Trần Công
Nói chuyện với em bé
Anh mua của em
mấy điếu thuốc lá
em tính mãi chẳng ra
Sáng nay
có lẽ em vận đỏ
bán được khá nhiều
trưa nay mẹ ốm
đỡ húp cháo thiu.
Nắng xiên khe cửa sổ
nắng thu ấm áp
rọi sáng mắt em
càng sáng
khi em nhẩm đếm
những tờ giấy trăm
Ngoài kia
nhiều em
tung tăng đi học
miệng nhai bánh
tay cặp vở mới tinh
em đâu dám nhìn
đời em còn đói
Ra khỏi ngưỡng cửa
chợt em quay đầu
nhìn lại
chị hàng cốm nếp
– mà vây quanh
một lứa em cùng tuổi
đang ăn ngon lành
em tần ngần
nhìn trong khoảnh khắc
rồi quay đi
lặng thinh
rảo bước
Bước đi em
đi đi em
đi như chế độ ta
đang vượt đau khổ
đang lớn dần
lớn mãi
Đi đi em
xưa kia
Nguyễn Ái Quốc
đã bỏ tuổi thơ êm đẹp
đi lang thang
khắp bốn phương
trên hè phố Pa-ri
bán báo, bán giầy
bán cả tuổi xanh
để tìm lẽ sống
cho nhân loại
và cho em.
Thuở đó
chưa có em
nhưng
giữa những cơn ho xé phổi
cạnh bữa cơm gầy
cạnh hình Lê-nin
NGƯỜI đã nghĩ tới em.
Rao đi em
tiếng em trong sáng lắm
ngần ấy tuổi đầu
em đã bán sức
nuôi em nuôi mẹ
em đã đóng góp
cho đời sáng lên
Em ơi
hãy tự hào
tiếng rao mong manh đó
mười lăm năm trước
trong lao tù
có nhà thơ cách mạng
đã vì em
lên tiếng xót xa hờn oán
đã gieo vào hồn anh
mãi mãi tình đời
mãi mãi biết yêu em.
Nay vẫn là NGƯỜI
cùng những người đó
vẫn xót xa đau khổ
đang vượt sóng gió
mang các em lên
NGÀY MAI
Hãy giữ sạch niềm tin trong sáng
như tiếng rao của em
dù cho hiện nay
trong chế độ
còn có người
nằm trên phù hoa
quên mất mình là người vô sản
bạn của dân nghèo
dù vẫn còn những kẻ
vung phí chủ nghĩa
bước lên bóng các em
hòng đẩy lùi hy vọng
Em ơi
trong cơn bão táp
chế độ ta văn minh
để vươn lên
có nhiều đổ vỡ
tuy sông hồ có đục
nhưng nước mặt người vẫn trong.
Ráng đợi chờ em nhé
nhất định gần đây
em sẽ hết khổ
em sẽ nằm mộng
ước cánh chim bay
trèo con ngựa gỗ
nắng sẽ cười rực chiếc khăn quàng đỏ
trên ngực em
và Bác Hồ
sẽ tiếp em
ngày Thiếu nhi Quốc tế
dưới sân trường
Đảng sẽ dạy em
biết thêm Dôi-a, Mạc Thị Bưởi
nhưng tự em
em đã biết nghĩa đời
biết quý những trang giấy trắng
hơn nhiều em khác.
Hỡi thuốc lá
nhoà dần nhà thủy tạ
bóng em đi
lẫn bóng lớp người
đang triền miên trôi
*
Hai câu chuyện
Nguyễn Mạnh Tường kể
Chính quyền và quần chúng
Vào khoảng 440 trước khi Thiên Chúa giáng sinh thi sĩ Hy Lạp Sophocle sáng tác một bi kịch nhan đề
Antigone.
