Mục lục
- Khai từ
- Tiểu sử Sigmund Frueud
Phần thứ nhất: Vượt xa hơn nguyên tắc khoái lạc
- Nguyên tắc khoái lạc
- Nguyên tắc khoái lạc và bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương – Nguyên tắc khoái lạc và trò chơi trẻ em
- Nguyên tắc khoái lạc và sự di chuyển tâm tình
- Động cơ chống lại những kích thích ở ngoài – Sự chống cự thất bại – Khuynh hướng nhắc lại
- Khuynh hướng nhắc lại làm cản trở nguyên tắc khoan khoái
- Tính xung khắc của các bản năng – Bản năng sống và bản năng chết
- Nguyên tắc khoan khoái và bản năng dẫn đến sự chết
Phần thứ hai : Tâm lý tập thể – phân tích cái tôi
- Nhập đề
- Linh hồn tập thể (theo Gustave Le Bon)
- Những quan điểm khác về sinh hoạt tâm thần của tập thể
- Ám thị và libido
- Giáo hội và quân đội, hai đám đông quy ước
- Những vấn đề mới và những hướng tìm tòi mới
- Đồng nhất hóa
- Trạng thái yêu thương và sự thôi miên
- Bản năng quần cư
- Đám đông và bầy ô hợp nguyên thủy
- Một trình độ phát triển của cái tôi: lý tưởng tôi
- Một vài quan điểm phụ
Phần thứ ba: Cái tôi và vô thức
- Lời nói đầu
- Ý thức và tiềm thức
- Cái tôi và vô thức (ES)
- Ngã, siêu ngã và lý tưởng ngã
- Hai loại bản năng
- Những tình trạng lệ thuộc của cái tôi
Phần thứ tư: Quan điểm về chiến tranh và tử vong
- Chiến tranh và những thất bại của chiến tranh
- Thái độ trước cái chết
Khai từ
Cuốn sách nhỏ này trình bày những điểm chính yếu của lý thuyết phân tâm học. Như Freud đã nói: "…
Sự tìm hiểu phân tâm học không có cái gì đồng loại với một hệ thống triết lý có sẵn, một học thuyết toàn vẹn và thành tựu; phân tâm học bắt buộc phải tiến từng bước để hiểu những điểm khúc mắc của động tác tâm thần qua sự phân tích những hiện tượng bình thường và bất thường", tư tưởng của ông được trình bày tuần tự theo sự tiến triển của dòng suy tư với những sự chấn chỉnh và bổ túc cần thiết, chứ không theo một hệ thống chặt chẽ và ổn định ngay từ đầu. Sự kiện ấy có phản ảnh vào cách dùng danh từ. Thí dụ bản năng chính yếu trong con người được mệnh danh là bản năng sống, đến sau gọi là EROS quy tụ tất cả các sắc thái của hiện tượng sinh sống. Một thí dụ khác: từ ngữ
siêu ngã và
lý tưởng tôi tuy cùng chỉ một sự kiện nhưng chúng ta có thể hiểu như sau:
siêu ngã là một kiến thức ở trên cái
tôi (ngã), còn
lý tưởng tôi tượng trương cho đạo đức, quan tòa. Sau này các môn đệ của FruedFreud còn tìm cách tách riêng hai yếu tố
lý tưởng tôi và
tôi lý tưởng, khái niệm sau gồm những khuynh hướng như đồng nhất hóa mình với một siêu nhân, một người anh hùng tưởng tượng, v.v.…
Chúng ta có thể theo dõi từng bước một sự manh nha và tiến triển của những khái niệm nền tảng về phân tâm học, do đó chúng ta nhận định được phương pháp suy tư bác học của ông. Chúng ta sẽ biết phương pháp nhận định và phân tích, suy diễn và tổng hợp để đi đến những kết luận vô tư, thành thực, xác thực và đúng mức. Ông biết dừng lại đúng lúc và gợi ý hay khai lối cho những công cuộc khảo sát về sau. Ông biết trình bày cả những điểm bất lực của mình vì tư tưởng bị giới hạn bởi trình độ kiến thức của thời đại. Thái độ ấy còn là một thái độ xa lánh những kiến trúc triết học, nhất là siêu hình, và thế giới của ông là thế giới khả tri khả giác, thế giới của ông tiếp xúc với sự vật cụ thể. Chúng tôi thiết nghĩ nếu chúng ta muốn tìm một thí dụ ý nghĩa về tinh thần phương pháp thì chúng tôi có thể thấy trong tác phẩm của Frueud một mẫu độc đáo.
Ngày nay tư tưởng của ông đã phổ biến, ảnh hưởng của ông đã lan rộng đến nhiều lãnh vực học vấn, văn học và tư tưởng, người ta đã chấp nhận những phát giác của ông về tiềm thức và bản năng như những sự kiện thiên nhiên không đến nỗi phải kinh tởm và tránh né. Như vậy chúng tôi thiết nghĩ công việc phiên dịch và phổ biến tư tưởng của ông không phải là một việc làm "vô trách nhiệm".
Công việc phiên dịch gặp một vài sự khó khăn. Sự khó khăn chính yếu là ngôn từ của ông mà ông đã nói đến trong cuốn sách này. Nếu ông trình bày tư tưởng của ông bằng ngôn từ sinh vật học hay sinh lý học thì ông có hy vọng được người đọc lãnh hội dễ dàng hơn ngôn từ mới lạ của phân tâm học, nhưng ông quyết tâm bảo vệ môn học của ông cho nên phải tạo ra bầu không khí riêng cho nó để làm hiển hiện hình tướng của nó. Thêm vào sự khó khăn ấy còn sự khó khăn gây ra vì những đặc điểm tiếng nói Việt Nam khác hẵẳn tiếng nói Ấn Âu (không có thì participe, không phân biệt hình thức ký hiệu của động từ, tính từ, trạng từ, v.v….). Trong điều kiện ấy, nếu tôn trọng triệt để từ ngữ thì sẽ làm cho bản văn khó đọc, và có thể làm cho người đọc hiểu ra ý khác với ý nghĩa câu văn. Chúng tôi lựa một biện pháp dung hòa như sau: tôn trọng những khái niệm và từ ngữ khác, đặt lại những cú pháp cho gần với cú pháp Việt Nam, tránh những cách đặt câu cầu kỳ có vẻ "trí thức", cốt lấy cái sáng sủa về cú pháp. Gạt bỏ cho người đọc phần nào rắc rối cú pháp là gạt bỏ cho người đọc một bận tâm không nhỏ, để người đọc rảnh rang chú ý đến những tế nhị của sự trừu tượng hóa. Sự trừu tượng hóa cao độ là một đặc điểm không thể tránh được của công việc suy tầm nguyên lý một môn học. Về danh từ chuyên môn chúng tôi dùng những danh từ y học và triết học đã phổ biến, nếu phải tạo ra một vài danh từ mới thì có chú thích nội dung và phạm vi sử dụng của danh từ.
Người dịch
Tiểu sử Sigmund Freud
Sigmund Frueud sinh tại Fribourg (Moravie) năm 1856. Ông có quốc tịch Áo. Gia đình ông là người Do Thái. Cha ông năm 41 tuổi mới thành hôn với mẹ ông, một thiếu nữ 20 cái xuân, lúc ấy cha ông đã có người con riêng 19 tuổi, người anh cùng cha khác mẹ với FruedFreud.
Sự kỳ thị chủng tộc của người Áo và không khí đặc biệt của gia đình có lẽ đã ảnh hưởng mạnh đến cuộc đời của Freud; có lẽ vì hoàn cảnh sống đặc biệt ấy mà ông có tư tưởng về cộng đồng nhân loại rộng rãi và ông chú trọng đặc biệt đến mối tương hệ nhân quần.
Sau khi đã thâu thái những kiến thức vững chắc về sinh lý học, thần kíinh giải phẫu học, ông làm giảng sư Đại học nước Đức ít lâu rồi sang tu nghiệp tại Ba Lê. Ông chuyên về bệnh hoạn thần kinh (ý bệnh) và ông ngờ rằng bệnh ấy có nguyên nhân tâm thần và có liên hệ đến dục tính, một quan niệm mà trước ông không ai nghĩ đến.
Khi trở về Vienne ông lập gia đình và hành nghề y sĩ chuyên khoa về bệnh thần kinh. Năm 1865 ông gặp bác sĩ Bleuler và cộng tác với Bleuler. Blueler cũng chú ý đến vấn đề tâm lý của những người loạn thần kinh. Phương pháp trị bệnh của ông là thôi miên người bệnh để làm cho người bệnh sống lại những biến cố lúc thiếu thời đã bị quên và ông giải tỏa cho người bệnh những áp lực thầm kín gây ra bệnh. Chứng kiến phương pháp của Blueler, FruedFreud có ý kiến dùng tâm thần trị liệu pháp để đạt kết quả như Blueler không cần đến sự thôi miên. Ngoài ra, kinh nghiệm trị bệnh của ông còn cho ông biết tầm quan trọng của đời sống dục tính không những đối với người loạn thần kinh, mà đối với tất cả mọi trường hợp suy nhược thần kinh. Do đó ông có một ý niệm về hiện tượng dồn nén, một hiện tượng tâm lý then chốt dẫn đến sự hiểu biết những triệu chứng suy nhược thần kinh.
*
Ông quan niệm một phương pháp trị liệu mới thích ứng với các bệnh suy nhược thần kinh, không những kiến hiệu hơn mà còn đỡ xúc phạm đến người bệnh, không như phương pháp thôi miên.
Phương pháp của ông để con bệnh thức tỉnh, thoải mái, trong câu chuyện đối đáp với ông thầy, tình cờ họ nhớ lại một cách thành thực những điều mà họ cả quyết là đã quên. Ông dùng cách "liên tưởng tự do" để người bệnh nói tất cả cái gì thoáng qua tâm trí và ông theo dõi sự tiếp diễn ý tưởng của họ. Những điều nghe được đem lại hội ý với giấc mơ của họ, nhờ thế mà ông luận ra ý nghĩa thầm kín. Giải mộng và liên tưởng tự do là hai sự kiện then chốt của phương pháp trị liệu dựa và tâm lý học.
