Không chỉ có Moskva: Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Äông Âu và Bắc Việt thá»i kì háºu Stalin
Thư của tác giả Trình Ánh Hồng (Yinghong Cheng) gửi độc giả Việt Nam (2006) Tôi rất cảm kích công sức mà ông Lê Quỳnh đã dành cho bản dịch này. Kể từ đầu năm 2006, chúng tôi đã liên lạc thường xuyên với nhau để chia sẻ ý kiến và thông tin về Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt từ cái nhìn lịch sử. Tôi cũng học được nhiều từ thân mẫu của dịch giả về kiến thức lịch sử và vấn đề dịch thuật Trung - Việt. Tôi muốn bổ sung một vài ghi chú quan trọng cho tiểu luận mà nay được dịch sang tiếng Việt. Tiểu luận của tôi viết trong giai đoạn 2002-2003, nhưng kể từ đó, tôi đã phát hiện thêm nhiều và đi đến một số kết luận quan trọng. Một bài viết khác của tôi sẽ được in trong Modern China Studies
(một tạp chí học thuật Hoa ngữ đặt ở Mỹ, số mùa Xuân 2007) – bài này dựa một phần từ tiểu luận tiếng Anh đầu tiên, nhưng các phân tích và kết luận về Việt Nam được làm rõ hơn. Nói chung, tôi cho rằng từ 1955 đến 1957, những sự kiện ở Trung Quốc và Việt Nam là phản ứng thách thức học thuyết và những hành động Mao-it, nhiều hơn là một sự giải ảo Stalin. Khi tôi được đọc nhiều hơn những tư liệu về sự phản kháng của trí thức Việt Nam, tôi đi đến kết luận rằng họ trực tiếp chống đối một biến thể của chủ nghĩa Mao ở Việt Nam, chứ không phải là biến thể của chủ nghĩa Stalin (về mặt lịch sử, áp dụng đúng hơn cho Đông Âu.) Biến thể Mao-it này chủ yếu gồm ba khía cạnh: cải cách ruộng đất, cải tạo tư tưởng, và các chính sách và thể chế nhằm kiểm soát và lung lạc nghệ sĩ, nhà văn nhằm mục đích ý thức hệ và chính trị. Cả ba yếu tố này, trong chừng mực phát triển ở Việt Nam, hầu như không tìm thấy trong chủ nghĩa Stalin hay hiện thực ở Liên Xô thập niên 1950, nhưng chúng đã hiện diện ở Trung Quốc của Mao từ thập niên 1940. Trung Quốc của Mao, hay cụ thể hơn là cách tiếp cận Mao-it về một chính thể độc đảng và về sự chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần được xem là đã chịu trách nhiệm cho nhiều thảm trạng ở Việt Nam thập niên 1950. Tôi chỉ muốn dùng một ví dụ về cải cách ruộng đất. Theo các nguồn gần đây của Trung Quốc, người cộng sản Trung Quốc bắt đầu thúc các đồng chí Việt Nam thực thi cải cách ruộng đất (xúi giục đấu tranh giai cấp, loại bỏ địa chủ và trừng phạt những ai có cảm tình với họ, chia lại ruộng đất, và thậm chí để những tay du thủ du thực quá khích ở làng nắm quyền sinh sát) ngay từ mùa Hè 1949, khi Lưu Thiếu Kỳ bí mật gặp Hồ Chí Minh ở Moskva. Ông Hồ đã ngần ngừ, vì ông cho rằng Bắc Việt đang trong giai đoạn cách mạng dân tộc (tức là chống Pháp) vì vậy tầng lớp tinh hoa nông thôn cần được đưa vào mặt trận dân tộc. Lưu Thiếu Kỳ kể lại cho Stalin về thái độ của Hồ và Stalin đã khiển trách Hồ. Vì chuyện này, các lãnh đạo Trung Quốc đã quy cho ông Hồ là “kẻ cơ hội cánh hữu lạc hậu”. Chính Lưu Thiếu Kỳ đã tiết lộ tình tiết này trong một cuộc gặp năm 1962. Bài viết sắp tới của tôi bằng tiếng Hoa là một ghi chép và phân tích chi tiết về việc làm thế nào ba yếu tố Mao-it kể trên (cải cách ruộng đất, cải tạo tư tưởng và các chính sách với trí thức) đã được phản ánh ở Bắc Việt từ cuối thập niên 1940 và sau đó bị trí thức Việt Nam chống đối từ năm 1955 (các hoạt động do Trần Dần dẫn đầu) đến mùa hè 1957. Còn bài tiểu luận dưới đây về căn bản thể hiện suy nghĩ của tôi vào năm 2003. [1] *
Năm 1956 và 1957 đánh dấu cuộc khủng hoảng trầm trọng đầu tiên trong khối cộng sản toàn cầu thời Chiến tranh Lạnh với nhiều sự kiện quan trọng. Bài nói chuyện mật của Nikita Khrushchev tại Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô tháng Hai 1956 tiết lộ những tội ác của Stalin đã gây sốc cho thế giới cộng sản và châm ngòi cho giai đoạn hạ bệ Stalin, mà không lâu sau đó đã tạo nên những thách thức cho chính hệ thống cộng sản, qua những cuộc nổi loạn ở Ba Lan và Hungary tháng 10 và tháng 11 năm 1956. Tại các nơi khác ở Đông Âu, mặc dù nhìn chung không nổ ra các phản kháng chính trị quyết liệt, nhưng những tranh luận trong nội bộ Đảng và bất bình của trí thức diễn ra phổ biến, đi kèm là những cuộc biểu tình và bãi khoá lẻ tẻ của công nhân và sinh viên. Ở các nước cộng sản châu Á, sự bất bình trong giới trí thức và phê phán Đảng trở nên dễ thấy ở Trung Quốc, đặc biệt vào mùa xuân 1957, khi có phong trào Trăm hoa Đua nở và thời kì Chỉnh huấn, kèm theo là một số vụ đình công của công nhân và bãi khoá của sinh viên. Ở miền Bắc Việt Nam, người trí thức đã trực tiếp thách thức Đảng trong phong trào gọi là
Nhân văn - Giai phẩm (tên của hai ấn phẩm chỉ trích Đảng) trong giai đoạn mùa Thu 1956, gắn liền với biến cố nông dân nổi loạn ở tỉnh Nghệ An và bất ổn tại các đô thị. Cách mạng Hungary bị đàn áp tháng 11-1956, và môi trường ở Liên Xô và Đông Âu trải qua những thay đổi đầy kịch tính. Tuy nhiên, vì các trí thức Trung Quốc vẫn còn được khuyến khích chỉ trích Đảng vào mùa Xuân 1957, trí thức ở Việt Nam lại một lần nữa mở cuộc chỉ trích chính quyền. Nhưng vào tháng Sáu 1957, Trung Quốc mở chiến dịch chống quan điểm hữu khuynh và chấm dứt thời kì “giải phóng”, và Việt Nam cũng làm như vậy khi bước vào năm 1958. Và như thế cuộc khủng hoảng trong thế giới cộng sản được giải quyết xong.