Polynice là một người, vì đã bị xử oan, mang lòng thù Tổ quốc, đem quân về đánh đồng bào. Hắn tử trận. Nhà vua Creon cấm không ai được chôn cất. Em gái hắn là Antigone không chịu tuân lệnh ấy. Chị tin rằng nếu chị có phạm tội cho nữa thì tội của chị cũng là thiêng liêng. Chị không ngại: “Thời gian cần thiết để làm thoả lòng người chết dài hơn thời gian cần thiết để làm hài lòng kẻ sống”. Bị bắt trong lúc chôn cất anh, chị viện pháp luật thiêng liêng của con người, – được mai táng khi chết, – của tình cốt nhục giữa anh và em. Chị nói:
“Không phải Zeus hay thần Dikê đóng đô dưới đất, đã lập luật pháp ấy trong nhân loại. Tôi không tin rằng sắc lệnh của anh có hiệu lực cho phép một người thường chống lại pháp luật của thần thánh. Mặc dầu pháp luật này không ghi chép ở đâu cả, nó vẫn bất di bất dịch. Không phải từ hôm qua hay hôm nay, mới có các pháp luật đó. Pháp luật ấy trường cửu và không ai biết nó bắt đầu từ đâu, trong quá khứ. Pháp luật của anh, các thần thánh không thể trừng phạt tôi đã bất chấp nó, vì tôi không sợ ý chí của ai cả trên trần thế”. Nhận thấy chính nghĩa về tay chị và chị được nhân dân ủng hộ, chị lên tiếng kêu gọi dư luận:
“Còn gì vinh quang hơn là chôn cất một người anh? Đây này, tất cả các người nghe tôi đều tán thành hành động của tôi, nếu họ không, vì lo sợ, mà cứng lưỡi lại. Đó là quyền của bọn độc tài chuyên chính, muốn người ta làm gì, nói gì thì người ta phải làm, phải nói như vậy.”
Nhà vua Creon, tiêu biểu cho chính quyền độc tài, khi nghe thấy lập luận sắc bén, đanh thép ấy, thấy khó chịu và phản ứng ngay. Nhưng hắn không phản ứng với Antigone, hắn phản ứng với chính con hắn Hemon, là người yêu chị ấy, và vì tình yêu, đứng trên lập trường của Antigone mà chống lại bố. Cảm thấy con mình “mắc mưu địch”, Creon tìm cách “đả thông” con:
“Người nào được quần chúng đặt trên địa vị lãnh đạo, người ấy ai cũng phải phục tùng, trong các chuyện nhỏ, các chuyện công bằng hợp lý và… ngay trong các chuyện khác nữa. Không gì tai hại hơn là bất tuân lệnh của cấp trên. Cho phép như vậy, các đô thị sẽ bị huỷ hoại, các gia đình khuynh đảo, các quân đội đồng minh với nhau, cũng phải đi đến thất bại… Trái lại, muốn cứu vớt quần chúng, khi quần chúng được lãnh đạo tốt, là phải bắt quần chúng tự do phục tùng các lệnh đã được ban bố. Như vậy ta bảo vệ trật tự chung…” Hemon không dám phản kháng bố. Nhưng vì đi sát quần chúng, không mắc bệnh chủ quan, quan liêu, hắn nắm được dư luận cho nên hắn đã mạnh dạn “xây dựng” cho bố:
“Bộ mặt của cha làm cho người trong quần chúng lo sợ, khi nào họ nói cái gì mà cha không ưa. Con, trái lại, được nghe thấy trong đô thị dư luận của nhân dân thương xót thiếu nữ ấy vì đã có nghĩa cử vinh quang và không đáng, vì nghĩa cử đó, phải chết nhục nhã… Xin cha chớ nên suy luận một chiều, theo cách phiến diện, xin cha đừng tin rằng chỉ có gì cha nói mới đúng, mới hợp lý… Học hỏi ở người khác, không ngoan cố, thì dù mình tài giỏi thế nào đi nữa, đâu phải là tủi thẹn?…”
Nhưng Creon không chịu phục thiện: “Tuổi tác như tao đây mà phải nhờ mày dạy khôn à? Chẳng nhẽ một đô thị dạy ta những lệnh ta cần ban bố hay sao? Phải chăng ta đây trị vì để một đứa khác điều khiển ta ư?”