Kỹ thuật ấy xác định giả thuyết thứ nhất của ông về nguồn gốc dục tính của bệnh suy nhược thần kinh cũng như giả thuyết về dục tính của trẻ thơ mà cho đến bấy giờ y sĩ vẫn không biết đến.
*
Năm 1896 ông thôi cộng tác với Blueler, bấy giờ ông đã có một số đông học trò. Đến năm 1902 ông thành lập một nhóm phân tâm học gia gồm có Adler, Kahame, Rank, Reitler, Sachs, Stekel, Federn, Ferenczi, Tausk. Sau nhóm của ông quy tụ thêm Abraham, Meier, Rieklin và một số người ở ngoại quốc như E. Jones, Ferenczi, A. Brill. Một tờ tạp chí chuyên môn ra đời lấy tên là Jahrbuch fuür psycho-analytische und psychopathologischePsychoanalytiquen und Psychopathologyquen Forschungen.
Một hội nghị quốc tế phân tâm học khác được triệu tập tại Nuremberg năm 1910, và cũng tại đây thành lập hội Quốc tế phân tâm học. Một hội nghị thứ ba được nhóm họp tại Weimar năm 1911.
Chính vào thời kỳ này đã xảy ra một sự chống đối của hai môn đệ ông, Adler và Jung (1913). Adler và Jung có ý kiến loại bớt ảnh hưởng dục tính trong nền tảng học thuyết, bởi vậy ông thầy tuyên bố không công nhận hai người là môn đồ phân tâm học. Adler liền dùng danh từ "tâm lý cá nhân" để gọi môn học của mình, còn Jung thì dùng danh từ "tâm lý phân tích".
*
Thời kỳ sáng tác mạnh mẽ nhất của Freud là thời kỳ Đệ nhất thế chiến. Trong thời kỳ ấy những quan niệm đầu tiên của ông về phân tâm học được thuyết minh; óc sáng tạo của ông kết hợp với sự lao tâm khổ trí trong nhiều năm đã đem lại kết quả, kết tinh trong một sự nghiệp huy hoàng. Sự nghiệp ấy gom góp lại thành 17 tập viết bằng tiếng Đức. Một sự nghiệp phong phú trình bày từ nền tảng lý thuyết phân tâm học đến những quan niệm về các ngành học vấn nhìn xuyên qua nhỡn quan phân tâm học. Quan điểm của ông là quan điểm nhân văn học và nhân loại học hơn là triết học, ông có những cái nhìn độc đáo về chiến tranh, tôn giáo, liên lạc nhân quần, ý nghĩa sinh tử, v.v…. Những quan điểm của ông về nguồn gốc xã hội và đạo đức (Vật Tổ và Cấm Kỵ), về đạo giáo (Moise và Độc Thần) làm đảo lộn tư tưởng thời đại.
Từ sau hồi Đệ nhị thế chiến, tư tưởng của ông lan tràn khắp thế giới, các chuyên gia và cả những người không chuyên gia tìm cách sử dụng những khám phá của ông, nhưng đáng tiếc là nhiều người đã làm sai lệch một cách thô thiển. Triết học, văn chương, tâm lý học, xã hội học, y học, v.v…. đã nhận được một luồng gió mới đem lại sinh khí cho công việc chiêm nghiệm và suy tư.
*
Nhờ sự can thiệp của Tổng thống Roossewvelt, FruedFreud được phép rời khỏi nước Áo sang ở nước Anh để tránh những khó khăn gây ra cho ông ở kinh thành Vienne. Ông mất năm 1939 ở Londres. Trong nước ông, sự ác cảm của quần chúng chỉ dịu đi khi danh tiếng của ông vang dậy khắp thế giới.
Qua tiểu sử của ông, qua sự nghiệp của ông, người ta nhận thấy ông là người rất sáng suốt, can đảm và thành thực, ông khai chiến với tất cả mọi thành kiến, mọi hình thức áp bức, mọi quan niệm thiên lệch bấy nay gieo rắc những lỗi lầm tai hại cho cuộc sống xã hội. Để tiến tới sự hiểu biết cụ thể và chân thực về con người và cuộc đời, ông tạo cho mình một sức tin tưởng sự thật đến say mê, nâng đỡ ông trong cuộc tranh chấp gay go với những người cố chấp, hủ lậu hay có óc bè phái.
Người y sĩ làm việc yên lặng trong phòng thí nghiệm này đã thực hiện được một cuộc cách mạng quan trọng trong khoa học nhân tính. Nhờ ông, nhân loại đã có ý thức về đáy sâu thăm thẳm của tâm hồn, khoa học nhân văn đã biết vượt qua những ảo ảnh tâm lý, luân lý và xã hội để tìm những nền móng chắc chán hơn cho sự hiểu biết và đặt lại vấn đề.
Vũ Đình Lưu
Phần thứ nhất: Vượt xa hơn nguyên tắc khoái lạc
1. Nguyên tắc khoái lạc
Lý thuyết phân tâm học chấp nhận toàn thể rằng sự diễn biến của tiến trình tâm thần bị chi phối bởi nguyên tắc khoái lạc. Nói khác đi, nhân danh là tâm phân học gia, chúng tôi cho rằng mỗi khi có một áp lực khó chịu hay cực nhọc thì tiến trình tâm thần diễn biến cách nào để giảm bớt áp lực, nghĩa là biến đổi trạng thái khó chịu ra trạng thái dễ chịu. Nói như vậy là chúng tôi đưa vào việc nghiên cứu tiến trình tâm thần một quan điểm về sự điều động và tổ chức; trong sự mô tả các hiện tượng chúng tôi kể đến yếu tố điều động và tổ chức cũng như yếu tố thích xác và yếu tố năng động, sự mô tả ấy sẽ là sự mô tả đầy đủ nhất mà chúng tôi có thể đạt được hiện thời, sự mô tả đáng gọi là mô tả
tâm lý siêu hình.
Chúng tôi không bận tâm nghĩ xem nguyên tắc khoái lạc có gần với hệ thống triết lý nào đã được thừa nhận hay không.
Chỉ nhân việc mô tả và cắt nghĩa những sự kiện hàng ngày quan sát được mà chúng tôi đi đến chỗ đề ra những giả thuyết dùng vào việc suy lý như vậy. Trong công việc phân tâm của chúng tôi, chúng tôi không có ý tìm sự ưu tiên hay sự độc đáo, vả chăng những lý lẽ để đưa ra nguyên tắc ấy có tính cách hiển nhiên đến nỗi chúng tôi không thể không chấp nhận được. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ thành thực tri ân những thuyết triết học hay tâm lý học giải thích một cách chính xác những cảm giác dễ chịu và khó chịu chi phối chúng ta như những mệnh lệnh nghiêm ngặt. Đây là lãnh vực tối tăm và khó thâm nhập nhất của hoạt động tâm thần, chúng ta không thể cưỡng lại sự thúc giục của nó được, bởi vậy cho nên chúng tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là chỉ nên đưa ra những giả thuyết càng có tính cách đại quát và đại loại càng hay. Bởi vậy cho nên chúng tôi phải xác định số lượng tinh lực (không liên kết) cần cho sinh hoạt tâm thần giữa khoảng cách của hai cảm giác dễ chịu và khó chịu, mặt khác chúng tôi cố tìm ra một vài liên lạc giữa hai cảm giác ấy trong khi chấp nhận rằng sự khoan khoái dễ chịu tương ứng với sự bội tăng số lượng tinh lực còn sự khó chịu tương ứng với sự thuyên giảm số lượng tinh lực. Những liên lạc ấy, chúng tôi không quan niệm dưới hình thức tương hệ cường độ cảm giác với những biến đổi xảy ra, chúng tôi cũng ít nghĩ rằng có một tỉ lệ trực tiếp trong mối tương hệ (vì mọi kinh nghiệm tâm thần sinh lý học của chúng tôi đều chống lại quan niệm ấy); có lẽ yếu tố quyết định của cảm giác là mức độ tăng hay giảm số lượng tinh lực trong một thời gian nhất định. Kinh nghiệm có thể đem lại nhiều dữ kiện để tìm hiểu, nhưng phân tâm học gia không thể bước vào những vấn đề ấy nếu không quan sát được những sự kiện chắc chắn và nhất định có thể hướng dẫn họ được.