Khi kể lại và phân tích các sự kiện trên, các sử gia đã chủ yếu dựa vào một sườn diễn giải lấy Moskva làm trung tâm. Đa số các nhà sử học lấy Moskva – đặc biệt là Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô – làm trung tâm của thay đổi chính trị trong khi đặt các nước cộng sản khác ở đường biên. Những nhà nước ở ngoại vi này ban đầu có phản ứng bị sốc và lúng túng trước Moskva, nhưng rồi nhiều nước đã nhanh chóng sử dụng cơ hội để khẳng định tư tưởng cải tổ của họ, tư tưởng mà bình thường sẽ khó mà biện hộ được. Cái sườn diễn giải lấy Moskva làm trung tâm này nhìn chung phản ánh sự thật lịch sử vì ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo của Liên Xô trong cộng đồng cộng sản thời kì ấy và còn vì thứ tự thời gian căn bản của các sự kiện. Nhưng khi áp dụng một khung diễn giải bao quát cho lịch sử, ta cần cảnh giác trước những nhược điểm của nó. Nhược điểm chính của các diễn giải lấy Moskva làm trung tâm là khuynh hướng bỏ qua và đánh giá thấp những điểm gốc tạo nên thay đổi chính trị ngoài những điểm gốc ở Moskva cùng những liên hệ và sự tương tác không nhất thiết tập trung ở Moskva. Trong một số trường hợp, điều này đưa đến sự giản lược hoá một hoàn cảnh lịch sử phức tạp và diễn giải sai lầm những liên hệ và sự tương tác giữa các nước cộng sản.
Bài viết này xem xét tiến trình phê phán Stalin, hay còn hiểu là giải phóng, từ góc nhìn dựa vào sự liên hệ với Trung Quốc tại Đông Âu và Việt Nam – một góc nhìn đã hoặc bị đánh giá thấp hoặc bị bỏ qua trong những phân tích lấy Moskva làm chính
[2] . Thuật ngữ “sự liên hệ với Trung Quốc” có ý nghĩa là một ảnh hưởng trực tiếp của Trung Quốc hoặc những diễn biến song song giữa các nước này và Trung Quốc. Bài viết này giới thiệu và liên hệ hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất là ảnh hưởng của Trung Quốc tại một số nước Đông Âu, và thậm chỉ cả ở Liên Xô, từ 1955 đến 1958. Thứ hai là sự thách thức chính quyền của các trí thức Việt Nam và phản ứng của chính quyền, cả hai cho thấy những sự tương tự thú vị giữa hai quốc gia. Sự liên hệ với Trung Quốc ở cả trường hợp Đông Âu và Việt Nam cho thấy rõ là có một nguồn gốc khác góp phần vào quá trình hạ bệ Stalin và thậm chí gợi ý về một khung thời gian mở rộng của các biến cố ngay từ đầu năm 1955 (tức là trước “
Báo cáo mật” của Khrushchev) đến tận cuối 1958 (một năm sau khi Liên Xô dập tắt cuộc nổi dậy ở Hungary), và như thế giúp làm giàu thêm hiểu biết của chúng ta về cuộc khủng hoảng cộng sản toàn cầu nhờ các nguồn rộng hơn và khung thời gian dài hơn.
Trường hợp Đông Âu Đối với đa số các sử gia, ảnh hưởng quan trọng của Trung Quốc tại Đông Âu sau cái chết của Stalin bắt đầu với vai trò của nước này trong việc giải quyết khủng hoảng chính trị ở đó vào tháng 10 và 11 năm 1956
[3] . Nói ngắn gọn, khi Moskva quyết định dùng vũ lực dập tắt cuộc nổi dậy của công nhân Ba Lan vào giữa tháng 10-1956, Bắc Kinh đã phản đối quyết định này với lý do là vấn đề Ba Lan xảy ra không phải vì âm mưu chống chủ nghĩa xã hội của phương Tây mà chủ yếu là do “chủ nghĩa sôvanh nước lớn” (ám chỉ sự kiêu ngạo và can thiệp của Moskva vào công việc nội bộ của các nước). Ngược lại, khi Moskva còn nhùng nhằng giữa việc dùng vũ lực hay để yên trước cuộc khủng hoảng Hungary vào cuối tháng 10, Bắc Kinh đã thúc giục Moskva gửi quân vào Budapest. Theo một số nguồn tư liệu Trung Quốc được công bố vào cuối thập niên 1990, từ ngày 19 đến 31 tháng Mười 1956, thời điểm khi cuộc khủng hoảng Ba Lan – Hungary lên đến cao trào, liên lạc và thảo luận giữa Moskva và Bắc Kinh cũng liên tục và dồn dập đến bất thường.
Ngày 19-10, sau khi Đảng Cộng sản Ba Lan chọn Wladislaw Gomulka, người mà Kremlin xem là có thái độ đáng ngờ với Moskva, làm lãnh đạo mới, thì Pavel Yudin, đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc, đã thông báo cho Bắc Kinh về tình hình gay go ở Warszawa, ám chỉ khả năng quân đội Liên Xô sẽ can thiệp ở Ba Lan. Mao Trạch Đông tức khắc mở cuộc họp Bộ Chính trị mở rộng và quyết định không đồng ý với sự can thiệp quân sự do Moskva dẫn dắt. Ngày hôm sau, Mao gặp Yudin và yêu cầu ông thông báo cho Moskva về quyết định của Đảng Cộng sản Trung Quốc ngay tức thì và “đúng từng chữ”. Ngày 21-10, Mao lại triệu đại sứ Liên Xô đến, một lần nữa bày tỏ lo ngại, và cũng cho biết sự không hài lòng trước việc Khrushchev công kích Stalin, điều mà phía Trung Quốc cho là đã tạo nên khủng hoảng. Cùng lúc đó, tình hình ở Hungary trở nên căng thẳng hơn và Moskva không còn nghĩ rằng kênh đại sứ là đủ hiệu lực. Vì thế, theo yêu cầu của Moskva, một phái đoàn Trung Quốc do Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình dẫn đầu đã đến Moskva ngày 23-10 và ở lại đó đến 31-10, khi mà xe tăng Nga tiến vào Budapest. Trong thời gian ở lại, phái đoàn Trung Quốc được thông báo về diễn biến ở Hungary và mỗi ngày đều nhận được sự tham vấn từ Khrushchev và các lãnh đạo khác của Liên Xô. Các thành viên trong đoàn thậm chí đã tham dự các cuộc họp khẩn của đoàn chủ tịch Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 24 và 26-10.