Hemon đau đớn nhắc lại cho bố nghe một sự thật hiển nhiên: “Một đô thị, đâu phải là của riêng của một người?” Nào có một mình Hemon xây dựng cho bố đâu? Cả cụ Tiresias là thầy bói trứ danh, hiểu biết ý định của thần thánh, đọc được trong tương lai, cũng không quản ngại tuổi cao, đến gặp Creon để thuyết phục hắn:
“Ai cũng có thể sai lầm. Nhưng người nào khôn và may mắn, thì biết hối lỗi, tìm các xoá bỏ các tai hại nó gây ra, không có thái độ ngoan cố, không ỳ ra. Ngoan cố thì vụng đấy!” – Nhưng Creon không thực sự cầu thị, hạ lệnh giết Antigone. Hắn không ngờ Hemon cũng chết theo tình nhân:
“Dưới đáy ngôi mồ dùng để chôn sống Antigone, chị này đã lấy thắt lưng treo cổ. Hemon kiệt lực, ôm mình Antigone, khóc lóc thảm thiết, rên rỉ về người yêu đã từ trần, người bố đã tàn nhẫn, tình duyên của mình đã chấm dứt… Khi Creon xuất hiện, Hemon nhìn bố với con mắt ngơ ngác, nhổ vào mặt bố, rồi rút gươm, Creon lùi, chạy. Hemon đâm bố nhưng không trúng. Lúc đó, quay cơn điên cuồng về mình, hắn đâm gươm vào ngực và giang hai tay yếu ớt, hắn ôm lấy xác của thiếu nữ. Máu hắn hộc ra đẫm cả má nhợt nhạt. Ngã gục xuống, hiện thời hắn nắm chết cạnh xác Antigone.”
Sau khi nghe báo tin này, Eurydice là mẹ của Hemon cũng tự vẫn nốt. Creon một lúc chết cả vợ lẫn con.
Ái tình và lý luận
Trong nền văn nghệ thế kỷ XIII của nước Pháp, Henri d’Andeli có sáng tác một cuốn sách thú vị, được quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Câu chuyện này được ghi bằng các hình ảnh trăm mầu, trăm sắc, trên kính ở các cửa sổ nhà thờ.
Nhà vua Alexandre ở Hy Lạp, vì mê một mỹ nữ, sao nhãng công tác, chỉ đắm đuối với tình yêu. Ông thầy của nhà vua là triết gia Aristote lên tiếng phê bình:
“Hoàng đế ơi, tôi tin rằng Hoàng đế đã mất tinh thần sáng suốt rồi, đến nỗi để người ta dắt đi đây đó, như con ngựa, con bò được chăn đi ăn cỏ, ngoài đồng. Đầu óc của Hoàng đế chắc là đã rối loạn vì một thiếu nữ địa vị xã hội thấp kém. Trái tim của Hoàng đế biến đổi đến nỗi mất hết mực thước rồi. Tôi khẩn khoản yêu cầu Hoàng đế, chớ nên đa mang như thế nữa vì mất thời gian vô ích…”
Vua Alexandre sau khi nghe thầy xây dựng, đâm ra thắc mắc, trở về nhìn người yêu, ngắm nghía người yêu:
“Mắt chị sáng sủa, cử chỉ dịu dàng, không có khuyết điểm nào đáng chê trách. Trán chị nhẵn, sáng hơn pha lê, thân thể đẹp, miệng xinh, tóc vàng. Alexandre than: ‘Sao mà ai cũng muốn tôi sống khổ cực? Thầy tôi cũng như họ hàng tôi, không ai thông cảm với tôi cả. Họ muốn ái tình phải nhập khuôn phép. Nhưng nào ái tình chịu theo lệnh của ai? Ái tình chỉ biết theo ý chí của mình thôi’. Tình nhân của nhà vua, được hiểu biết câu chuyện, thấy tức tối đầy lòng. Chị ta cương quyết trả thù nhà triết học. Chị tin ở ái tình. “Ái tình cung cấp tôi đủ sức lực để tranh đấu. Uy lực của ái tình không bao giờ khiếm khuyết. Đối với tôi, thì dù biện chứng học hay văn phạm cũng phải thua. Ngày mai điều ấy sẽ được chứng minh rõ ràng.”