Tuy nhiên, chúng tôi không thể không để ý đến ý kiến của một nhà bác học thâm trầm như G. Th. Fechner: ông quan niệm vấn đề "dễ chịu khó chịu" với những nét chính rất gần với những điều mà chúng tôi đã tìm ra nhân việc nghiên cứu phân tâm học của chúng tôi. Trong cuốn sách
Einige Ideen zur Schöpfungs-und Entwicklungsgeschichte der Organismen (1873, thiên XI, phụ lục trang 94), ông trình bày quan niệm của ông như sau:
"Vì những xung động (impulsion) ý thức được đều kèm theo cảm giác dễ chịu hay khó chịu, chúng tôi có thể chấp nhận rằng cũng có những liên lạc tâm-thần-thể-chất giữa hai sự kiện: một đằng là cảm giác dễ chịu và khó chịu, đằng kia là những trạng thái ổn cố và bất ổn; chúng tôi có thể căn cứ vào những liên lạc ấy để củng cố giả thuyết của chúng tôi (trình bày ở nơi khác) đại ý như sau: một chuyển động tâm-thần-thể-chất vượt khỏi ngưỡng cửa vào ý thức sẽ kèm theo sự dễ chịu nếu nó tiến gần đến tình trạng ổn cố hoàn toàn và đã vượt quá một giới hạn nào đó; chuyển động ấy sẽ kèm theo sự khó chịu nếu nó tiến gần tới tình trạng bất ổn hoàn toàn và cũng vượt quá một giới hạn nào đó giữa hai giới hạn đó là một khu vực vô cảm giác, chỉ có hai điểm giới hạn đó đáng coi là có phẩm chất dễ chịu và khó chịu…"
Những sự kiện khiến cho chúng tôi gán cho nguyên tắc khoan khoái (dễ chịu) vai trò chính trong đời sống tâm thần đều xuất phát từ một giả thuyết theo đó bộ máy tâm thần cố gắng giữ cho những khích động ở một mức độ càng thấp càng hay, hay ít ra ở một mức độ càng ổn cố càng hay. Đó là nguyên tắc khoái lạc trình bày hơi khác một chút, bởi vì, nếu bộ máy tâm thần ráng giữ số lượng kích thích ở một mức độ càng thấp càng hay, thì tất cả cái gì có thể tăng gia số lượng kích thích ấy chỉ có thể coi là yếu tố cản trở, nghĩa là cảm thấy như một cảm giác khó chịu. Như vậy thì nguyên tắc khoái lạc cũng do nguyên tắc giữ nguyên tình trạng (principe de constance) mà suy ra; thực ra nguyên tắc giữ nguyên tình trạng cũng xuất hiện với chúng tôi khi chúng tôi quan sát những sự kiện bắt buộc chúng tôi phải chấp nhận nguyên tắc khoái lạc. Sự thảo luận sau này sẽ minh thị rằng khuynh hướng của bộ máy tâm thần nói đến ở đây đại diện cho một trường hợp đặc biệt của nguyên tắc do Fechner tìm ra, đó là khuynh hướng trở lại tình trạng ổn cố, ông đã xếp những cảm giác khoan khoái và khó chịu vào khuynh hướng ấy.
Nhưng nói đến vai trò nổi bật của nguyên tắc khoan khoái trong sự diễn biến của tiến trình tâm thần có đúng không đã? Nếu đúng thì phần lớn những tiến trình tâm thần của chúng ta phải kèm theo sự khoan khoái, hay dắt đến sự khoan khoái, nhưng khốn thay, phần lớn những kinh nghiệm của chúng tôi đều mâu thuẫn rõ rệt với kết luận ấy. Bởi vậy cho nên chúng tôi buộc lòng phải chấp nhận rằng có một khuynh hướng mạnh mẽ mật thiết với linh hồn và hoạt động theo nguyên tắc khoan khoái, nhưng có nhiều mãnh lực và điều kiện khác chống đối lại khuynh hướng ấy, thậm chí kết quả chung cục có thể không phù hợp với nguyên tắc khoan khoái. Về vấn đề này Fechner có nói: "Nhưng khuynh hướng đạt tới đích không có nghĩa là bao giờ cũng thực hiện được mục đích, nói chung thì chỉ có thể thực hiện gần được mà thôi". Khi tìm hiểu xem những điều kiện nào có thể ngăn cản sự thực hiện nguyên tắc khoan khoái, chúng tôi làm việc trong một lãnh vực chắc chắn và quen thuộc, chúng tôi có thể dùng đến những kinh nghiệm phân tâm của chúng tôi.
Chúng tôi đã biết từ lâu rằng trở lực thứ nhất cho nguyên tắc khoan khoái là trở lực bình thường và thường có. Chúng tôi biết rằng bộ máy tâm thần theo sự cấu tạo của nó, tự nhiên tìm cách vâng theo nguyên tắc khoan khoái, nhưng vì gặp phải những khó khăn nguồn gốc ở ngoại giới, nó không thể ngang nhiên tự xác định bất cứ lúc nào, làm như thế còn nguy hiểm cho sự bảo tồn thân thể con người. Dưới ảnh hưởng của bản năng bảo tồn cái
Tôi, nguyên tắc khoan khoái phải lánh mặt và nhường chỗ cho nguyên tắc thực tại (principe de réalité), theo nguyên tắc ấy chúng ta vẫn giữ mục tiêu tối hậu là sự khoan khoái nhưng bằng lòng hoãn lại một thời gian, không thực hiện ngay, không lợi dụng cơ hội thuận tiện nào đó để hối hả thực hiện, chúng ta còn có thể chịu đựng sự khó khăn nhất thời để đi một đường lối vòng vèo khác khá dài mới tới đích. Tuy nhiên, những xung động dục tính khó "giáo hóa" hơn, trong một thời gian lâu chúng vẫn chỉ nghe theo nguyên tắc khoan khoái; nguyên tắc khoan khoái thường khi chỉ hoạt động trong phạm vi sinh hoạt dục giới hay trong phạm vi cái
Tôi, thành thử nó thắng hẳn nguyên tắc thực tại, điều đó tai hại cho toàn diện thân thể con người.
Tuy nhiên chúng ta không thể chối cãi được rằng thay thế nguyên tắc khoan khoái bằng nguyên tắc thực tại chỉ cắt nghĩa được một phần rất nhỏ những cảm giác khó chịu và chỉ những cảm giác khó chịu và chỉ những cảm giác khó chịu không mãnh liệt lắm. Một nguồn gốc khác của những cảm giác khó chịu và nhọc nhằn là sự xung động và chia rẽ xảy ra trong đời sống tâm thần vào thời kỳ cái tôi tiến triển đến những tổ chức tâm thần cao trọng và nhất trí hơn. Người ta có thể nói rằng hầu hết tinh lực của bộ máy tâm thần là do những xung động (impulsion) cố hữu từ tiên thiên của bộ máy ấy, nhưng những xung động ấy không đạt tới trình độ tiến triển ngang nhau. Có thể rằng trên đường tiến triển, một vài xung động hay một vài khía cạnh của một vài xung động khác về cứu cánh và khuynh hướng, nghĩa là không thích hợp với những xung động mà sự tổng hợp làm thành nhân tính toàn vẹn, hoàn tất. Những khuynh hướng không thích hợp ấy bị loại trừ và dồn nén lại, không được tham dự vào việc tổng hợp nhân tính; chúng bị giữ lại ở một mức độ phát triển thấp của tâm thần, và vì thế không thể nào được thỏa mãn. Nhưng cũng có khi chúng tìm được sự thỏa mãn hoặc trực tiếp, hoặc bằng cái gì khác thay thế; sự thay thế ấy trở thành nguồn gốc những cảm giác khó chịu cho thân thể con người, đáng ra, trong những trường hợp khác, sự thay thế có thể là nguồn gốc những cảm giác khoan khoái. Sau những cuộc xung động gây ra sự dồn nén, nguyên tắc khoan khoái lại tìm cách củng cố địa vị bằng những đường lối quanh co, trong khi ấy một vài xung động khác vì có lợi cũng hùa vào giúp cho nó thắng thế, chúng tìm cách thu hút lấy càng nhiều khoan khoái càng hay. Người ta chưa hiểu hết hay chưa có thể mô tả sáng sủa những chi tiết của tiến trình theo đó sự dồn nén biến đổi một sự kiện có thể đem lại khoan khoái thành một sự kiện gây ra khó chịu, nhưng người ta có thể chắc chắn rằng mọi cảm giác khó chịu có bản chất suy nhược thần kinh xét cho cùng chỉ là một sự khoan khoái mà không được người suy nhược cảm thấy là khoan khoái.
Chúng ta chưa tìm hiểu hết nguồn gốc của phần lớn những kinh nghiệm tâm thần khoan khoái hay khó chịu, nhưng nếu tìm thấy những nguồn gốc khác, chúng tôi cũng có thể nào điều đó không phương hại đến ưu thế của nguyên tắc khoan khoái, quan điểm của chúng tôi không phải là không có phần nào hữu lý. Quả vậy, phần lớn những cảm giác khó chịu của chúng ta đều gây ra bởi áp lực của những xung động không được thỏa mãn, hay bởi những yếu tố ở ngoài; những yếu tố ở ngoài khi thì khơi động những cảm giác khó chịu, khi thì làm nổi lên những cảm tưởng chờ đợi day dứt, những cảm tưởng "nguy hiểm" trong bộ máy tâm thần của chúng ta. Phản ứng chống lại những xung động vì không được thỏa mãn mà gây áp lực và những đe dọa nguy hiểm đó là phản ứng biểu lộ sự hoạt động riêng của bộ máy tâm thần; phản ứng đó xảy ra vì ảnh hưởng của nguyên tắc khoan khoái nguyên vẹn hay biến đổi vì nguyên tắc thực tại. Có lẽ không cần phải đặt một giới hạn mới cho nguyên tắc khoan khoái, tuy nhiên, xét nghiệm cơ quan tâm thần phản ứng trước những nguy hiểm gây ra bởi thế giới bên ngoài, chúng ta thâu lượm được những tài liệu mới và nghĩ đến những cách khác để đặt câu hỏi thích hợp với vấn đề của chúng ta.