Những khoảnh khắc quan trọng nhất xảy ra vào ngày 29 và 30-10. Vào chiều 29-10, Khrushchev và các lãnh đạo Liên Xô khác gặp phía Trung Quốc tại nơi phái đoàn ở và cho biết cả Ba Lan và Hungary đang yêu cầu Moskva rút quân khỏi hai nước. Mặc dù vẫn đòi Moskva thay đổi thái độ “sôvanh nước lớn” đối với các nước cộng sản khác, nhưng ông Lưu Thiếu Kỳ nói trong hoàn cảnh hiện tại, tốt hơn là quân đội Liên Xô hãy ở lại và đối đầu với những phần tử phản cách mạng. Trong lúc đang nói chuyện, phái đoàn Trung Quốc nhận được điện thoại của Mao, người có đề nghị khác với Lưu. Mao nói đã đến lúc Moskva phải rút quân ra khỏi cả hai nước và để họ được độc lập. Lưu chấp nhận ý kiến của Mao và chuyển lại thông điệp cho Khrushchev. Nhưng ngày hôm sau, phái đoán Trung Quốc nhận được báo cáo tình hình từ phía ban lãnh đạo Liên Xô. Báo cáo được viết bởi Anastas Mikoyan, phó thủ tướng thứ nhất và là người liên lạc khéo léo giữa Moskva và các nước cộng sản khác, người đã được gửi đến Hungary trước khi phái đoàn Trung Quốc đến Moskva. Báo cáo nói rằng từ hôm 29-10, sau khi quân đội Liên Xô rút khỏi Budapest và giải tán lực lượng an ninh Hungary, thủ đô và nhiều nơi khác của Hungary đã rơi vào hỗn loạn và các phần tử phản cách mạng đang tàn sát những người cộng sản. Phái đoàn Trung Quốc bị ngạc nhiên. Sau một ngày thảo luận, họ kết luận rằng tính chất của sự kiện ở Hungary khác với ở Ba Lan, vì thế quân đội Liên Xô cần quay lại thủ đô và đè bẹp bọn phản cách mạng. Sau đó vào buổi chiều, Lưu Thiếu Kỳ gọi cho Mao. Mao thay đổi quan điểm ban đầu rằng phía Nga cần rút quân, và nay đồng ý với kết luận của phái đoàn vì ngoài báo cáo của Lưu, Mao còn nhận được báo cáo hàng ngày từ Hungary của Hồ Đức Khánh, đại sứ Trung Quốc, và Hồ Quý Bang, phóng viên của
Nhân dân Nhật báo ở Budapest. Nhưng Mao nói nếu phía Nga chờ lâu một chút để có thêm các phần tử phản cách mạng lộ diện thì sẽ tốt hơn – một chiến thuật đặc Mao mà sau này được dùng để phát hiện phe hữu khuynh ở Trung Quốc. Sau khi gọi cho Mao, phía Trung Quốc yêu cầu có cuộc họp khẩn với người Nga. Tại cuộc họp, Lưu Thiếu Kỳ, phó chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, mạnh mẽ đề nghị Khrushchev không “bỏ cuộc” ở Hungary mà hãy nỗ lực hơn để cứu vãn tình thế, trong khi Đặng Tiểu Bình, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, công khai thúc giục quân đội Nga quay lại thủ đô và nắm chính quyền. Nhưng Khrushchev ngần ngừ. Ông nói với phía Trung Quốc rằng vì tình hình đã thay đổi khá nhiều ở Hungary, nên sự trở lại của quân Nga sẽ đồng nghĩa với sự chiếm đóng đất nước và người Nga sẽ bị xem là kẻ chiếm đóng. Vì thế ban lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev thông báo cho phía Trung Quốc, đã quyết định không đưa quân quay lại. Vì phía Nga đã quyết định như vậy, Trung Quốc không dấn thêm nữa. Thay vào đó, Lưu nói đùa với phía Nga rằng hôm qua chúng tôi thuyết phục các đồng chí rút quân nhưng các đồng chí không chịu; hôm nay các đồng chí đến đây và tìm cách thuyết phục chúng tôi đồng ý với quyết định rút quân. Mọi người có mặt ở buổi họp bật cười. Lưu lại nói phái đoàn Trung Quốc sẽ trở về Bắc Kinh chiều hôm sau. Nhưng vào chiều hôm sau, 31-10, phái đoàn Trung Quốc nhận được điện từ Kremlin ngay trước lúc họ ra sân bay. Các lãnh đạo Nga yêu cầu phía Trung Quốc đến phi trường sớm hơn một tiếng để dự cuộc họp khẩn. Tại phi trường, đoàn Trung Quốc gặp Khrushchev và các lãnh đạo khác của Nga. Khrushchev nói ban lãnh đạo Nga đã thay đổi ý kiến trong đêm và quyết định đưa quân quay lại Budapest. Tỏ rõ phấn khởi, Lưu Thiếu Kỳ nói Trung Quốc vui mừng rằng ban lãnh đạo Nga đã đứng ra bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Thực tế, trước cuộc họp ở sân bay, quân đội Nga đã di chuyển quay lại thủ đô Hungary
[4] .
Sự do dự của Moskva khi giải quyết cuộc khủng hoảng Hungary, được phản ánh qua ghi chép của Trung Quốc, có thể được xác nhận bằng chính lời của Khrushchev: “Không biết đã bao nhiêu lần chúng tôi thay đổi ý kiến về việc rút khỏi Hungary hay ‘đè bẹp cuộc nổi loạn’”
[5] . Khó xác định chính xác mức độ ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với Moskva trong các quyết định, nhưng như ta thấy qua ghi chép trên của Trung Quốc, phía Trung Quốc quả thực đóng một phần vai trò trong tiến trình và phía Nga quả thực xem trọng thái độ của Trung Quốc. Ngày 3-11-1956, ba ngày sau khi xe tăng Nga tiến vào Budapest,
Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc là một trong các tờ báo cộng sản đầu tiên ca ngợi Liên Xô đè bẹp cuộc nổi dậy ở Hungary. Trung Quốc còn ủng hộ thay đổi chính trị ở Hungary bằng việc gửi Thủ tướng Chu Ân Lai đến Budapest giữa tháng Giêng 1957 khi tình hình còn bất ổn, và xe tăng Liên Xô đã phải canh gác chỗ ở của ông Chu, mặc dù ông chỉ ở lại đây một ngày.
Trong lịch sử ngoại giao Trung Quốc, ảnh hưởng của Trung Quốc trong khủng hoảng Ba Lan – Hungary đánh dấu lần đầu tiên Trung Quốc bày tỏ quyền lực của họ tại châu Âu, “một diễn biến mà Liên Xô sau này sẽ ân hận”, như lời của Joseph L. Nogee và Robert H. Donaldson
[6] . Mặc dù các chi tiết về quan điểm cứng rắn của Trung Quốc trong khủng hoảng Hungary không được biết tới cho mãi đến cuối thập niên 1990, nhưng sự ủng hộ công khai trước việc đè bẹp cuộc nổi dậy ở Hungary – thể hiện qua sự có mặt của phái đoàn Trung Quốc ở Moskva vào thời điểm xảy ra, các tuyên bố chính thức nhanh chóng, và chuyến thăm của Chu Ân Lai đến Budapest – thường được xem là chỉ dấu về thái độ của Trung Quốc đối với cuộc khủng hoảng trong bốn thập niên kế tiếp.
Nhưng thái độ của Trung Quốc đối với khủng hoảng Hungary, dù có cứng rắn và ấn tượng đến đâu, thì cũng chỉ là một khía cạnh trong chính sách và ảnh hưởng của Trung Quốc trong giai đoạn hạ bệ Stalin hay còn gọi là giải phóng. Sự chỉ trích “chủ nghĩa sôvanh nước lớn” của Nga, quyết định bác bỏ sự can thiệp của Nga trong khủng hoảng Ba Lan, và ý kiến của Mao rằng quân đội Nga nên rút khỏi Ba Lan và Hungary trước khi tình hình trở nên xấu đi, cho thấy một thái độ phức tạp hơn của Trung Quốc. Nếu chúng ta mở rộng cái nhìn ra toàn bộ giai đoạn phê phán Stalin và xem xét lại một số dữ kiện ít được quan tâm trước và sau khủng hoảng Ba Lan – Hungary, chúng ta chắc chắn sẽ tìm thấy một Trung Quốc khác. Một Trung Quốc mà thái độ mang tính cởi mở (nếu xét từ góc nhìn thuần tuý Stalin và bất kể mưu tính đằng sau thái độ ấy là gì) cũng xuất hiện giữa những người cải cách hoặc chống Stalin ở Đông Âu ngay từ năm 1955 và kéo dài cho đến mùa hè 1957, hơn nửa năm sau khi
cuộc nổi dậy Hungary bị dập tắt.
