D ở tốc độ độc quyền (chậm hơn). Những hãng tham gia tiềm năng biết điều đó, nếu họ nhập cuộc, nghiên cứu sẽ được tăng tốc (không chỉ một sự đe doạ sẽ làm vậy, mà là mối đe doạ có thể được chứng tỏ là tin được), và căn cứ vào sự dẫn đầu của nhà độc quyền, nó sẽ thắng. Vì các hãng định tham gia biết điều này, họ không vào cuộc. Cạnh tranh tiềm năng có thể có các tác động hạn chế trong kích thích nghiên cứu. [19]

Kết luận cũng giống thế trong trường hợp công nghệ thay đổi do học qua làm. [20] Học qua hành hàm ý, như chúng ta đã gợi ý, một loại chi phí giảm, như trong chuyện thông thường của độc quyền tự nhiên. Điều này tạo một lợi thế cho hãng sản xuất đầu ra lớn nhất. Tất nhiên, nếu có tác động lan toả 100 phần trăm, thì hãng sản xuất lớn nhất sẽ không có lợi thế, vì tất cả các hãng khác đều chia sẻ ngang nhau trong học hỏi. Nhưng chừng nào không có lan toả 100 phần trăm, thì cân bằng thị trường sẽ được đặc trưng bởi cạnh tranh không hoàn hảo, với hãng áp đảo có lợi nhuận. Vì hãng áp đảo có chi phí thấp hơn, nó có thể bán rẻ hơn bất kể đối thủ (thực tế hay tiềm năng) nào, và thậm chí dưới dạng cạnh tranh (ex post) [21] ít gay gắt hơn, như với cạnh tranh Cournot, một hãng với một lợi thế cạnh tranh nhỏ (ban đầu sản xuất hơn các đối thủ một chút) có thể chế ngự thị trường, vì sản xuất lớn tạo cho nó lợi thế hơn nữa về chi phí. [22]

Cách nhìn thứ năm: Những rắc rối thêm

Lí lẽ của tôi ở đoạn trên gợi ý rằng sẽ có đầu tư thấp về R&D trong một nền kinh tế thị trường. Ba cân nhắc thêm gây rắc rối cho phân tích, dù trên cân đối chúng có lẽ củng cố các kết luận liên quan đến đầu tư thấp.

Những hiệu ứng lan toả

Đầu tiên, tôi đã bỏ qua những lan toả thường là lớn gắn với R&D. Ngay cả với một hệ thống patent mạnh các hãng chỉ chiếm đoạt một phần của lợi tức xã hội của phát minh của họ. Một đổi mới có thể gợi những ý tưởng cho người khác, và giá trị của những ý tưởng đó có thể coi như một phần của lợi tức biên đối với phát minh. Thế mà lợi tức từ những ý tưởng này bình thường không thể chiếm đoạt được. Bởi vì những lan toả này - những ảnh hưởng ngoại sinh tích cực- chắc có đầu tư thấp trong R&D.

Tìm kiếm đặc lợi

Mặt khác, một số hoạt động R&D chẳng là gì hơn một nỗ lực để chiếm đặc lợi từ hãng khác nào đó. Điều này thấy khá thông thường trong dược phẩm. Mộ công ti dược sẽ tiêu một khoản tiền đáng kể để phát minh "quanh" một patent, tức là, để sáng chế một sản phẩm giống như một sản phẩm đang tồn tại nhưng không được phủ bởi patent bảo vệ sản phẩm đó. Đây là một thí dụ về R&D lãng phí về mặt xã hội.

Bản chất của cạnh tranh trong thị trường sản phẩm

Được biết rộng rãi, khi cạnh tranh là hạn chế, nó có thể có nhiều dạng.

Nhân tố quyết định thứ ba của quan hệ giữa lợi tức xã hội và tư nhân cho chi tiêu về R&D là bản chất của cạnh tranh trong thị trường sản phẩm sau khi đổi mới đã xảy ra. Giả sử có cạnh tranh giữa các nhóm hãng tìm những đổi mới tiết kiệm chi phí, và giả sử có cạnh tranh Bertrand trong thị trường sản phẩm. Khi đó lợi tức cho hãng thành công tìm ra công nghệ có chi phí thấp nhất đơn giản là hiệu số giữa chi phí sản xuất của nó và chi phí sản xuất của nhà sản xuất có chi phí thấp thứ nhì (nhân với qui mô sản xuất). Đây chính xác là lợi tức xã hội cho sáng chế này.