2. Nguyên tắc khoan khoái và bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương, nguyên tắc khoan khoái và trò chơi trẻ con
Sau những khi thân xác con người bị đụng mạnh như những tai nạn hỏa xa và những tai nạn khác nguy hiểm đến tính mạng, người ta thấy xảy ra một trạng thái đã lâu nay được mô tả với tên gọi là "suy nhược thần kinh ngoại thương" (névrose traumatique). Trận chiến tranh khủng khiếp mới kết liễu đã gây ra nhiều bệnh thuộc loại ấy, và ít ra cũng cho ta thấy sự bất lực của những quan điểm xếp loại những bệnh ấy vào loại tổn thương vật chất của trung học hệ đồng thời xuất hiện với sự té ngã hay va chạm quá mạnh. Những bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương rất gần với bệnh loạn thần kinh (hystérie) vì có nhiều triệu chứng vận động (symtôme moteur), nhưng thường thường có khác vì những dấu hiệu đau đớn chủ quan (tinh thần) như trong trường hợp chứng ưu uất (mélancolie) và chứng u uất (hypochondrie), cũng có khác vì sự suy yếu và đảo lộn gần hết các cơ năng tâm thần. Cho đến ngày nay người ta vẫn chưa có một ý niệm đúng về bệnh suy nhược thần kinh thời chiến tranh và suy nhược thần kinh ngoại thương. Trong loại bệnh suy nhược thần kinh thời chiến có một sự kiện hầu như vừa làm cho vấn đề sáng sủa thêm lại vừa làm cho vấn đề rắc rối thêm, đó là sự kiện sau đây: những triệu chứng bệnh hoạn, tùy trường hợp, có thể xảy ra, mà bệnh nhân không bị tai nạn thương tích trầm trọng. Còn như bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương thông thường thì chúng tôi thấy có hai điểm có thể dẫn lối cho công việc khảo sát, đó là sự
ngạc nhiên và
sự kinh hãi, hai yếu tố ấy hình như đóng một vai trò chủ chốt gây ra bệnh, trong bệnh ấy hầu như người bệnh không có thương tích hay tổn thương nào cả. Thường thường người ta vẫn coi những chữ
kinh hãi,
sợ hãi và
lo sợ là những danh từ đồng nghĩa. Như vậy có sự lầm lẫn đáng tiếc; rất dễ nhận thấy khác nhau nếu ta nhận xét xem mỗi xúc động trong ba loại ấy liên hệ với sự nguy hiểm thế nào. Lo sợ là một trạng thái đặc biệt ở điểm chờ đợi sự nguy hiểm, người ta chuẩn bị để đối phó với một sự nguy hiểm mà người ta biết rõ hay không biết rõ; sợ hãi thì phải có một vật trước mắt làm cho người ta phát sinh sự sợ hãi đó; còn như kinh hãi thì là một trạng thái phát sinh vì có một sự nguy hiểm hiện tại và bất ngờ: nét đặc biệt của nó là sự bất chợt. Tôi không cho rằng sự lo sợ có thể gây ra bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương; trong sự lo sợ có cái gì bảo vệ người ta chống lại sự kinh hãi và chống lại bệnh suy nhược thần kinh mà sự kinh hãi gây ra. Đây là một điểm mà sau này sẽ còn nói đến.
Nghiên cứu giấc mơ có thể là phương tiện thăm dò chắc chắn nhất để tìm hiểu những tiến trình tâm thần sâu xa. Trong giấc mơ của những người mắc bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương có một điểm đặc biệt là họ trở lại tình trạng bị tai nạn, lúc tỉnh dậy họ lại có một sự kinh hãi khác. Tiếc rằng sự kiện ấy không làm cho người ta ngạc nhiên mấy tí. Người ta cho rằng đây là một bằng chứng về cường độ mạnh của ấn tượng về tai nạn gây ra ngoại thương, ấn tượng đó mạnh mẽ đến nỗi trong giấc ngủ người bệnh lại thấy nó. Như thế có thể nói rằng tâm thần người bệnh bị cột chặt vào với ngoại thương. Về bệnh loạn thần kinh, chúng tôi đã biết từ lâu rằng người bệnh đứng dừng lại ở biến cố ngoại thương khiến cho họ thành bệnh. Breuer và Freud, vào năm 1893 đã nói rằng: "Chỗ đau khổ nhất của người loạn thần kinh là họ nhớ lại". Trong những bệnh suy nhược thần kinh thời chiến tranh, Ferenczi và Simmel tưởng rằng có thể cắt nghĩa một vài triệu chứng vận động
[1] bằng hiện tượng "dừng lại ở tình trạng ngoại thương".
Nhưng chúng tôi không hề biết có người nào mắc bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương mà trong lúc thức họ bận tâm nhiều đến kỷ niệm về tai nạn xảy ra cho họ. Trái lại họ cố gắng quên đi không nghĩ đến nữa. Dù cho rằng giấc mộng ban đêm tự nhiên đặt người vào tình trạng làm ra bệnh chăng nữa, người ta cũng tỏ ra không biết đến bản chất của giấc mơ. Có lẽ bản chất giấc mơ của người bệnh phải gồm những quang cảnh thuộc về thời kỳ mà họ còn khỏe mạnh hay liên hệ đến hy vọng khỏi bệnh của họ. Tuy những giấc mơ đau khổ thường kèm theo bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương, nhưng chúng tôi muốn bảo vệ quan điểm của chúng tôi – duy nhất phù hợp với sự việc có thật ngoài thực tại – theo quan điểm ấy thì khuynh hướng trội hẳn của giấc mơ là khuynh hướng thực hiện ước vọng; muốn bảo vệ quan điểm ấy thì chúng tôi phải chấp nhận rằng trong trạng thái ấy chức vụ của giấc mơ, cũng như nhiều chức vụ khác, đã bị xáo trộn trầm trọng, nó đã bị đánh lạc khỏi mục tiêu của nó, hay chúng tôi phải nói đến những khuynh hướng tự hành hạ bí hiểm (masochisme).
Bởi vậy chúng tôi đề nghị hãy gác lại vấn đề suy nhược thần kinh ngoại thương tối tăm mờ mịt mà chỉ nghiên cứu xem bộ máy tâm thần làm cách nào để thực hiện một công việc bình thường và sớm sủa nhất là trò chơi trẻ em.
Những lý thuyết về trò chơi trẻ em mới đây đã được S. Pfeifer trình bày và xét định về phương diện phân tích trong cuốn sách
Imago (V, 4), tôi xin giới thiệu cuốn sách ấy với quý bạn đọc. Những thuyết ấy cố gắng tìm ra những nguyên nhân chi phối trò chơi trẻ em, nhưng không nhấn mạnh quan điểm điều động và tổ chức, liên lạc với việc tìm khoan khoái của đứa trẻ. Chúng tôi không bận tâm với toàn bộ những hiện tượng ấy, chúng tôi chỉ nhân một cơ hội thuận tiện, quan sát một đứa trẻ 18 tháng chơi một trò thứ nhất tự nó nghĩ ra. Không phải là một việc quan sát sơ qua, vì tôi đã sống trong nhiều tuần lễ cùng với đứa bé và cha mẹ nó trước khi đoán ra ý nghĩa những hành vi bí hiểm nhắc đi nhắc lại nhiều lần của đứa bé.
Đứa trẻ không có dấu hiệu gì là thông minh sớm; nó biết đi lúc 18 tháng, nó chỉ biết nói một vài tiếng có thể hiểu được và kêu một vài tiếng ấm ứ mà người xung quanh nó hiểu lắm; cách đối xử của nó với cha mẹ và người đày tớ gái duy nhất trong nhà là rất tốt, ai cũng khen đứa bé ngoan. Nó không quấy đêm, cha mẹ cấm sờ vào vật gì hay bước vào chỗ nào nó cũng vâng lời, nhất là lúc vắng mẹ nó không khóc, tuy mẹ vắng mặt trong nhiều giờ và nó bám riết mẹ, mẹ đã cho bú sữa mẹ và một mình nuôi con không có ai trợ giúp. Đứa trẻ ngoan ấy có thói quen cầm được cái gì cũng ném vào một góc nhà hay xuống gầm giường, v.v…. Sau này tìm kiếm và thu nhặt những vật ấy lại không phải là công việc dễ. Khi liệng đồ vật đi xa như vậy nó nói theo một tiếng o-o-o, bà mẹ và người quan sát nó đều đồng ý với nhau rằng tiếng kêu đó không phải là một thán từ, mà có nghĩa tương đương với chữ "mạnh" (ném mạnh cho thật xa). Sau cùng tôi nhận thấy đó là một trò chơi của nó, đứa trẻ chỉ dùng đồ chơi để "ném ra xa". Một hôm tôi quan sát thấy sự kiện sau đây, sự kiện xác định cách nhìn của tôi. Đứa trẻ có một cái ống chỉ bằng gỗ buộc sợi dây. Nó không bao giờ nghĩ đến cách chơi cầm đầu dây kéo theo ống đằng sau làm chơi kéo xe; nhưng nó cầm đầu dây rồi ném ống chỉ rất khéo qua thành giường cho rớt ra ngoài khuất mắt nó. Bấy giờ nó kêu lên tiếng o-o-o như mọi lần, sau đấy nó cầm đầu dây lôi ống chỉ lên vui vẻ mà chào bằng tiếng "đa" (đây rồi!). Trò chơi như thế là đầy đủ, gồm có một hồi làm biến mất đồ vật và hồi thứ hai làm tái xuất hiện đồ vật, nhưng thường thường người ta chỉ trông thấy có hồi thứ nhất nhắc đi nhắc lại mãi đến nhàm chán, hiển nhiên là hồi thứ hai mới làm cho đứa trẻ vui thích hơn cả.
Giải thích trò chơi ấy cũng dễ. Sự cố gắng lớn lao của đứa trẻ có nghĩa là từ bỏ một xu hướng (sự thỏa mãn một xu hướng), và như thế để chịu đựng tình trạng vắng mẹ mà không ta thán. Đứa trẻ tự đền bù sự vắng mặt mẹ bằng cách tái tạo quang cảnh biến mất rồi tái xuất hiện với những đồ vật ở tầm tay nó. Dĩ nhiên giá trị tình cảm của trò chơi không tùy thuộc sự kiện chính nó nghĩ ra, hay người nào, cảnh tượng nào đã gợi ý cho nó. Cái chúng tôi chú trọng đến ở chỗ khác chứ không ở chỗ ấy. Hẳn là bà mẹ đi khỏi đối với đứa trẻ không phải là một chuyện vui vẻ hay nó chỉ dửng dưng. Như vậy thì ta làm cách nào dùung hòa việc tái tạo một sự tình đau khổ cho nó với nguyên tắc khoan khoái? Có lẽ người ta sẽ bảo rằng biến việc mẹ đi khỏi thành trò chơi là bởi mẹ đi khỏi bao giờ cũng cần phải xảy ra trước rồi sau mới có lúc mẹ trở về là lúc vui vẻ mà đứa trẻ cho là đối tượng của trò chơi. Nhưng cắt nghĩa như thế không đúng với những điều quan sát được; hồi thứ nhất nghĩa là lúc mẹ đi, tạo cho nó một trò chơi riêng rẽ, đứa trẻ lặp lại cảnh tượng ấy nhiều hơn cảnh tượng mẹ về và không nhắc tới cảnh mẹ về.