Có bằng chứng rằng Trung Quốc bắt đầu thu hút chú ý từ một số nước Đông Âu trong thời gian khi, ngay sau cái chết của Stalin, ban lãnh đạo Liên Xô bắt đầu chứng tỏ họ sẵn lòng cho phép các thay đổi chính sách, có tên “Đường lối Mới”. Đường lối này do Georgi Malenkov, người kế vị gần nhất của Stalin mà sau đó bị Khrushchev thay thế, khởi xướng (ngay từ mùa xuân 1953, cùng sự hỗ trợ của Lavrentiy Beria, theo nghiên cứu của Geoffrey và Nigel Swain.)
[7] Ở trong nước, Đường lối Mới bao gồm việc bớt nhấn mạnh đến công nghiệp nặng vốn được Stalin ưa thích, và thay vào đó, chú ý hơn đến nông nghiệp và công nghiệp nhẹ thông qua việc bớt kiểm soát giá thực phẩm và quần áo, và giảm bớt đàn áp chính trị. Trên trường quốc tế, Đường lối Mới bao gồm việc phục hồi cho Tito của Nam Tư – người đã bị Stalin trục xuất khỏi thế giới cộng sản năm 1948 – sau chuyến thăm bất ngờ của Khrushchev đến Belgrade tháng Năm 1955. So với cơn bão mà Đại hội 20 sau đó tạo nên, thì Đường lối Mới này có vẻ chỉ là cơn gió thoảng, nhưng quả thực nó “làm tan băng” mảnh đất đã bị đông cứng trong chính thể Stalin cứng nhắc. Các đảng Đông Âu đã phản ứng theo Moskva – phần nào được Kremlin khuyến khích – bằng việc đưa ra những thay đổi tương tự trong lĩnh vực đảng, kinh tế, xã hội.
Để có thêm tự chủ trước Moskva, một số nước Đông Âu quay sang Bắc Kinh tìm cảm hứng với cái cớ rằng Trung Quốc đang trong giai đoạn chuyển đổi chủ nghĩa xã hội (từ “Dân chủ Mới” sang chủ nghĩa xã hội) tương tự như Đông Âu, trong khi Liên Xô đã tiến vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội cao hơn. Ví dụ, ở Đông Đức, nước đầu tiên ở Đông Âu thực thi một số chính sách Đường lối Mới ngay từ 1953, Hội nghị lần thứ 25 của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất của Đông Đức thông qua nghị quyết ngày 1-11-1955, chuẩn thuận phương pháp của Trung Quốc trong vấn đề quốc hữu hoá các doanh nghiệp lớn của tư nhân còn lại bằng cách đề nghị bồi thường 50% cho những người chủ cũ
[8] . Việc mua, thay vì tịch thu, phương tiện sản xuất và cho phép chủ cũ tham gia quản lý là chính sách của Mao nhằm làm cuộc chuyển đổi diễn ra êm thắm; nó rất khác với mô hình quốc hữu hoá chủ nghĩa xã hội của Liên Xô. Đông Đức quan tâm đến phương thức quốc hữu hoá ôn hoà hơn của Trung Quốc, và mối quan tâm này tiếp tục tăng trong năm 1956 và được phản ánh trong các bài báo, phúc trình trên báo và tạp chí của Đảng.
Neue Zeit, một báo của Đảng, ngày 13-6-1956 đã in lại một bài nhan đề “Vì sao các nhà tư bản của chúng ta hoan nghênh chủ nghĩa xã hội”, do chủ tịch Hội Nông Thương Trung Quốc viết và đăng lần đầu trên
People’s China, một tờ báo tuyên truyền đối ngoại, để trả lời cho câu hỏi của các chủ doanh nghiệp tư nhân ở Đông Đức. Trong ấn bản tháng Chín, tờ báo lý luận
Einheit có đăng bài báo Trung Quốc nhan đề “Giai đoạn mới của sự chuyển hoá công nghiệp và thương mại tư bản ở Trung Quốc.” Khi Walter Ulbricht, Tổng Bí thư của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất của Đông Đức, báo cáo cho Đảng về chuyến đi thăm Bắc Kinh dự Đại hội Tám của Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng Chín 1956, ông nhấn mạnh đến liên minh giữa người cộng sản Trung Quốc với cái gọi là “tư sản dân tộc.”
[9] Ở Hungary, ảnh hưởng Trung Quốc được phản ánh trong ý thức hệ của những người cộng sản dân tộc mới nổi lên của Hungary, đặc biệt thể hiện qua việc Imre Nagy ngưỡng mộ “Năm nguyên tắc cùng chung sống” của Trung Quốc. Nagy, người được đưa lên làm Thủ tướng từ cuối 1953 đến 1955, đề đạt đường lối cải cách bao gồm việc giảm nhẹ nhịp độ công nghiệp hoá, cho phép nông dân rời bỏ nông trường tập thể và giảm bớt sự khắc nghiệt của công an. Vì lẽ này ông bị những người thân Stalin do Mátyás Rakosi dẫn đầu loại bỏ vào tháng Ba 1955. Nhưng sau khi bị buộc về hưu non, Nagy cảm nhận trận bão chính trị đang tới và viết một luận đề dài nhan đề “Bảo vệ Con đường Mới” vào cuối năm 1955 và đầu 1956. Bài này được in thành sách ở phương Tây với nhan đề
Về chủ nghĩa cộng sản, trong đó bốn vấn đề lớn được đề cập: công nghiệp, nông nghiệp, đàn áp chính trị và chính sách ngoại giao. Trong chương về chính sách ngoại giao, “Năm nguyên tắc cùng chung sống” của Trung Quốc trở thành nền tảng lý thuyết cho Nagy khi ông bảo vệ chủ quyền của Hungary và độc lập trước Liên Xô. “Năm nguyên tắc cùng chung sống” bao gồm tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau, không xâm lấn, không can thiệp chuyện nội bộ, bình đẳng và cùng có lợi, và chung sống hoà bình
[10] . Trung Quốc lần đầu tiên nêu các nguyên tắc này trong một tuyên bố chung với Ấn Độ năm 1954. Rồi vào năm 1955, tại Hội nghị Bandung của các nước Á và Phi, Chu Ân Lai chính thức đề đạt chúng với các nước như nguyên tắc bang giao quốc tế đối lập với chủ nghĩa thực dân. Các tuyên bố chính thức của Trung Quốc liên quan năm nguyên tắc này thường thòng thêm một cụm từ hạn chế, “giữa các nước có hệ thống xã hội khác nhau”, nhằm giảm nhẹ lo ngại của các nước phi cộng sản châu Á về xuất khẩu cách mạng của Trung Quốc, nhưng không nói rõ liệu chúng có áp dụng cho “các nước có cùng chế độ xã hội” hay không. Nhan đề của chương đối ngoại trong bài của Nagy là “Năm nguyên tắc cơ bản của quan hệ quốc tế và câu hỏi về chính sách đối ngoại của chúng ta”. Tác giả không chỉ dùng “Năm nguyên tắc” làm luận đề chính mà còn tuyên bố chúng phải “mở rộng cho quan hệ giữa các nước trong khối xã hội chủ nghĩa và dân chủ”.