Sáng hôm sau, chị thắng một chiếc áo sơ-mi thôi, nhẹ nhàng, mỏng đẹp, phất phới trước gió. Chị dạo chơi ngoài vườn, vừa đi, vừa hát, nhan sắc tuyệt vời hơn bao giờ hết. Nhà triết học đang đọc sách cũng phải ngẩng lên nhìn, sau đó, không hạ mắt xuống nữa, cứ theo dõi mỹ nữ mãi. Nhưng liên hệ bản thân, nhà triết học than thân:
“Trái tim tôi biến chuyển thế nào? Tôi đây đã già, đầu bạc, vừa xấu lại vừa xanh, vừa đen lại vừa gầy, chỉ giỏi về môn triết lý. Bao nhiêu sức lực của tôi cống hiến cho nghiên cứu rồi…”
Lúc ấy mỹ nữ vừa đi, vừa hát, hái hoa kết thành bó. Nhà triết học thấp thỏm, mong chị lại gần chỗ mình. Quả thực chị ta lại gần. Trong khi trái tim đập mạnh đến nỗi có thể phá tan ngực, nhà triết học lên tiếng đưa tình:
“Thưa mỹ nữ, tôi sẵn sàng hiến dâng mỹ nữ từ trái tim đến linh hồn, từ đời sống đến cả danh dự của tôi. Ái tình và tạo hoá đã giằng buộc tôi với thiếu nữ, tôi không thể nào xa lìa mỹ nữ được…”
Mỹ nữ khoan hồng, nghe, tủm tỉm cười với một nụ cười nghênh tiếp. Chị thông cảm với nhà triết học đã cố “tìm hiểu” chị. Chị sẵn sàng xe duyên kết nghĩa với nhà triết học, nhưng chị đặt một điều kiện, có một điều kiện thôi. Chị muốn được cưỡi lên lưng của nhà triết học để dạo quanh vườn. Nhà triết học tranh đấu tư tưởng gay go. Thoả mãn yêu cầu của mỹ nữ thì còn gì là phẩm giá của con người, danh dự người trí thức nữa? Nhưng không còn con đường nào khác cả. Vả lại vườn này vắng tanh, ai biết đến? Rốt cuôc, nhà triết học đầu hàng vô điều kiện, chịu để đóng cương vào người, rồi làm ngựa để mỹ nữ cưỡi. Alexandre gặp thầy, lăn ra cười, cười cho đến khóc, rồi hỏi thầy:
“Thưa thầy sao lại lạ thế này? Chẳng lẽ thầy lại làm ngựa cho người ta cưỡi? Chắc là thầy loạn óc rồi. Vừa đây, thầy dạy tôi chớ nên mắc mưu ái tình, thế mà bây giờ lại chính thầy bị ái tình biến thầy thành con vật để người ta cưỡi?…”
Nhà triết học thẹn và nhục. Nhưng nhanh trí, đã tìm thấy ngay câu giả nhời:
“Tâu Hoàng thượng, tôi cảnh cáo Hoàng thượng là đúng. Hoàng thượng đang tuổi trẻ mơn mởn, chứa chan nhiệt lực của tuổi thanh niên. Còn tôi đây, đã già nua. Tuy nhiên chỉ cần có một giờ thôi mà ái tình đã tiêu tán tất cả nhận thức của tôi phải bao năm nghiên cứu mới thu được. Thế lực của ái tình thực là mãnh liệt, thắng hết mọi trở ngại. Bây giờ Hoàng thượng phải nhận định rằng nếu một người như tôi mà còn bị điên cuồng vì ái tình thì Hoàng thượng là người trẻ trung lại càng phải đề cao cảnh giác hơn nữa. Muốn tránh thiên hạ chê trách, nhất định không nên đi vào con đường ái tình…”
Để kết thúc câu chuyện này thi sĩ khuyên:
“Qua câu chuyện này, ta nghiệm thấy chớ nên chê ai, chớ nên quở trách những tình nhân, nam và nữ, tuân theo lệnh của ái tình một cách triệt để.
Sự thật là như tôi đã nói, khi nào còn Trời Đất, còn loài người, thì Ái tình luôn luôn thăng và thăng mãi mãi.”
*
Hoàng Cầm
Hướng đi lên Bắc
(kịch thơ)
Lời nhà xuất bản
“Hướng đi lên Bắc” là tên đề một đoạn trong vở kịch thơ
Lên đường của Hoàng Cầm viết cuối năm 1944, trong không khí chuẩn bị Tổng khởi nghĩa của nhân dân. Vở kịch đó diễn nhiều lần từ đầu 1945 ở nhiều địa phương miền Bắc, và ở Hà Nội hồi tạm chiếm, tuy bị kiểm duyệt Pháp cắt xén, mật thám Pháp theo dõi, vở kịch vẫn được một số anh chị em tìm mọi cách đưa lên sân khấu.
Lên đường là một vở kịch lịch sử 2 hồi, nội dung chính là cuộc vận động phong trào cách mạng trong các gia đình nho sĩ yêu nước ở thời kỳ Đông du và Đông kinh Nghĩa thục.