Phân tích một trường hợp như thế không đủ yếu tố để kết luận dứt khoát. Một sự quan sát vô tư sẽ cho cảm tưởng rằng nếu đứa trẻ đã lấy những sự tình ấy là chủ đích cho trò chơi, thì đó là bởi những lý do khác. Trước biến cố mẹ đi khỏi, nó phải chịu đựng biến cố một cách thụ động; thế mà bây giờ nó đóng một vai trò chủ động, nó tái tạo hoàn cảnh dưới hình thức trò chơi, tuy rằng hoàn cảnh ấy làm nó khó chịu. Người ta có thể nói rằng nó tìm cách thỏa mãn một xu hướng thống trị (đây là làm chủ tình thế); khuynh hướng ấy muốn được củng cố, không đếm xỉa đến chuyện nhớ lại vui hay buồn. Nhưng người ta cũng có cách giải thích khác. Ném một đồ vật đi cho khuất mắt có thể để thỏa mãn khuynh hướng báo thù trước mắt mẹ và tỏ cho mẹ biết rằng: "Thôi mẹ đi đi, con không cần mẹ nữa, con cũng xua mẹ đi đó". Vẫn đứa trẻ 18 tháng mà tôi nói đến trên kia, đến năm nó được hai tuổi rưỡi lại có thói ném đồ chơi xuống đất nếu đồ chơi không vừa ý nó, vừa ném vừa nói: "Đi làm đánh trận!". Cha nó không có nhà, người ta bảo nó rằng cha nó đi đánh trận; nó không hề tỏ ý muốn gặp cha, nhưng tỏ những dấu hiệu có ý nghĩa chắc chắn rằng nó không muốn ai phá rối sự độc quyền sở hữu mẹ của nó
[2] . Ngoài ra chúng ta còn biết rằng trẻ con thường có những xung động thù nghịch với người khác, nó liệng những đồ vật đối với nó tượng trưng cho một vài người nào đó. Như vậy, chúng ta có thể tự hỏi rằng về phương diện tâm thần, khuynh hướng đồng hóa mình với một biến cố làm mình cảm xúc và khuynh hướng làm chủ được tình thế, có thể bộc lộ, không đếm xỉa gì đến nguyên tắc khoan khoái chăng? Trong trường hợp chúng ta nói đây, đứa trẻ tái tạo một ấn tượng khó chịu, có lẽ tại nó cho rằng tái tạo tình trạng ấy là phương tiện để đạt tới sự khoan khoái nhưng trực tiếp.
Nghiên cứu trò chơi con nít cách nào chúng ta cũng không có dữ kiện nào chắc chắn để quyết định lấy một trong hai cách nhìn ấy. Chúng ta nhận thấy trong lúc chơi đứa trẻ tái tạo tất cả cái gì ở ngoài đời đã xúc động nó, nó dùng một cách tránh-phản-ứng để kháng cự cảm tưởng mạnh, nó tìm cách làm chủ cảm tưởng mạnh đó. Nhưng mặt khác, chúng ta cũng nhận thấy một cách hiển nhiên rằng khi lựa trò chơi, trẻ con cũng còn có một ý muốn rất mạnh mẽ đối với tuổi của nó: ý muốn là người lớn và xử sự như người lớn. Người ta cũng nhận thấy rằng cái gì khó chịu vẫn có thể đem biến đổi đi và diễn lại thành trò chơi. Một đứa trẻ đau cổ họng phải đến nhờ ông thầy giải phẫu: đó là một kỷ niệm đau đớn cho nó, nhưng nó vẫn nhớ lại và diễn lại trong lúc chơi; người ta có thể nhận thấy trong việc diễn lại cuộc giải phẫu đứa trẻ đã tìm được sự khoan khoái gì và nguồn gốc của sự khoan khoái ấy: trong lúc chơi, nó biến đổi sự thụ động của nó khi chịu giải phẫu ra hành vi chủ động, nó đóng vai ông thầy để làm cho bạn nó phải đau đớn như nó đã phải chịu, và như thế nó làm đau bạn nó để trả thù thầy thuốc, bạn chịu tội thay thầy thuốc vì nó không làm gì được thầy thuốc.
Dù sao thì những quan điểm trên đây cũng cho ta thấy rằng cắt nghĩa trò chơi bằng bản năng bắt chước là đưa ra một giả thiết vô bổ. Cũng nên nói thêm rằng khác với những gì đã xảy ra trong trò chơi của trẻ em, trò chơi và sự bắt chước của giới nghệ sĩ trực tiếp nhắm vào cá nhân khán giả, thí dụ trong một tấn bi kịch, người ta tìm cách truyền cho khán giả những cảm tưởng đau đớn của mình, tuy rằng những cảm tưởng ấy là nguồn gốc những thú vui cao cả. Như vậy, chúng ta nhận thấy, tuy rằng có nguyên tắc khoan khoái ngự ở trên, những khía cạnh cực nhọc và khó chịu của việc đời vẫn tìm được đường lối và phương tiện để đè nặng lên hồi tưởng của chúng ta và trở thành những đối tượng của sinh hoạt tâm thần. Những trường hợp và tình trạng ấy có thể có kết quả cuối cùng là tăng thêm sự khoan khoái, chúng có thể là đối tượng để nghiên cứu quan niệm thiện mỹ của con người, đứng về phương diện điều động và tổ chức; nhưng vì mục đích của chúng tôi, những trường hợp và tình trạng ấy không có ích lợi gì, những trường hợp và tình trạng ấy tựu trung đã hàm ý chấp nhận rằng có nguyên tắc khoan khoái và ưu thế của nguyên tắc khoan khoái, chúng tôi không biết gì thêm về những khuynh hướng ở ngoài nguyên tắc đó, nghĩa là đứng độc lập đối với nguyên tắc đó và có lẽ có tính cách nguyên sơ hơn nó nữa.
3. Nguyên tắc khoan khoái và sự di chuyển tâm tình
Hai mươi lăm năm làm việc tận lực đã có kết quả là gán cho kỹ thuật phân tâm những mục tiêu trực tiếp, khác hẳn với những mục tiêu lúc ban đầu. Thoạt kỳ thủy, tất cả ngưỡng vọng của thầy thuốc phân tâm chỉ giới hạn trong việc đưa ra ánh sáng những gì ẩn giấu trong tiềm thức người bệnh, sau khi lập được mối liên lạc chặt chẽ giữa những yếu tố tiềm thức đã phơi bày ra ánh sáng như thế người ta sẽ tùy nghi nói cho người bệnh biết. Phân tâm học trước hết là một nghệ thuật giải thích. Nhưng vì nghệ thuật ấy không giải quyết được vấn đề trị liệu pháp cho nên người ta dùng đến một phương tiện khác để người bệnh xác định xem công việc phân tích để dựng lại quá khứ của họ có đúng hay không; muốn như vậy, người ta tìm cách gợi cho người bệnh nhớ lại những chuyện quá khứ. Trong sự cố gắng ấy, ông thầy vấp phải sự chống đối của người bệnh; nghệ thuật phân tâm sẽ nhắm vào chỗ khám phá ra sự chống đối ấy càng nhanh chóng càng hay; họ sẽ dùng đến ảnh hưởng của họ đến người khác thuần túy (nghĩa là dùng đến khả năng gợi ý của ông thầy) để làm cho người bệnh bỏ được sự chống đối.
Tuy nhiên, càng tiến sâu vào con đường này, người ta càng nhận thấy không thể đạt được hẳn mục đích theo đuổi: đem tiềm thức ra ngoài ánh sáng ý thức. Người bệnh không thể nhớ lại hết cái gì đã dồn nén; thường thường họ quên mất điều chính, thậm chí không thể nào làm cho họ tin được những gì người ta nói cho họ biết. Muốn tin như vậy, bây giờ họ phải "
sống lại" những sự kiện dồn nén chứ không phải nhớ lại như một phần quá khứ của họ. Những sự kiện sống lại như thế, họ lặp lại một cách đúng hệt, hơn cả sự mong mỏi của ông thày; những sự kiện ấy phần nào liên hệ đến sinh hoạt dục tính tuổi thơ, nhất là mặc cảm Oedipe và những sự kiện liên quan đến mặc cảm Oedipe, và bao giờ cũng diễn ra trong phạm vi liên lạc giữa người bệnh và thầy thuốc. Khi việc trị bệnh đã tiến đến mức ấy, người ta có thể nói rằng bệnh suy nhược thần kinh cũ nhường chỗ cho bệnh mới, bệnh suy nhược thần kinh di chuyển (névrose de transfert). Thầy thuốc cố gắng giới hạn lãnh vực của bệnh suy nhược thần kinh di chuyển đó, biến đổi thật nhiều yếu tố thành sự kiện hồi tưởng đơn thuần và chỉ để cho con bệnh "sống lại" thật ít những yếu tố ấy, chỉ để cho họ dùng thật ít mà tái tạo tình trạng quá khứ. Tùy từng trường hợp mà những yếu tố hồi tưởng được dùng ít hay nhiều để tái tạo tình trạng quá khứ. Nói chung thì ông thầy không thể miễn trừ cho con bệnh giai đoạn ấy trong thời kỳ chữa bệnh; ông thầy đành phải để họ sống lại một phần quãng đời quá khứ của họ, ông thầy chỉ làm cách nào cho người bệnh giữ được ưu thế đến mức nào để họ nhận thấy rằng dẫu sao thì những sự kiện họ sống lại và tái tạo ra cũng chỉ là giả dạng và chỉ là phản ảnh một phần quá khứ bị quên. Khi công việc ấy đã thành công thì người ta có thể làm cho con bệnh tin được, sự tin tưởng ấy là điều kiện tối yếu để trị bệnh có kết quả.