[11] Bài của Nagy được phổ biến trong những người cộng sản phản kháng, và vào mùa Xuân 1956, Nagy chuyển một bản cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng và một bản cho Yuri Vladimirovich Andropov, đại sứ Nga ở Budapest
[12] . Quả là một trớ trêu bi thương khi chưa đầy một năm sau đó, mộng tưởng của Nagy về việc áp dụng “Năm nguyên tắc” cho quan hệ Hung – Nga và ảo tưởng về cảm tình của Trung Quốc với Hungary đã vỡ tan, khi Bắc Kinh thúc giục Moskva can thiệp và
Nhật báo Nhân dân là tờ báo đầu tiên ca ngợi cuộc đàn áp
[13] .
Nhận thức đầy đủ về sự hấp dẫn của các chính sách của mình và căng thẳng giữa Đông Âu và Liên Xô, Trung Quốc rất quan tâm đến những khó khăn của lãnh đạo Liên Xô ở Đông Âu và trong một số trường hợp còn giữ liên lạc với những nhân vật cải tổ mới nổi. Ví dụ, theo Janos Radvanyi, một viên chức cao cấp ở Bộ Ngoại giao Hungary phụ trách châu Á và có quan hệ thân cận với đại sứ Trung Quốc ở Budapest, sứ quán Trung Quốc đã thiết lập một mạng lưới thông tin hiệu quả bên trong chính phủ và Đảng Cộng sản Hungary. Sứ quán thậm chí có tiếng là “địa điểm ngoại giao hiểu biết nhất” ở thủ đô. Thông qua mạng lưới này, vị đại sứ Trung Quốc, Hác Đức Thanh, biết Nagy đang viết bài, và khi bài này được gửi cho Ban Chấp hành Trung ương, thì ông Hao có được một bản nhờ một người bạn Hungary làm trong ban thư ký tại trụ sở Đảng. Trong khi sứ quán Liên Xô hay mời những công dân gương mẫu, thì ông Hao thích tiếp đãi các nhà văn, nghệ sĩ, kinh tế gia và phóng viên Hungary – một số trong đó không được chính quyền tin tưởng. Vị đại sứ cũng đi lại khắp nơi trong nước và có thông tin từ cán bộ địa phương về không khí thay đổi sau cái chết của Stalin. Tuỳ viên văn hoá của Trung Quốc, nói giỏi tiếng Hungary, cũng duy trì liên hệ thân mật với các trí thức Hungary, trong khi các phóng viên của
Tân Hoa xã và du học sinh Trung Quốc báo cáo cho sứ quán về hoạt động của Câu lạc bộ Petofi, một trung tâm tập hợp những người phản kháng.
Sau Đại hội 20 của Liên Xô, việc phê phán chính sách của Stalin được hé lộ, và Trung Quốc trở nên hấp dẫn hơn ở Đông Âu, và các hoạt động truyền bá ảnh hưởng của Trung Quốc tại đó trở nên mạnh bạo hơn. Với việc công bố diễn văn của Lục Định Nhất, Trưởng ban Tuyên huấn của Đảng Cộng sản Trung Quốc, mang tên “
Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”, vào tháng Năm 1956 và đăng trên
Nhân dân Nhật báo ngày 13-6, Trung Quốc mở đầu sự giải phóng cho trí thức với mục đích giải toả sức ép trong nước về ngắn hạn, và với mục tiêu dài hạn là cho phép một chút cởi mở và phê phán bên trong chính quyền để giành ủng hộ và phát hiện sai lầm. Chính sách Trăm hoa nhanh chóng trở thành trọng tâm thu hút tại Đông Âu. Vào tháng Chín, Đại hội Tám ở Trung Quốc khai mạc, và toàn bộ các đảng cộng sản ở Đông Âu gửi đại biểu tới Bắc Kinh. Sự kiện này được Bắc Kinh sử dụng vào đúng khoảnh khắc quan trọng ấy để giới thiệu con đường riêng tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng quan hệ với thế hệ hậu Stalin trong các lãnh đạo Đông Âu. Ví dụ, Janos Kadar, trưởng phái đoàn Hungary, người từng bị Stalin hạ bệ nhưng được phục hồi năm 1954, rất được ưa thích trong Đảng ở Hungary vì quan điểm chống Stalin. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc rất quan tâm tới vị lãnh đạo mới nổi này, và Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai, tất cả đều có cuộc trò chuyện dài với ông. Vào ngày 1-10, Kadar một lần nữa đại diện cho Hungary tại lễ ăn mừng Quốc khánh Trung Quốc tại Bắc Kinh
[14] .
Một điểm về Chính sách Trăm hoa chưa được chú ý đầy đủ là sự thể hiện ngôn từ (trực tiếp của Mao và rất tiêu biểu cho phong cách của ông) đã tạo nên ấn tượng sai lầm rằng có sự dung dưỡng cho nhiều, tuy chưa phải tất cả, ý kiến khác biệt; ấn tượng này đặc biệt có ở những ai không hiểu về quá khứ đàn áp của Đảng Cộng sản Trung Quốc, như cuộc chỉnh huấn Diên An thập niên 1940 và chiến dịch cải tạo tư tưởng đầu thập niên 1950. Ấn tượng này đã xảy ra khi Chính sách Trăm hoa khơi dậy cảm tình với Trung Quốc ở Đông Âu, nơi con người phấn khích trước khẩu hiệu nhưng không biết nhiều về lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc và không có dịp xem kỹ nội dung của những tư liệu giới thiệu chính sách mới của Trung Quốc. Tại Hungary, đại sứ Trung Quốc chộp cơ hội củng cố tình cảm ủng hộ Trung Quốc bằng việc cung cấp thêm thông tin cho trí thức và sinh viên Hungary, và thậm chí ông còn quảng bá về Đại hội Tám thông qua cung cấp thông tin cho báo chí và đài phát thanh Hungary. Kết quả là truyền thông Hungary dành nhiều chỗ cho Đại hội Tám, lại càng củng cố thêm cảm tình dành cho Trung Quốc. Nhiều trí thức cấp tiến Hungary tin rằng chính sách này đích thực phản ánh ý định của những người cộng sản Trung Quốc. Trong lúc đó, với việc phục hồi và đưa Nagy lên làm Thủ tướng, “Năm nguyên tắc” của Trung Quốc được dùng để chống lại “chủ nghĩa nước lớn” của Liên Xô – một cụm từ cũng do Trung Quốc nặn ra. Ảo tưởng của Hungary về Trung Quốc kéo dài đến phút cuối cùng, khi tờ báo của các nhà văn cách mạng,
Irodalmi Ujsag, tuyên bố ngày 2-11 (hai ngày sau khi Trung Quốc thúc giục Khrushchev đè bẹp cuộc nổi dậy Hungary) rằng “Phương Tây và phương Đông sát cánh với chúng ta. Mỹ đã tuyên bố niềm tin vào chính nghĩa của chúng ta cũng rõ ràng như các quốc gia hùng mạnh như Trung Quốc và Ấn Độ.”