Toàn vở chưa có dịp xuất bản thành sách, chúng tôi tạm giới thiệu một đoạn ở hồi thứ nhất, lấy tên là “Hướng đi lên Bắc”. Trong đoạn này ông Tú là một nhà cách mạng ở ngoại quốc về vận động thanh niên nho sĩ đi ra ngoài, để mưu tìm một con đường giải phóng dân tộc. Thái là một thanh niên nhà nho, có vợ trẻ con thơ, có lòng yêu nước nồng nàn. Đoạn kịch này là một trong những trang kịch thơ của Hoàng Cầm có khả năng gợi lên một cảnh dĩ vãng tốt đẹp: Đó là truyền thống yêu nước và đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Thái – Ông Tú
Thái | Thưa bác, bây giờ cháu xin hỏi kỹ:
Bác từ đâu trở lại chốn quê hương? |
Ông Tú | Tôi đã vượt gần hai ngàn hải lý
Về qua đây rồi lại sắp lên đường. |
Thái | Cữ tháng giêng cụ Cử Hoàng cho biết
Bác ở yên Thượng Hải được ba năm,
Rồi một dạo lại tuyệt vô âm tín
Vì khắp trời Trung Quốc bặt hơi tăm. |
Ông Tú | Dò vết chân của một người chí sĩ
Nơi tha phương khi quốc phá gia vong
Thật cũng khó như đi tìm cái bóng
Con chim chiều bạt gió cuối mùa đông. |
Thái | Bao nhiêu năm bác vào ra sinh tử,
Bốn phương trời mòn mỏi gót điêu linh
Nơi quê hương còn một túp lều tranh,
Một khóm trúc, bác có về đâu nữa!…
Giá bác ở nhà vui cùng cây cỏ,
Thì ngày nay bác cũng được an nhàn. |
Ông Tú | (cười gằn) An nhàn!
Kể con người ai có muốn gian nan!
Như anh đấy. Thôi thế là hạnh phúc!
Một túp lều tranh, sân rêu ngõ trúc,
Vợ đẹp, con khôn, ngày tháng thảnh thơi,
Ngàn dâu xanh che lấp hẳn cuộc đời!
Thế là đủ! Anh không còn được biết
Bao nỗi khổ của người dân nước Việt
Quằn quại kêu thương dưới gót giặc bạo tàn |
Thái | Cháu đã đi chơi từ Bắc vào Nam,
Đâu cũng thấy cảnh nước non tươi sáng
Ở thôn quê thì hội hè đình đám.
Nơi thị thành thì xe ngựa nhởn nhơ,
Cảnh thái bình êm ái như bài thơ
Của Lý Bạch… |
Ông Tú | (tức giận) Tôi không ngờ anh Thái
Có học thức mà như người khờ dại
Đi trong đêm mà cứ tưởng ban ngày
Để cảnh đời hào nhoáng của bên ngoài
Nó cám dỗ… Anh đã thành mất trí.
Tôi không ngờ vượt hai ngàn hải lý
Để về nghe anh nói giọng ươn hèn!
Thôi, tôi đi! (lạnh lùng đi ra cửa) |
Thái | (chạy theo giữ lại) Thưa bác… |
Ông Tú | Anh đã quen
Sống nô lệ. Tôi không cần nói nữa! |
Thái | Có điều gì bác vui lòng tha thứ.
Cháu còn thơ chưa hiểu thấu việc đời.
Cháu chân thành mong bác hãy ngồi chơi
Giảng cho cháu những điều hay lẽ phải. |
Ông Tú | (trở vào, giọng nói nghiêm trang)
Anh có nhớ anh họ gì? Anh Thái? |
Thái | Cháu họ Lê. |
Ông Tú | À, anh Thái họ Lê
Ông nội anh đi biệt xứ không về,
Vì đã quyết khởi binh trừ giặc Pháp
Đời bác anh năm Mậu thìn tháng chạp
Bị cầm tù giặc cắt cụt một chân,
Cụ Lê Bình chống lại giặc xâm lăng
Suốt một tháng ở trong thành Kinh Bắc.
Cụ đã thề không bao giờ hàng giặc
Phút cuối cùng đã chết dưới chân thành.
Đời chú anh lên núi đỏ rừng xanh
Luyện quân sĩ nhưng chẳng may thụ bệnh,
Rừng Hưng Hoá đành chịu thua số mệnh!