Trong thời kỳ chữa bệnh bằng phương pháp phân tâm người bệnh bị ám ảnh muốn tái tạo và sống lại quá khứ, làm như nó là một phần của hiện tại; người ta sẽ lầm lớn nếu quan niệm rằng sự chống cự của người bệnh bắt nguồn từ tiềm thức. Tiềm thức, nghĩa là yếu tố bị dồn nén không hề chống lại việc trị bệnh; trái lại, nó tìm cách gạt bỏ những áp lực đè nén nó, nó tìm cách mở một con đường đến ý thức để giải tỏ áp lực bằng một hành động thật sự. Sự chống cự trong lúc trị bệnh bắt nguồn từ những lớp thượng từng và những hệ thống thượng từng của tâm thần, chúng cùng ở một vị trí với những lớp đã tạo ra sự dồn nén trước kia. Nhưng sự quan sát cho ta biết rằng nguyên nhân của sự chống cự, và cả sự chống cự nữa, mới đầu ở trong tiềm thức, bởi vậy chúng tôi cần phải sửa chữa một vài điều. Để tránh sự tối tăm và không rõ nghĩa, chúng tôi thay thế quan điểm đối lập ý-thức-tiềm-thức bằng quan điểm đối lập giữa cái
Tôi mạch lạc và những yếu tố bị
dồn nén. Hẳn là nhiều yếu tố của cái
Tôi cũng không ý thức được, đó là những yếu tố có thể coi là tạo thành cái nhân của cái
Tôi, chỉ có một vài yếu tố thuộc về loại mà chúng tôi gọi là
tiền ý thức (préconscient). Sau khi đã thay thế những danh từ chỉ có ý nghĩa mô tả thuần túy bằng những danh từ có ý nghĩa hệ thống hay năng động, chúng tôi có thể nói rằng sự chống cự của người bệnh bắt nguồn từ cái
Tôi; chúng tôi nhận thấy ngay rằng khuynh hướng tái tạo quá khứ chỉ có thể mật thiết với cái gì bị dồn nén xuống tiềm thức. Có lẽ khuynh hướng ấy chỉ có thể xuất hiện khi nào công việc trị bệnh đã huy động được những yếu tố bị dồn nén.
[3]
Chắc chắn là sự chống cự của tiềm thức và tiền ý thức đều phục vụ nguyên tắc khoan khoái, đều dùng để loại trừ sự khó chịu gây nên vì những yếu tố bị dồn nén nếu những yếu tố ấy được tự do hoạt động. Bởi vậy cho nên chúng tôi phải cố gắng dùng nguyên tắc thực tại làm cho người bệnh biết đến sự khó chịu đó. Vậy, giữa nguyên tắc khoan khoái và khuynh hướng tái tạo quá khứ, nói khác đi, giữa nguyên tắc khoan khoái và sự phát hiện năng động của những yếu tố bị dồn nén có những liên lạc thế nào? Đã hiển nhiên là phần lớn những cái gì được khuynh hướng tái tạo làm sống lại chỉ có thể có bản chất khó chịu hay cực nhọc đối với cái
Tôi, vì đại loại thì đó là những phát hiện của những xu hướng bị đàn áp. Nhưng đó là một loại khó chịu mà chúng tôi đã biết rõ giá trị và phẩm chất, chúng tôi biết rằng nó không mâu thuẫn với nguyên tắc khoan khoái, bởi vì trong hệ thống này thì nó khó chịu thật, nhưng đặt vào một hệ thống khác thì nó lại có nghĩa là khoan khoái. Nhưng bây giờ chúng ta hãy bàn đến một hiện tượng lạ lùng khác: khuynh hướng tái tạo làm xuất hiện và sống lại cả những sự việc quá khứ không có gì đáng khoan khoái cả, những sự việc đối với những xu hướng bị đàn áp lúc ấy cũng không đem lại thỏa mãn được.
Sự nảy nở quá sớm của dục tính trẻ em chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, vì thị dục của đứa trẻ không thích hợp với thực tại và trình độ phát triển thiếu sót của đời sống trẻ em. Thời kỳ khủng hoảng đó rất cực nhọc cho đứa bé vì nó gây ra cho đứa bé những cảm giác đau đớn. Tình yêu không thỏa mãn, nhưng thất bại đó làm tổn thương sâu xa đến danh dự của nó và để lại dấu vết trong khuynh hướng ngã ái
[4] của nó; theo sự quan sát của tôi và của Marcinowski tất đó là một trong những nguyên nhân chính của cảm tưởng tự ti, rất thường có của người suy nhược thần kinh. Cuộc thám hiểu dục giới của đứa trẻ không đem lại cho nó một kết luận thỏa đáng nào cả, rồi thì nó lớn lên, tình trạng ấy chấm dứt; do đó mà sau này nó than thở: "Tôi không làm được cái gì nên thân, không có cái gì thành công". Sự âu yếm quyến luyến cha mẹ (thường thường con gái quyến luyến cha, con trai quyến luyến mẹ) không thể chịu đựng được thất bại, không thể dằn lòng chờ đợi thỏa mãn, không thể không ghen tị khi cha mẹ sanh em nó; em nó ra đời là nó thấy một bằng chứng hiển nhiên về sự thất tín của người nó yêu; nó có một ước vọng đối với nó là nghiêm chỉnh nhưng bi thảm cho nó, đó là ước vọng nó sanh ra đứa con, dĩ nhiên ước vọng đó thảm bại; sự âu yếu của cha mẹ trước kia nay giảm đi nhiều, sự giáo dục này càng bắt nó vào khuôn phép, người ta bắt đầu nói sẵng với nó, bắt đầu trách phạt nó; tất cả những sự kiện ấy làm cho nó ý thức được tầm rộng lớn của sự khinh bỉ, từ nay nó phải chịu đựng tình cảnh đó. Mối tình điển hình của tuổi thơ ngây chấm dứt theo một vài phương thức, những phương thức chấm dứt ấy sau này cứ trở lại đều đều.
Trong thời kỳ trị bệnh, người bệnh lợi dụng hiện tượng di chuyển (transfert) để tái tạo và hồi sinh một cách khéo léo những sự tình không thể chấp nhận được, những tình trạng đau đớn của họ. Như vậy, người bệnh làm ngưng trệ cuộc điều trị, họ tìm cách tạo ra một tình trạng khả dĩ hồi sinh cảm tưởng bị mọi người rẻ rúng như ngày xưa, họ làm cho ông thầy nói nặng họ, lạnh lùng với họ, họ tìm ra cớ để ghen; họ thay thế ý muốn sanh đứa con ngày trước bằng dự định và hứa hẹn biếu quà cáp quan trọng, thường thường cũng không thực như vậy mà ngày xưa họ ham muốn. Tình trạng mà người bệnh tái tạo trong hiện tượng di chuyển như thế ngày xưa thì không có gì khoan khoái thật vì đó là lần đầu họ lâm vào tình trạng ấy. Nhưng người ta sẽ nói rằng bây giờ thì không đến nỗi khó chịu lắm vì bây giờ chỉ còn là kỷ niệm hay mộng mị, chứ không như ngày xưa con người ở trong tình trạng ấy thực sự và đời họ đã đổi hướng vì tình trạng ấy. Đó là tác động của những xu hướng và bản năng mà trong thời kỳ họ bị chúng chi phối, họ cho là sẽ đem lại khoan khoái; tuy rằng bây giờ họ có đủ kinh nghiệm để biết rằng chờ đợi hưởng khoái lạc chỉ là hão huyền, nhưng họ vẫn xử sự như người không học hỏi gì được kinh nghiệm quá khứ; họ vẫn tái tạo tình trạng cũ, dẫu sao thì họ cũng bị thôi thúc bởi một sự ám ảnh.
Những sự kiện mà phân tâm học khám phá ra nhân việc nghiên cứu những hiện tượng di chuyển của người suy nhược thần kinh, cũng thấy có trong đời sống những người bình thường, không có gì là suy nhược. Quả vậy, một vài người cho ta cảm tưởng rằng họ bị vận đen theo đuổi, hầu như họ bị ma trêu quỷ ám; đã từ lâu phân tâm học cho rằng số mệnh của họ được cấu tạo ở ngoài những biến cố ngoại giới và có thể quy về những ảnh hưởng đã tiếp thụ trong lúc tuổi thơ ấu của họ. Trong trường hợp của họ sự ám ảnh không khác gì sự ám ảnh thúc đẩy người suy nhược thần kinh tái tạo những sự tình và tình trạng tâm tình của họ hồi nhỏ, tuy rằng những người bình thường ấy không cho thấy dấu hiệu một cuộc xung đột có tính cách suy nhược thần kinh làm xuất hiện những triệu chứng suy nhược. Chúng ta biết có những người giao thiệp với ai rốt cuộc cũng vẫn đi đến kết cục như nhau khi thì là những người thi ân cho những người khác, sau một thời gian kẻ chịu ơn không những quên ơn mà còn thù oán, bội nghĩa, hầu như những kểẻ quên ơn đồng lòng với nhau bắt người mà họ chịu ơn phải sống cạn chén sầu; khi thì là những người bạn bè nào rồi cũng phản bội họ; người khác nữa tận tụy suốt đời đưa một người lên ngai vàng hoặc vì quyền lợi của mình, hoặc vì quyền lợi của cả mọi người, rồi chẳng bao lâu họ lại truất quyền của người ấy đi, kéo tuột xuống, thay thế bằng một thần tượng khác, sau hết, chúng ta biết có những người si tình, thái độ yêu đương đối với người đàn bà nào cũng qua những giai đoạn như nhau để rồi đi đến kết quả như nhau. Trở đi trở lại mỗi một trò như vậy cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta biết đó là một thái độ hành động, khi chúng ta khám phá ra nét tính tình cố hữu của họ, yếu tính của con người họ, chúng ta sẽ tự nhủ rằng nét tính tình ấy, yếu tính ấy, chỉ có thể bộc lộ bằng cách nhắc lại mãi những kinh nghiệm tâm thần của họ. Nhưng chúng ta sẽ ngạc nhiên hơn nếu chúng ta chứng kiến những sự việc nhắc đi nhắc lại, diễn đi diễn lại trong một đời người, mà người ấy chỉ thụ động không tìm cách nào can thiệp để biến đổi tình trạng. Thí dụ chuyện người đàn bà nọ lấy chồng đến ba lần, lần nào cũng chỉ cưới nhau được ít lâu là chồng chết, bà ta chỉ có thì giờ để lo thuốc thang rồi vuốt mắt cho chồng
[5] . Trong một tập thơ,
Jérusalem giải phóng, Torquato Tasso (Le Tasse) mô tả một cách nên thơ số mệnh một người như thế. Nhân vật trong chuyện là Tancrède giết người yêu của mình (Clorinde) mà không biết. Nàng mặc bộ áo giáp sắt của địch để đánh nhau với chàng. Sau khi chôn cất cho Clorinde rồi chàng đi vào khu rừng thiêng bí hiểm vẫn làm kinh sợ đội quân Thập tự. Chàng lấy kiếm chặt một cây cổ thụ làm hai đoạn, nhưng thấy máu ở cây phun ra đồng thời nghe tiếng Clorinde, linh hồn nàng nhập vào cây cổ thụ và than thở vì chàng lại giết nàng một lần nữa.