Mức đổi mới có thể khác mức dưới cạnh tranh với nghiên cứu do chính phủ tài trợ, bởi vì qui mô sản xuất có thể khác. Nếu chính phủ có thể đánh thuế cả gói, thì giá có thể định bằng chi phí sản xuất biên, thấp hơn chi phí dưới cạnh tranh Bertrand, nơi giá được định bằng chi phí sản xuất biên của nhà sản xuất có chi phí sản xuất thấp thứ nhì. Vì vậy đổi mới trên thị trường sẽ ít hơn như xảy ra với hãng thấp nhất (với thuế cả gói). [23]

Các phương thuốc của chính phủ

Tinh thần của các câu chuyện này là đơn giản: Các quá trình thị trường, với sự hiện diện của đổi mói, không tự động đảm bảo cạnh tranh gay gắt hoặc R&D nhanh. Dẫu chúng ta có thể nghi ngờ đến đâu về điều tiết của chính phủ để hạn chế thực thi quyền lực độc quyền trong các độc quyền tự nhiên về tiện ích, chúng ta thậm chí phải hoài nghi hơn về khả năng của các cơ quan có quyền lực điều tiết trực tiếp để giải quyết các vấn đề gây ra bởi các độc quyền tự nhiên nảy sinh từ thay đổi công nghệ. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là một số chính sách - các chính sách chống trust nhằm hạn chế lạm dụng quyền lực độc quyền - có thể không chỉ cải thiện phúc lợi trong ý nghĩa tĩnh mà thậm chí có thể đóng vai trò thúc đẩy đổi mới. Đây là những lĩnh vực nghiên cứu đang tiến hành: một chương trình nghiên cứu mới được theo đuổi gần đây, đối chiếu với sự áp đảo từ lâu của hệ thuyết chuẩn hệ thuyết đơn giản đã bỏ qua thay đổi công nghệ.