[15] Đáng chú ý là sau khi cuộc nổi dậy Hungary bị dập tắt, vai trò giảm kiểm soát và dung thứ cho phản kháng của Trung Quốc lại càng trở nên nổi bật trong những nhà cải cách Đông Âu. Trái với không khí chung ở Liên Xô và Đông Âu sau sự biến Hungary, Trung Quốc vẫn tiếp tục đường hướng khai phóng mà họ khởi sự từ tháng Năm 1956. Chính sách Trăm hoa không bị ngưng, và vào tháng Hai 1957, Mao còn bổ sung thêm với bài diển văn nổi tiếng “Bàn về mâu thuẫn”, thừa nhận sự tồn tại của mâu thuẫn trong các nước xã hội chủ nghĩa và như vậy tức là đã chấp nhận một mức độ bất bình nhất định, hay thậm chí một sự đối lập ôn hoà trước các chính sách của chính phủ. Vào tháng Tư, Trung Quốc đẩy mạnh nỗ lực thu hút sự phê phán thông qua chiến dịch “chỉnh huấn”, kéo dài cho đến đầu mùa hè, khi Trung Quốc mở cuộc phản kích chống lại các trí thức phê phán thông qua chiến dịch chống hữu khuynh. Hiện vẫn chưa rõ khi nào thì Mao quyết định dùng chiến dịch Trăm hoa và Chỉnh huấn để “dụ rắn ra khỏi hang”, tuy một số người cho rằng đó có thể là ngay sau cuộc khủng hoảng Hungary
[16] . Dù ý định thực của Mao là gì, thì đối với các trí thức Đông Âu đã chịu cảnh lạnh giá sau khi cuộc nổi dậy Hungary bị đàn áp, việc Trung Quốc duy trì giai đoạn mở rộng tự do cũng là ngọn đèn trong đêm đen và là hy vọng duy nhất để níu giữ sự tự do họ có được sau Đại hội 20 của Liên Xô. Họ vui mừng với quan niệm của Mao về Trăm hoa Đua nở và mâu thuẫn ôn hoà, bởi vì các quan niệm này hàm ý phê phán việc gán cho mọi sự phê phán cái mác “tư sản”, “tư bản”, hay “đế quốc” và vì thế, chúng không chỉ đặt nghi ngờ về việc chặn họng các tiếng nói chống đối mà còn hàm ý là những khủng hoảng trong nước có thể là do các chính sách của chính quyền và sự can thiệp của ngoại quốc. Người Đông Âu không phải là hoàn toàn hiểu nhầm thông điệp của Trung Quốc. Trung Quốc xem khủng hoảng Ba Lan – Hungary chính là ví dụ điển hình của các vấn đề mà sự đàn áp các tiếng nói đối kháng đã tạo ra, đặc biệt trong nửa đầu năm 1957, khi Trung Quốc hoàn toàn tin vào sự ủng hộ mà dân chúng dành cho chính thể
[17] .
Chính trong bối cảnh này, nhiều nhân vật chống Stalin ở Đông Âu “muốn nhìn thấy ở Bắc Kinh một thánh địa của chủ nghĩa xét lại” (nghĩa là chống lại Stalin)
[18] . Tại Đông Đức, những người cộng sản cải cách, được dẫn dắt bởi những người như Karl Schirdewan, Paul Wandel, và Jürgen Kuczynski, đã ca ngợi Trung Quốc vì đã phân biệt mâu thuẫn “thù địch” và mâu thuẫn “ôn hoà”, nghĩa là khuyến khích sự phê bình. Schirdewan nói, Trung Quốc biết dùng Đại hội 20 theo cách “sáng tạo”. Kuczynski công khai cổ võ cho Chính sách Trăm hoa: “Hãy để hoa nở: mỗi loại hoa lại có kiểu riêng biệt – mọi loại hoa đều tô điểm cho thế giới bằng muôn ngàn sắc màu, hương thơm, hình dáng. Đó chính là thái độ tiến bộ đích thực đối với khoa học gia, nhà văn và nghệ sĩ.”
[19] Các hoạt động và diễn văn của họ buộc phe bảo thủ của Ulbricht (tuy ông này từng có lúc tỏ ra quan tâm đến việc quốc hữu hoá ôn hoà của Trung Quốc) phải tham gia tranh luận nhiều tháng trong năm 1957. Một trả lời của Ulbricht là “vấn đề chính của chúng ta không phải là ‘kêu gọi mọi loại hoa cùng nở rộ’ mà là phải tìm cho ra đúng loại hoa phù hợp, chỉ trồng những gì mới và hữu ích, chứ không được dung dưỡng hạt giống độc hại chỉ vì chúng cũng là hoa.”
[20] Tại Ba Lan, W. Gomulka, bí thư thứ nhất của Đảng, người tìm cách duy trì quan điểm trung dung giữa phe thân Stalin và phe cải cách, nói rằng Đảng của ông quan sát Trung Quốc “với sự cảm thông sâu sắc.”
[21] Ông ca ngợi Trung Quốc vì “sự táo bạo” đóng góp vào “việc dạy sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin” nhờ việc giới thiệu “các phương pháp mới để giải quyết mâu thuẫn ôn hoà” và xu hướng “Trăm hoa Đua nở” mà “trước đây chưa từng biết tới trong công cuộc xây dụng chủ nghĩa xã hội ở các nước khác.” Bình luận thân Trung Quốc của Gomulka là vào ngày 15-5, khi ông phát biểu tại phiên họp toàn thể lần thứ chín của Đảng. Một tuần trước đó, một tạp chí Ba Lan đăng một bài báo, viết rằng “Mâu thuẫn trong con người – bất chấp khác biệt giữa các quốc gia – cũng xuất hiện ở nước ta. Vượt qua mâu thuẫn thông qua thuyết phục và thảo luận thì đòi hỏi một cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, cải thiện bộ máy nhà nước và một chính sách mềm dẻo với các đồng minh chính trị và giai cấp.” Bài báo cũng kêu gọi đem trồng “những bông hoa Trung Quốc.”
[22] Những kêu gọi tương tự cũng được nghe ở các nước Đông Âu khác vào cuối mùa Xuân 1957, khi chiến dịch “chỉnh huấn” đạt cao trào ở Trung Quốc. Đáp lại lời kêu gọi này, một tạp chí của Hungary cảnh báo ngày 26-5:
“Trong số các phong trào Trung Quốc lan toả trong địa hạt văn chương, nghệ thuật, khoa học… thì ‘Trăm hoa Đua nở’ lan toả mạnh nhất ở Hungary… Trong giai đoạn đầu tiên nó bị công kích vì đưa tới sự giải phóng đời sống trí thức và giảm sự hà khắc của chủ nghĩa Marx… Đồng chí Mao Trạch Đông, người quen thuộc với trí thức Trung Quốc và biết đa số họ trung thành với chủ nghĩa xã hội, đã bảo vệ khẩu hiệu ‘Trăm hoa”… sau kinh nghiệm buồn của quá khứ có lẽ chúng ta cần thận trọng trước ý tưởng thực thi các biện pháp của Trung Quốc ở Hungary.”