Đứng trước những hành vi của người suy nhược thần kinh trong một giai đoạn trị bệnh và của một số lớn những người thường như thế, người ta không thể không chấp nhận rằng trong sinh hoạt tâm thần có một khuynh hướng tái tạo và nhắc lại không thể cưỡng được, khuynh hướng ấy tìm cách xác định, bất chấp cả nguyên tắc khoan khoái và đứng ở trên cả nguyên tắc khoan khoái. Chấp nhận khuynh hướng mạnh mẽ ấy rồi thì không có gì ngăn cản chúng ta cho rằng khuynh hướng ấy chi phối giấc mơ của người suy nhược thần kinh ngoại thương cũng như thói quen đứa trẻ nhắc lại cái gì nó đã trải qua trong trò chơi của nó. Tuy nhiên, ít khi khuynh hướng nhắc lại phát lộ một mình và tinh thuần không pha trộn với những nguyên nhân khác. Đối với trò chơi trẻ em chúng tôi đã biết rằng còn có những cách giải thích khác. Khuynh hướng nhắc lại và sự tìm khoan khoái bằng cách thỏa mãn trực tiếp một vài xu hướng hầu như kết hợp chặt chẽ với nhau để tạo thành một toàn thể trong đó khó lòng phân biệt phần nào là nhắc lại phần nào là tìm khoan khoái. Những hiện tượng di chuyển rõ ràng là hình thức chống cự của cái
Tôi, nó không chịu tiết lộ những yếu tố bị dồn nén; còn như khuynh hướng nhắc lại mà ông thầy muốn lợi dụng để theo đuổi mục đích của ông, thì vẫn cái
Tôi đó cố gắng thích hợp với nguyên tắc khoan khoái và lôi kéo về phía nó. Cái mà theo ngôn ngữ thường chúng ta gọi là số hệ và đã nói trong một vài thí dụ trên kia, thì phần lớn có thể lấy lý trí mà giải thích được, như vậy chúng ta khỏi phải đưa vào đây một nguyên nhân khác bí hiểm ít hay nhiều. Trường hợp ít ngờ vực nhất có lẽ là trường hợp giấc mơ tái tạo tai nạn gây ra ngoại thương; nhưng suy nghĩ kỹ thì còn rất nhiều trường hợp không thể giải thích bằng những nguyên nhân mà chúng ta biết. Những trường hợp ấy có nhiều đặc điểm khiến cho chúng ta chấp nhận rằng có sự can thiệp của khuynh hướng nhắc lại, khuynh hướng này có vẻ nguyên sơ, thúc dục một cách mù quáng hơn nguyên tắc khoan khoái và thường khi lấn áp cả nguyên tắc khoan khoái. Nếu trong sinh hoạt tâm thần có thực một khuynh hướng nhắc lại như thế thì chúng ta rất hiếu kỳ muốn biết nó ăn nhập với chức vụ nào, nó phát hiện trong những điều kiện nào, nó có những liên lạc gì với nguyên tắc khoan khoái mà đến nay chúng tôi đã gán cho một vai trò chủ chốt trong sự diễn biến những tiến trình sinh hoạt tâm thần.
4. Động cơ chống lại những kích thích ở ngoài – sự chống cự thất bại
Khuynh hướng nhắc lại
Xin coi những điều chúng tôi nói sau đây chỉ là suy lý thuần túy, chỉ là một cố gắng vượt lên trên những sự kiện có thực; độc giả có thể giữ quan niệm riêng của mình mà theo dõi với thiện cảm hay cho là không đáng để ý. Không nên cho rằng những quan điểm trình bày dưới đây là cái gì khác một việc thử khoáng triển một ý kiến để thỏa mãn tính hiếu kỳ và xem nó có thể đi được đến đâu.
Sự suy lý phân tâm học xuất hiện từ một nhận xét khi nghiên cứu những tiến trình tiềm thức, chúng tôi nhận thấy ý thức không đại diện cho một đặc điểm chung của những tiến trình tâm thần, ý thức chỉ có thể coi là một chức vụ đặc biệt của tâm thần. Trong ngôn ngữ siêu hình tâm lý học, chúng ta nói rằng ý thức chỉ là chức vụ của một hệ thống đặc biệt mà chúng tôi dùng chữ Y để ám chỉ. Ý thức làm cho ta tri giác được sự khích động của ngoại giới, ý thức cũng làm cho ta tri giác được những cảm giác dễ chịu và khó chịu chỉ có thể bắt nguồn từ bên trong bộ máy tâm thần; do đó chúng ta có thể gán cho hệ thống T.Y. (tri giác – ý thức) một vị trí trong không gian. Hệ thống T.Y. đứng ở biên giới phân chia nội tâm và ngoại giới, hệ thống ấy phải quay mặt ra nhìn thế giới bên ngoài và bao trùm tất cả các hệ thống tâm thần khác. Nhưng chúng ta nhận thấy ngay rằng tất cả những định nghĩa ấy không đem lại cho chúng ta sự hiểu biết nào mới; đưa ra những định nghĩa ấy chúng tôi căn cứ vào sự cấu tạo khối óc và những biệt khu của bộ óc; đó là giả thuyết đặt "trụ sở" của lương tâm ở vỏ ngoài của khối óc, tức lớp ngoài cùng. Đứng về phương diện giải phẫu, khoa giải phẫu khối óc không đặt câu hỏi rằng tại sao lương tâm (ý thức) lại đặt ở bề mặt khối óc mà không đặt ở một chỗ được che chở chu đáo hơn, ở những lớp sâu xa hơn của bộ óc. Có lẽ cách đặt vị trí cho hệ thống T.Y. của chúng tôi sẽ gây ra những hậu quả nào đó vì có lẽ sự cứu xét những hậu quả đó sẽ cung cấp cho chúng tôi những dữ kiện mới.
Ý thức không phải là đặc trưng duy nhất của tiến trình xảy ra trong hệ thống T.Y. Qua những kinh nghiệm phân tâm học của chúng tôi, chúng tôi đã có những ấn tượng đủ để chấp nhận rằng tất cả những tiến trình khích động xảy ra trong những hệ thống khác đã để lại những dấu vết lâu bền tạo thành nền tảng của trí nhớ, những dấu vết ấy tức là những cái mà ta gọi là kỷ niệm, là hồi tưởng, không có gì chung đụng với ý thức cả. Những hồi tưởng mạnh mẽ và dai dẳng nhất thường thường là sản phẩm của những tiến trình không hề bao giờ đạt tới ý thức. Tuy nhiên, thật khó lòng mà cho hệ thống T.Y. cũng để lại những vết tích lâu bền và dai dẳng khi nó bị kích thích. Nếu nó có để lại cái gì, thì chẳng bao lâu khả năng tiếp nhận những khích động mới của hệ thống sẽ bị giới hạn
[6] , bởi vì, theo định nghĩa, thì tất cả những khích động mà nó nhận được phải luôn luôn ý thức; trái lại, nếu chúng tôi cho rằng những khích động ấy lặn xuống tiềm thức, thì chúng tôi bị buộc phải mâu thuẫn với mình mà chấp nhận rằng có những tiến trình không ý thức được trong một hệ thống mà tác động, theo định nghĩa, phải luôn luôn kèm theo hiện tượng ý thức. Nếu chấp nhận rằng những khích động phải cần có một hệ thống riêng để trở thành khích động ý thức được, chúng tôi cũng không thay đổi gì được tình trạng hiện hữu và không có lợi gì cả.
Từ giả thiết ấy chúng tôi rút ra một kết luận không nhất thiết là hữu lý hoàn toàn, nhưng cũng có phần hữu lý: vẫn một khích động duy nhất không thể vừa trở thành ý thức vừa để lại một dấu vết có tính cách điều động và tổ chức trong hệ thống ấy, nếu chỉ đứng ở trong giới hạn một tổ chức thì đó là hai sự kiện không thể dùung hòa được với nhau. Như vậy chúng ta có thể nói rằng, trong hệ thống Y, tiến trình khích động hiện ra một cách có ý thức, nhưng không để lại dấu vết lâu bền, tất cả những dấu vết của tiến trình ấy dùng làm nền tảng cho trí nhớ đều là kết quả của sự lan rộng khích động ra những hệ thống nội tâm lân cận. Chúng tôi đã theo chiều hướng ấy để quan niệm một sơ đồ trình bày trong phần suy lý của cuốn
Giải mộng của chúng tôi (1900). Chúng ta biết rất ít về những nguồn gốc khác của sự xuất hiện ý thức, như vậy chúng ta sẽ đồng ý rằng quan điểm sau đây ít ra cũng có giá trị một sự khẳng định chuẩn xác và nhắm vào cái gì nhất định
: ý thức phát sinh từ chỗ mà dấu vết bảo thức năng (mnémique) dừng lại.