© 2005 talawas


[1]Ở Hoa Kì khái niệm về tiểu nông (và mở rộng ra nghiệp chủ nhỏ) đã đóng vai trò trung tâm trong nhận thức về một xã hội "Mĩ lí tưởng" thường được gắn với tên tuổi của Thomas Jefferson.
[2]Xem thảo luận trong phần đầu của chương này.
[3]Stiglitz (1987g) minh hoạ điều này với trường hợp nơi các hãng xây dựng năng lực thừa để cản trở tham gia đến mức hầu như mọi lợi nhuận bị tiêu tán hết.
[4]Salop and Scheffman (1983) phát triển lí thuyết về làm tăng chi phí của đối thủ, cũng như cung cấp các ví dụ về nơi chúng xảy ra.
[5]Các đoạn tiếp theo là từ Stiglitz (1993a).
[6]Đặc biệt, ông đã không giải thích rõ vì sao mà một số nhà điều tiết lại bị các nhóm lợi ích người tiêu dùng cầm giữ, trong khi các nhà điều tiết khác bị các nhóm lợi ích ngành cầm giữ.
[7]Các bang điển hình không cho phép các hãng ở ngoài bang bán hàng trong phạm vi ranh giới của họ, như thế hạn chế tham gia. Nhiều bang thậm chí có các luật yêu cầu các hãng phải yết giá, như thế tạo thuận lợi cho cấu kết, thông đồng.
[8]Kì lạ là phần lớn những thảo luận ban đầu về trình bày có hệ thống cạnh tranh trong mô hình này đã lo nghĩ không về liệu mô hình này có thâu tóm chính xác bản chất của cạnh tranh trong các nền kinh tế thị trường, mà đi lo liệu giả thiết chấp nhận giá có nhất quán với giả thiết rằng có hữu hạn các hãng và hộ gia đình hay không. Thậm chí nếu có một tỉ hãng, chắc chắn mỗi hãng phải có ảnh hưởng có thể nhận thấy được (trong thế giới thông tin hoàn hảo) về mức giá. Chỉ nếu có vô số (continuum) các tác nhân thì mô hình mới nhất quán.
[9]Các hãng đơn giản được lệnh phải tối đa hoá lợi nhuận, cho trước giá do cơ quan kế hoạch hoá trung ương công bố. Những thảo luận gần đây đã lưu ý rằng các hãng sẽ nhận ra rằng cơ quan chính phủ xem xét lại các giá mà nó bỏ đi đáp ứng lại công bố của các hãng về các đầu vào và đầu ra của kế hoạch với giá đã công bố; nếu không có một continuum (vô số liên tục) các hãng, thì các hãng có thể ứng xử một cách chiến lược, cố ảnh hưởng lên giá mà chính phủ công bố. Tất nhiên, vì các nhà quản lí trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường không có mục tiêu nào khác ngoài tối đa hoá phúc lợi xã hội - và tuân theo các chỉ thị một cách cẩn thận, hoạt động phù hợp với các qui tắc do các nhà lập kế hoạch trung ương đề ra - nếu nhà lập kế hoạch trung ương bảo các nhà quản lí đừng hành động một cách chiến lược, có lẽ họ không nghe. Khi chúng ta đến khúc quanh này của chủ nghĩa xã hội thị trường, sự lệch hướng của mô hình với thực tế lớn đến mức khó mà biết giả thiết nào là sai nhất.
[10]Trong khi có tranh luận nào đấy về bao nhiêu phần của tăng trưởng thu nhập trên đầu người là do thay đổi công nghệ (đối lại với tích tụ vốn) - với Solow (1957) lập luận rằng hơn 80 phần trăm của nó có thể truy nguyên cho thay đổi công nghệ - ít người từ chối tầm quan trọng cốt yếu của nó.
[11]Xem Arrow (1962a).
[12]Cạnh tranh R&D được mô tả tốt hơn nhiều bởi cuộc đua "patent" (xem Barzel 1986; Stiglitz 1971; và Dasgupta and Stiglitz (1980a) hoặc, rộng hơn, bởi lí thuyết chung về các cuộc thi (xem Nalebuff and Stiglitz 1983a; Lazear and Rosen 1981). Về một ứng dụng của lí thuyết các cuộc thi cho R&D, xem Stiglitz (1986b).
[13]Xem Stiglitz (1987d) và Dasgupta and Stiglitz (1980b).
[14]Về một nghiên cứu khai thác ý tưởng này, xem Dasgupta, Gilbert, and Stiglitz (1983).
[15]Về một thảo luận đầy đủ hơn về các vấn đề này, xem Stiglitz (1969).
[16]Xem Stiglitz (1971), Samuelson (1965), hoặc Barzel (1968).
[17]Vấn đề này được biết đến như "tính bền bỉ của độc quyền" (Dasgupta and Stiglitz 1980a; Salop 1979; Gilbert and Newbery 1982).
[18]Như Dasgupta and Stiglitz (1980) lưu ý trong một chú giải.
[19]Xem Stiglitz (1987g) và Harris and Vickers (1987).
[20]Xem Dasgupta and Stiglitz (1988b).
[21]Hệ quả hơi ngạc nhiên của phân tích này song song với phân tích của Stiglitz (1987g) là cạnh tranh ex post càng mạnh thì cạnh tranh ex ant (tiềm năng) càng yếu. Các hãng sẽ không tham gia, ngay cả khi lợi nhuận hiện hành là cao, bởi vì chúng tin rằng căn cứ vào tính gay gắt của cạnh tranh ex post, những khoản lợi nhuận ấy mau chóng tan biến.
[22]Tất nhiên, nếu các hãng có cái nhìn thấy trước hoàn hảo, thì chi phí biên liên quan để xác định các quyết định sản xuất hiện hành bằng chi phí biên dài hạn của chúng, như thế ngay cả một sự khác biệt chút ít trong chi phí biên hiện hành về sản xuất có thể gây ra sự khác biệt lớn về mức sản xuất hiện hành.
[23]Xem Sah and Stiglitz (1987).