[23] Ngay từ khi Trung Quốc mới bắt đầu dung dưỡng cho nhiều loại “hoa”, Moskva đã quan sát với sự nghi ngại, không đồng tình và thậm chí lo lắng, đặc biệt sau cuộc nổi dậy Hungary. Theo các nguồn Trung Quốc gần đây mới công bố, khi Trung Quốc quyết định loan báo Chính sách Trăm hoa, họ gửi Lục Định Nhất, người đầu tiên nói về chính sách, đến thông báo cho Pavel Yudin, đại sứ Liên Xô ở Bắc Kinh. Việc này là cách hành xử thông thường, tức là Moskva và Bắc Kinh cần thông báo cho nhau trước về các thay đổi chính sách quan trọng – mặc dù Moskva đã không làm thế trong trường hợp “Báo cáo mật” của Khrushchev, làm Bắc Kinh giận dữ. Sau khi Lục Định Nhất giải thích cho Yudin, đại sứ Liên Xô đưa cho ông Lục một bài báo của Lenin liên quan đến chủ đề này nhưng chống lại sự dung thứ. Trên đường từ sứ quán về nhà, Lục thở dài với Yu Guangyuan, thư ký riêng, rằng “Sự giáo điều của người Nga thật quá sâu!”
[24] Sau khủng hoảng Ba Lan – Hungary, việc Trung Quốc vẫn đi theo xu hướng mở rộng tự do làm Moskva càng thêm bất an. Vào tháng Tư 1957, Yefremovich Voroshilov, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Tối cao Liên Xô, thăm Trung Quốc. Theo Li Yueran, người phiên dịch tiếng Nga cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc từ 1949 đến 1964, Voroshilov bày tỏ lo ngại về Chính sách Trăm hoa với Mao ít nhất hai lần. Voroshilov nói ông không hiểu vì sao các ý kiến chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội lại được phép đăng lên báo. Ông cảnh báo Mao về nguy cơ của sự nới rộng, và lấy Hungary làm ví dụ. Mao trấn an rằng Trung Quốc không phải là Hungary và người cộng sản Trung Quốc không muốn “hoa và cỏ mọc chung trong nhà”. Ông nói, ông tự tin là nếu kẻ thù muốn lợi dụng để lật đổ Đảng Cộng sản Trung Quốc, chúng sẽ chỉ “để lộ mình mà thôi”.
[25] Thái độ điển hình của Liên Xô trước các chính sách cởi trói của Trung Quốc, và đặc biệt trước sự rùm beng trên báo chí Trung Quốc về chính sách Trăm hoa, được thể hiện qua lời nói của Khrushchev. Khrushchev rất khó chịu trước việc người Trung Quốc “giỏi tìm ra những cụm từ hấp dẫn” và rằng họ “biết cách đưa ra khẩu hiệu thích hợp vào lúc thích hợp”.
[26] Nhớ lại sự bối rối gây nên bởi khẩu hiệu của Trung Quốc ở Liên Xô, ông nói:
“Các vị tuyên huấn của chúng tôi hỏi tôi cách thức phản ứng. ‘Nhân dân ta đọc báo về chiến dịch mới này ở Trung Quốc’, họ bảo. ‘Cái trò Trăm hoa này đang len lỏi vào xã hội Liên Xô’. Chúng tôi hướng dẫn cho các tổng biên tập bỏ đi chủ đề Trăm hoa, không đụng đến nữa. Quan điểm của chúng tôi là Trăm hoa là khẩu hiệu để tiêu thụ trong Trung Quốc thôi, và nó không áp dụng ở Liên Xô. Chúng tôi tránh phê phán trực diện chiến dịch nhưng cũng không cổ vũ... Bất kì người nông dân nào cũng biết có những khóm hoa có thể hái, nhưng có những cái phải bỏ. Một số cây ra quả đắng chát, có hại cho sức khoẻ, và có những cây mọc loạn lên và bóp nghẹt đời sống các hạt mầm quanh chúng.”
[27] Khrushchev đã từng gặp rắc rối vì chiến dịch chống Stalin, vì thế ông không thể cho phép có thêm chiến dịch cởi trói, mặc dù ông hiểu là Mao “muốn kích thích nhân dân bày tỏ tư tưởng” để phát hiện những người ông xem là “có hại”.
Khrushchev cũng bác bỏ luận điểm của Mao về mâu thuẫn trong nhân dân ở các nước xã hội chủ nghĩa, một luận điểm được tán thưởng ở Đông Âu. Ngày 2-6-1957, trong cao trào chiến dịch chỉnh huấn và ngay trước chiến dịch chống phái hữu, Khrushchev trả lời phỏng vấn của đài Mỹ CBS tại Moskva. Khi được hỏi về thái độ đối với tuyên ngôn gần đây của Bắc Kinh rằng tại các nước xã hội chủ nghĩa “có thể tồn tại mâu thuẫn giữa quần chúng và lãnh đạo”, Khrushchev trả lời nhát gừng: “Chúng tôi tin rằng chúng tôi không có thứ mâu thuẫn như thế.”
[28] Toàn bộ các chương hồi này chứng tỏ một ảnh hưởng mạnh của Trung Quốc ở Đông Âu và ngay cả ở Liên Xô trong năm 1957. Sự bất đồng và cảnh báo của Moskva và nỗ lực ngăn trở sự cởi trói ở Đông Âu và Liên Xô cho thấy hai lo lắng lớn. Thứ nhất là sự lo ngại về ổn định chính trị ở các nước vệ tinh của Liên Xô; thứ hai là sự cảnh giác của Liên Xô trước thách thức của Trung Quốc đối với vai trò lãnh đạo trong khối cộng sản, đặc biệt khi mà vị trí của Moskva đã bị suy yếu sau quá trình giải ảo Stalin và khủng hoảng Ba Lan – Hungary.
Cuối cùng và cũng trớ trêu, ảnh hưởng của Trung Quốc cũng được phản ánh từ phía ngược lại. Khi Mao ra dấu về chiến dịch chống phái hữu đầu tháng Sáu 1957, những người bảo thủ ở Đông Âu cảm thấy nhẹ nhõm. Một số người có phản ứng nhanh chóng, thậm chí có hành động tương tự. Ví dụ, ở Đông Âu phóng viên báo Đảng
Neues Deutschland tường thuật từ Bắc Kinh ngày 12-7: “Trọng tâm chính hiện nay là nhắm vào ‘phái hữu’… Nay những người cổ vũ cho ‘phái hữu’ đang bị lột trần”.
[29] Vài tháng sau, đầu năm 1958, Ulbricht mở chiến dịch chống “xét lại” trong Đảng với việc loại bỏ Karl Schirdewan (thành viên Bộ Chính trị), Fred Oelßner (thành viên Bộ Chính trị và nhà tư tưởng lâu năm của Đảng), Ernst Wollweber (Thứ trưởng An ninh), và Paul Wandel (một kinh tế gia Marxist có ảnh hưởng). Họ đều từng có thiện cảm và muốn áp dụng các chính sách của Trung Quốc, đặc biệt là Chính sách Trăm hoa. Chiến dịch ở Đông Đức cũng trừng phạt nhiều trí thức đọc nhầm thông điệp từ Trung Quốc và đã để lộ mình, giống như những nhân vật phái hữu ở Trung Quốc bị sập bẫy của Mao.
Bản tiếng Việt © 2008 talawas
[1]Ghi chú của talawas: Do sự chậm trễ từ phía chúng tôi, bản dịch của Lê Quỳnh đã được hoàn thành từ lâu, nay mới có thể công bố trên talawas. Xin chân thành cáo lỗi cùng tác giả và dịch giả.