Đến thầy anh cũng luân lạc mười năm
Vì giang sơn nước mắt đã ướt đầm
Trên cây cỏ miền Hoa Nam bí mật
(thở dài) Đến đời anh… an nhàn sung sướng thật!
Trông thấy anh tôi tủi thẹn vô cùng |
Thái | Nhưng bây giờ thưa bác… |
Ông Tú | Đã là xong,
Nước đã mất! |
Thái | Nhưng lòng dân đã định!
Đời bình yên… |
Ông Tú | Là cuộc đời cường thịnh
Của con trâu gậm cỏ sống bình yên
Mà kéo cày! Hừ, tư tưởng yếu hèn
Cam phận sống để làm thân tôi tớ!
Giòng họ Lê, mấy đời, anh có nhớ?
Các cụ xưa đã chết vì ai không? |
Thái | Cháu không quên… |
Ông Tú | Vì thương xót non sông
Bao nhiêu người đã chối từ vàng bạc,
Ném công danh, vứt ngựa xe đài các,
Xa vợ con, đi mở một con đường
Đầy chông gai, đầy nước mắt, máu xương
Là đường sống cho giống nòi Nam Việt;
Đã phải chịu những cực hình thảm thiết,
Đã chết dần nơi nước độc rừng thiêng;
Như vậy mà người khác vẫn tiến lên,
Một dân tộc vẫn đợi ngày đứng dậy.
(mỉa mai) Còn anh thì… như con chim bay nhẩy
Trong lồng son, như cây cỏ vô tri,
Như ngựa non kéo mãi cái xe đi
Lằn sông núi vết bánh xe vong quốc!
(chua chát) Anh là ai? Anh không còn tổ quốc
Tôi thương anh mà cũng tiếc cho anh! |
Thái | (chìm đắm trong quá khứ)
Ngày khi xưa khi bác sắp đăng trình,
Cuối mùa đông, cháu mới lên mười tuổi,
Cháu đòi theo, bác xoa đầu cười nói:
“Đợi vài năm rồi bác sẽ quay về.
Cứ ở nhà chép gia phả họ Lê,
Chịu khó học cho ngoan, đừng khóc nhá”.
Cháu khóc mãi, nhưng có người giục giã
Bác vụt đi như một bóng mây vần
Cháu trở về, nỗi nhớ nhạt phai dần
Rồi đi học, rồi thoi đưa ngày tháng… |
Ông Tú | (mỉm cười, chua chát)
… Rồi lấy vợ, rồi bóng chiều thấp thoáng
Ngoài bụi tre, rồi uổng phí một đời… |
Thái | Cháu cũng như chiếc lá lạnh lùng trôi
Dòng nước đục. Nhưng có khi một bóng
Đối ngọn đèn khuya, sách vàng mở rộng,
Cháu thấy như phảng phất bóng ai về:
Ngoài sân kia như có bác đứng nghe
Lời tâm huyết của non sông uất hận
Có những chiều cháu ra vào ngơ ngẩn
Thoảng bên tai lời bác hát ngày xưa:
Rằng “ta lưu lạc giang hồ,
Chèo khua biển gió, bến bờ là đâu.
Nghiến răng bẻ gẫy xe trâu,
Chung tay xoá hết lòng đau mọi nhà…”
Còn nhiều nữa nhưng cháu không nhớ hết… |
Ông Tú | (cảm động)
Ồ, thế ra anh vẫn còn tâm huyết,
Hai mươi năm còn nhớ khúc ca xưa:
Rằng “ta lưu lạc giang hồ,
Chèo khua biển gió, bến bờ là đâu.
Nghiến răng bẻ gẫy xe trâu,
Chung tay xoá hết lòng đau mọi nhà…
Bây giờ ta lại với ta
Nước trong gạo trắng lượt là cùng chung
Giang tay khoá kín chữ đồng
Cái vui bốn cõi, một lòng chung chia”.
| Thái | Ấy thế mà hai mươi năm xa cách,
Áo tuyết sương đã mấy lần sờn rách.
Bác già đi mà cháu đã ba mươi…
Thì cũng theo như dòng nước chẩy xuôi,
Biết làm gì? Mà làm gì sao được! |
Ông Tú | Cháu đừng nhầm! Đã một lòng vì nước
Thì có ai ngồi đếm tuổi bao giờ?