[2]Ví dụ, các sách tiếng Anh
The Rise and Fall of Communism (tác giả Richard H. Hudelson, New York: Westview, 1993),
The Communist Movement Since 1945 (Willie Thompson, Oxford: Blackwell, 1998),
Eastern Europe Since 1945 (Geoffrey Swain và Nigel Swain, New York: St. Martin's, 1998) và
The Rise and Fall of Communism in Eastern Europe (Ben Fowkes, New York: St. Martin's, 1993) không nhắc đến vai trò của Trung Quốc trong giai đoạn hạ bệ Stalin và giải quyết khủng hoảng Ba Lan – Hungary trong khi vẫn bám vào cách diễn giải nhấn mạnh đến Moskva. Việt Nam lại càng không nằm trong khuôn khổ phân tích lấy Moskva làm chính, và nhiều sử gia cộng sản thậm chí không biết tới trường hợp Việt Nam trong giai đoạn hạ bệ Stalin. Một tác giả viết rằng “Rõ ràng không đảng nào ở Nam Á hay Đông Nam Á bị rối loạn vì sự kiện hạ bệ Stalin, có lẽ vì cách nhìn của họ, vì là các tổ chức chủ yếu dựa vào nông dân và không dính đến Phòng Thông tin Cộng sản Quốc tế, ít gắn bó hơn với thái độ của Liên Xô hoặc sự quan trọng của ký ức về Stalin so với các đảng Đông Âu…” Phát ngôn này rõ ràng tách Việt Nam khỏi cuộc khủng hoảng trong thế giới cộng sản năm 1956-1957 chỉ vì cách mạng Việt Nam dựa vào nông dân và ít chịu ảnh hưởng hơn từ Moskva. Willie Thompson,
The Communist Movement Since 1945, trang 77.
[3]Một ví dụ trong các tác phẩm ban đầu mang quan điểm này là “China and the Communist 'Thaw” của G. F. Hudson. Đây là lời bạt cho quyển
The Hundred Flowers Campaign and the Chinese Intellectuals của Roderick Macfarquhar (New York: Praeger, 1960), trang 299. Một ví dụ gần đây của quan điểm này là quyển
Mao's China and the Cold War của Jian Chen (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2001), trang 145.
[4]Phần trên chủ yếu dựa vào bài “Sự biến Ba Lan / Hungary và chuyến đi của Lưu Thiếu Kỳ đến Liên Xô” của Shi Zhe,
Bai Nian Chao 2 (1997): 11-17. Shi Zhe là thư ký và phiên dịch tiếng Nga cho Mao vào cuối thập niên 1940 và 1950. Ông làm phiên dịch cho phái đoàn Trung Quốc đến Moskva hồi tháng 10-1956. Xem thêm cuốn
Mao's China and the Cold War của Jian Chen để có ghi chép chi tiết hơn về chủ đề.
[5]N. S. Khrushchev, hồi ký
Khrushchev Remembers (Boston: 1970), trang 418
[6]Joseph L. Nogee và Robert H. Donaldson,
Soviet Foreign Policy Since World War II (New York: Pergamon Press, 1984), trang 219
[7]Geoffrey Swain và Nigel Swain,
Eastern Europe Since 1945, trang 71–72
[8]William E. Griffith, chủ biên,
Communism in Europe: Continuity, Change, and the Sino-Soviet Dispute, vol. 2 (Boston: MIT Press, 1966), trang 101
[9]Như trên
[10]Robert V. Daniels, chủ biên,
A Documentary History of Communism (New York: Random House, 1960), trang 346–349
[11]Imre Nagy,
On Communism (New York: Praeger, 1957), trang 23
[12]Janos Radvanyi, "The Hundred Flowers Movement and the Hungarian Revolution", trong quyển
Hungary and Superpowers (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 1972), trang 23. Bài viết này ban đầu in trong tạp chí
China Quarterly 43 (tháng Bảy – Chín 1970): 121-129, dưới nhan đề "The Hungarian Revolution and the Hundred Flowers Campaign", nhưng trước khi đưa vào sách, tác giả có bổ sung và sửa chữa. Tác giả là một viên chức ngoại giao cao cấp tại Bộ Ngoại giao Hungary giữa thập niên 1950 và trưởng phân ban châu Á của bộ này trong các năm 1958-1959.
[13]Ngày 1-11-1956, bình luận trên
Nhân dân Nhật báo nói quan hệ giữa các nước XHCN cần được thiết lập trên nền tảng của “Năm nguyên tắc”. Nhưng ba ngày sau, tờ báo này lại ca ngợi việc Liên Xô dập tắt cuộc nổi loạn của Hungary.
[14]Janos Radvanyi, "The Hundred Flowers Movement and the Hungarian Revolution", trang 23–24
[15]Griffith, chủ biên,
Communism in Europe, 1: 242
[16]Li Shenzi, “Chủ tịch Mao quyết định dụ rắn ra khỏi hang lúc nào?”,
Yenhuang chunqiu, tháng Giêng 1999, trang 5-14. Li là cố vấn về quan hệ quốc tế cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc thập niên 1950 và 1960, và cuối thập niên 1990 trở thành nhân vật hàng đầu trong giới trí thức cởi mở của Trung Quốc. Quan điểm của ông về quyết định của Mao trong chiến dịch chống phái hữu rất có ảnh hưởng.
[17]Ví dụ, trong một cuộc họp với các bí thư tỉnh ủy ngày 27-1, Mao nói các chính sách đàn áp của Rákosi (như không cho biểu tình, không nộp đơn thỉnh nguyện, không chỉ trích…) đã gây ra khủng hoảng ở Hungary. Mao Trạch Đông,
Tuyển tập (Beijing: People's Publisher, 1980), 5: 354. Hai tháng sau, trong hội thảo của cục tuyên huấn, cục trưởng Lục Định Nhất, nhắc tên của Gero, Tổng Bí thư đảng của Hungary năm 1956, như ví dụ của tình hình đất nước nguy ngập vì đàn áp ý kiến khác biệt. Lục Định Nhất,
Tuyển tập Lục Định Nhất (Beijing: People's Publisher, 1992), trang 556.
[18]Griffith,
Communism in Europe, 1: 103
[19]Như trên, 1: 104
[20]Như trên
[21]Quyển
The Warsaw Heresy của S. L. Shneiderman (New York: Horizon Press, 1959) là một mô tả minh hoạ về chính sách thận trọng của Gomulka sau cuộc khủng hoảng tháng 10 ở Ba Lan – Hungary.
[22]G. F. Hudson, "China and the Communist 'Thaw'", trang 30
[23]Như trên, trang 104
[24]Chen Qingquan, "Làm sao Lục Định Nhất lại cổ vũ chính sách ‘Trăm hoa’?”,
Yenhuang chunqiu, tháng Chín 2000, trang 6
[25]Li Yueran,
The Leaders of the New China on the Stage of Foreign Affairs (Beijing: People's Liberation Army Press, 1990), trang 127–128
[26]Nikita Khrushchev,
Khrushchev Remembers (Boston: Little, Brown, 1974), trang 275
[27]Như trên, trang 271
[28]Hudson, "China and the Communist 'Thaw,'" trang 307
[29]Griffith,
Communism in Europe, 1: 78–79, 105