Bác ngày nay lại trẻ hơn ngày xưa,
Cháu mới thực già đi! Nhưng nói mãi
Sắp chiều rồi. Anh lại đây, anh Thái!
Anh ngồi đây tôi nói một câu này. |
Thái | Dạ… |
Ông Tú | Hai mươi năm tôi mới về đây
Chỉ vì nghĩ đến anh. Tôi cả quyết
Tin rằng anh, dòng họ Lê khí tiết,
Dòng họ Lê không sống nhục bao giờ.
Anh có còn là cháu Thái ngày xưa
Đòi theo tôi lên đường đi bốn bể? |
Thái | Cháu cũng biết sống đây là nô lệ,
Bao nhiêu năm làm một kiếp chim lồng
Nhưng… |
Ông Tú | Anh có còn nghĩ đến gì không?
Chắc hẳn có, vì anh là Lê Thái,
Là con cháu cụ Lê Tuân, Lê Đại
Và Lê Bình, là dòng dõi Việt Nam
Là một người biết nghĩ đến giang san,
Không có lẽ cúi đầu ôm gót giặc,
Để vàng ngọc lụa là che lấp mắt
Mà cam tâm làm tôi tớ suốt đời. |
Thái | (ứa nước mắt)
Vâng, cháu đã từng ngồi đếm lệ rơi
Nhưng hôm nay, khi âm thầm tưởng nhớ
Bao nhiêu người đã đi không về nữa
Và mỗi khi cháu thắp một tuần hương
Thờ tổ tiên đã chết vì giang sơn.
Đến hôm nay, hai mươi năm cách trở,
Được gặp bác, cháu bồi hồi tưởng nhớ
Những ngày xưa rộn rịp khách đi về;
Góc vườn kia đã uống máu ăn thề…
Trăng hôm đó đỏ ngầu như bát máu.
Cảnh tượng cũ còn như in lòng cháu,
Đến hôm nay sống lại với ngày xưa. |
Ông Tú | Nhưng cuộc đời có trăm thứ dây tơ
Nó chi phối những con người tâm huyết
Nó trói buộc tâm hồn cho đến chết,
Cất cánh lên không quá được mái nhà.
Lúc gần trưa, tôi có rẽ về qua
Thăm cụ Đồ. Cụ xem chừng phiền muộn
Vì anh lắm… |
Thái | Cháu bây giờ chỉ muốn
Được đi chơi trên toàn cõi Việt Nam
Lấy thiên nhiên quên hết nỗi lo buồn
Của sự sống. |
Ông Tú | Giá đi mà biết được
Nỗi cực khổ của người dân trong nước
Thì may ra cũng ích lợi phần nào
Chứ như anh đem ngay tháng tiêu dao
Thật vô ích!
(đứng dậy lại gần Thái)
Hôm nay anh có dịp
Được ra đi. Nhưng đi là vĩnh biệt
Là lao mình vào cực khổ gian nguy
Tôi về đây có nhiệm vụ đưa anh đi
Cùng một bọn mấy chục người trẻ tuổi. |
Thái | (ngạc nhiên)
Dạ cháu đi…? |
Ông Tú | Đã đi không trở lại!
Chỉ quay về khi đã thắng quân thù.
Đi đây là giành độc lập tự do
Cho Tổ quốc. Chứ không là du tử
Nhìn chim bay trên lưng đèo tuyết phủ
Hay nhìn dòng nước biếc, liễu tà dương.
(im lặng một lát)
Nửa đêm nay tôi đã phải lên đường.
Anh nghĩ xem,… nên đi thì sửa soạn. |
Thái | (bối rối)
Nhưng thưa bác, đêm nay… |
Ông Tú | Đêm ảm đạm…
Tối ba mươi Tết, ngày mai xuân về,
Hoa cúc vàng, tình đối lứa phu thê,
Khói trâm toả, hương rượu nồng man mác… |
Thái | Sao bác không đợi đầu năm ấm áp
Sẽ ra đi? |
Ông Tú | Chỉ có một đêm nay!
Tôi phải đi. Anh có quyền suy nghĩ:
Đêm ba mươi trong tổ ấm vui vầy
Mà ngoài kia, đường xa xôi sương tuyết… |
Thái | Ta đi đâu? Và thưa bác… sẽ làm gì? |
Ông Tú | Ta làm gì đến nơi anh sẽ biết.
Đây những lời tuyên triệu gọi ra đi
Những thanh niên của non sông nước Việt.
(lấy ra một tờ giấy nhỏ đưa cho Thái)
Lời thúc giục viết ra bằng tâm huyết
Một ông già. Anh hãy thuộc làm lòng
Rồi huỷ đi. Giờ đã cuối mùa đông,
Đến sang xuân sẽ bắt đầu việc lớn.
Đi đêm nay kể cũng là hơi muộn,
Nhưng là đêm trừ tịch, lẻn ra đi,
Mấy ngày xuân có thể vượt biên thuỳ…
Thôi, bây giờ để mình anh cân nhắc:
Kìa gian khổ đợi chờ trên cõi Bắc
Đây yên vui trong hương khói gia đình…
Anh nghĩ kỹ đi, kẻo một mối tình
Dù nhỏ bé cũng gây phiền não.
Tôi có việc phải qua làng Hương Thảo,
Gần nửa đêm tôi sẽ đến tìm anh
Việc gia đình anh xếp đặt cho nhanh
Chỉ có một đêm nay, đêm quyết liệt!
Nếu không đi thì… |
Thái | Bác cho cháu biết…
Hẹn nơi nào? |
Ông Tú | À, chút nữa tôi quên:
Tôi sẽ đến đây vào quãng nửa đêm,
Nếu anh đi thì treo đèn trước cửa.
Tôi trở lại mà không đèn không lửa
Thì nghĩa là… anh vui cảnh gia đình.
Còn tôi đi…ra sương gió… một mình!
(Ông Tú đi nhanh ra cửa. Thái nhìn theo suy nghĩ…) | |
*
Phùng Quán
Ai người hiểu rõ nhất?
Gửi chị Khánh và cháu Anh
Chị tôi đi lấy chồng
Năm nay ba mươi tuổi
Bao nhiêu là mong đợi
Lần đầu tiên có con
Tôi đến thăm gặp chị
Đang quỳ dưới chân con
Nâng niu thay tã lót
Đôi bầu vú sữa căng
Tôi bồi hồi cảm động
Chưa dám bước vào phòng
Sợ bước đi kinh động
Người mẹ âu ếm con
Bỗng tiếng máy phóng thanh
Trầm trầm báo tin dữ:
Bọn đế quốc Pháp Anh
Dội bom xuốn thành phố
Nước Ai Cập hoà bình
Gian phòng như sầm tối
Môi chị tắt nụ cười:
Phải chăng là thế giới
Chiến tranh lại đến rồi?
Em ơi lòng người mẹ
Sợ vô cùng tiếng bom
Dù tiếng bom ấy nổ
Cách xa mấy đại dương!
Còn gì đau xót hơn
Bao yêu thương hy vọng
Người mẹ sống nuôi con
Như nuôi một giấc mộng
Đau thương của chiến tranh
Ai người hiểu rõ nhất?
– Chính là chị gái tôi
Người chị tuổi ba mươi
Sinh đứa con đầu lòng.
11-56
*
Thông báo
Bạn đọc chú ý
- Từ Giai phẩm mùa Xuân – Giai phẩm mùa Thu tập I, II, III, đến Giai phẩm mùa Đông tập I, vì nhà xuất bản phải mua giấy, giá ngoài thị trường, nên giá bán mỗi tập là 1500đ. Ngày 10-11-56, Cục Xuất bản (thuộc Bộ Văn hoá) đã giới thiệu nhà xuất bản Minh Đức để mua giấy theo giá cung cấp như các cơ quan của Chính phủ. Sau cuốn Giai phẩm mùa Đông tập I này, số trang vẫn giữ như các tập sách trước, giá sẽ giảm xuống ít nhất là 20%. Xin có lời báo cáo với các độc giả thân mến.
- Đất mới tập II (Chuyện sinh viên) sẽ phát hành vào hạ tuần tháng 12-56, đề nghị các bạn gửi bài trước ngày 10-12-56.
- Nhà xuất bản cần các số Tiểu thuyết thứ Bẩy có đăng truyện dài Trúng số độc đắc của Vũ Trọng Phụng. Bạn nào có xin, cho mượn để chép xin hậu tạ, hoặc muốn nhượng lại, nhà xuất bản xin trả một giá rất cao.
Nhà xuất bản Minh Đức