Hệ thống Y. như vậy có cái đặc biệt sau đây: trái với cái gì xảy ra trong những hệ thống tâm thần khác, tiến trình khích động không tạo ra một sự thay đổi lâu bền nào của những yếu tố trong hệ thống, mà tiêu hủy đi để trở thành ý thức. Sự vi phạm luật tổng quát như thế chỉ có thể giải thích rằng: đó là tác động của một yếu tố chỉ có trong hệ thống ấy mà không có trong những hệ thống khác, yếu tố ấy có thể là vị trí của hệ thống Y. ở phía ngoài và nhờ thế tiếp xúc ngay với thế giới bên ngoài.
Nếu chúng ta giản dị hóa đến mức tối đa thể xác của sinh vật, chúng ta có thể cho nó là một chất dễ bị khích động, chưa phân hóa và có hình tròn. Bề mặt của cục tròn đó phải phân hóa vì nó hướng ra ngoài và dùng làm cơ quan để tiếp nhận khích động. Khoa phôi thai học (embryologie) trong phạm vi nó là một việc ôn lại những kiến thức về sự tiến hóa các hệ thống phát sinh (évolution phylogénique), đã chứng minh rằng trung tâm thần kinh hệ bắt nguồn tự ngoại phôi diệp (ectoderme), còn vỏ màu xám của khối óc bắt nguồn trực tiếp từ bề mặt nguyên thủy và vì thế nó có thể thừa hưởng những đặc tính chính yếu. Như vậy thì không có gì phản đối chúng ta lập thuyết rằng những khích động ở ngoài tấn công mãi bề mặt của viên tròn nguyên sinh chất đã làm thay đổi chất của nó một cách lâu bền, nhờ thế mà những tiến trình khích động diễn biến khác hẳn cách diễn biến ở những lớp sâu hơn. Như vậy là đã thành hình một lớp vỏ rất mềm dẻo vì luôn luôn chịu đựng những khích động, thậm chí nó thủ đắc những đặc tính làm cho nó chỉ nhận những khích động mới mà không thể biến đổi cách nào khác nữa. Đem áp dụng vào hệ thống Y. thì giả thuyết ấy có nghĩa là những yếu tố của chất xám đã biến đổi đến mức giới hạn có thể chịu đựng được, không thể biến đổi thêm được nữa. Nhưng bù lại, những yếu tố ấy có khả năng làm xuất hiện ý thức. Hẳn là sự xuất hiện của ý thức có liên hệ với bản chất những sự biến đổi; sự biến đổi ấy xảy ra trong thể chất xám của óc cũng như trong tiến trình kích thích nó. Vậy thì bản chất ấy thế nào? Có thể có nhiều câu trả lời, nhưng câu trả lời nào cũng không thể phối kiểm bằng thực nghiệm được. Người ta có thể giả thiết rằng khi đi từ yếu tố này sang yếu tố khác của chất xám, sự kích thích phải chiến thắng một sức kháng cự, nếu sức kháng cự kém thì sự kích thích để lại dấu vết; nói như vậy là chúng ta đi đến kết luận rằng trong hệ thống Y. không có sức kháng cự nào thuộc loại ấy, kích thích được tự do đi từ yếu tố này sáng yếu tố khác. Người ta có thể cho rằng cách nhìn của chúng tôi rất gần với cách nhìn của Breuer, ông phân biệt những yếu tố của các hệ thống tâm thần theo bản chất tinh lực của chúng. Ông phân biệt ra tinh lực ẩn giấu hay tinh lực áp chế, và tinh lực lưu chuyển tự do
[7] ; như vậy thì những yếu tố của hệ thống Y. sẽ chỉ chứa đựng tinh lực tự do, tinh lực đó sẽ tan đi không gặp sự chống cự nào, không có áp lực và căng lực. tuy nhiên chúng tôi thiết nghĩ, trong tình trạng kiến thức ngày nay, không nên khẳng định đích xác về vấn đề ấy. Mặc dù thế, những quan điểm trên đây cũng cho phép chúng ta lập một thứ liên lạc nào đó giữa sự xuất hiện ý thức và trụ sở của hệ thống Y. với những đặc điểm của các tiến trình khích động xảy ra ở đó.
Viên tròn nguyên sinh tố và lớp bì phu tiếp thụ khích động còn cho phép chúng ta nhận thấy những điều khác. Chất sinh sống ấy để vào giữa thế giới bên ngoài đầy tinh lực cường độ cao nhất, nếu không có phương tiện chống lại khích động thì chẳng bao lâu nó sẽ quỵ ngã trước sự tấn công của những tinh lực ngoại giới. Phương tiện của nó là làm cách nào cho bề mặt ngoài cùng bỏ hẳn cơ cấu riêng của mọi vật sinh sống mà trở thành phi sinh cơ, trở thành một thứ bao hay màng làm dịu bớt khích động, chỉ để cho một phần cường độ của tinh lực ngoại giới thấu đến những lớp sâu hơn. Những lớp ở sâu hơn đã được che chở như thế có thể chuyên chủ vào việc tích lũy những số lượng kích thích đã thấu qua được lớp màng ngoài. Đã trút bỏ những đặc tính của một chất sinh sống, lớp màng ngoài cũng bảo vệ luôn cho những lớp ở trong giữa màng, tuy nhiên sự che chở chỉ hữu hiệu trong phạm vi cường độ khích động không quá một giới hạn nào, yếu quá giới hạn ấy thì cả cái màng ngoài cũng bị hủy hoại. Đối với cơ thể sinh sống thì công việc bảo vệ khỏi khích động là một công việc cũng quan trọng như sự tiếp nhận khích động; tự nó nó cùng có dự trữ tinh lực và phải giữ gìn làm sao cho trước hết sự biến đổi tinh lực ở trong mình nó theo những phương thức riêng không chịu ảnh hưởng san bằng nghĩa là ảnh hưởng phá hủy của những tinh lực mạnh bạo ở bên ngoài. Sự tiếp nhận khích động trước hết dùng để đưa tin cho cơ thể biết chiều hướng và bản chất của những tinh lực bên ngoài, nó chỉ có thể đạt được kết quả ấy bằng cách mượn của thế giới bên ngoài một số ít tinh lực, bằng cách tiêu thụ một chút tinh lực đó. Đối với những cơ thể đã tiến hóa đến cao độ, thì lớp bì phu dễ khích động của viên tròn nguyên sinh tố ngày xưa đã lui vào sâu từ lâu, nhưng vẫn còn một vài bộ phận phụ thuộc ở ngoài mặt ngay ở dưới bộ máy che chở khỏi khích động. Đó là những giác quan có bộ phận riêng để tiếp nhận những khích động thuộc loại riêng của mỗi giác quan, nhưng chúng cũng có những máy móc riêng để tăng cường sự chống đỡ những khích động mạnh cường độ quá. Điểm đặc biệt của các giác quan là chúng chỉ làm việc bằng cách tiếp thụ những số lượng khích động ngoại giới rất nhỏ. Người ta có thể so sánh giác quan với những cái ăng ten, sau khi đã tiếp xúc với thế giới bên ngoài lại rút về.
Tôi xin nói qua về một vấn đề đáng đem ra thảo luận sâu rộng. Đứng trước những dữ kiện tâm phân học thâu lượm được, chúng ta có thể nghi ngờ ý kiến của Kant: thời gian và không gian là những hình thức cần thiết của tư tưởng. Chúng ta biết rằng những tiến trình tâm thần xảy ra trong tiềm thức đều không có "thời gian tính". Nói thế nghĩa là những tiến trình ấy không xảy ra theo thứ tự thời gian, thời gian không làm cho chúng chịu một sự biến đổi nào, không thể đem áp dụng phạm trù thời gian với chúng được. Đó là những tính tình tiêu cực, chúng ta chỉ có thể có ý niệm đúng về chúng nếu đem so sánh những tiến trình tâm thần vô thức với những tiến trình tâm thần hữu thức. Chúng ta hình dung ra thời gian là theo thể thức làm việc của hệ thống T.Y. Cách biểu thị ấy phù hợp với sự tự động tri giác của chúng ta. Vì hệ thống T.Y. tác động như thế cho nên cần phải có sự bảo vệ khỏi khích động. Tôi biết rằng cách trình bày như thế rất tối tăm, nhưng tôi chỉ có thể giới hạn trong phạm vi những cách ám chỉ xa xôi.
Chúng ta vừa nói rằng viên tròn nguyên sinh tố sống động có phương tiện để chống lại những khích động của thế giới bên ngoài. Trước chúng tôi đã trình bày rằng lớp ngoài cùng đã phân hóa để trở thành cơ quan có chức vụ tiếp nhận những khích động bên ngoài. Nhưng lớp ngoài nhạy cảm đó sau này phát triển thành hệ thống Y., và cũng tiếp nhận cả những khích động bên trong. Hệ thống chiếm một vị trí ở biên giới phân cách trong ngoài; điều kiện để tiếp nhận khích động bên trong hay bên ngoài khác nhau; hai sự kiện đó có ảnh hưởng quyết định đến tác động của hệ thống Y. cũng như đến toàn thể bộ máy tâm thần. Đối ngoại thì đã có phương tiện che chở để làm dịu bớt sức mạnh của những khích động ào đến. Nhưng đối nội không thể có phương tiện che chở được, thậm chí những khích động từ những lớp sâu lan tràn đến hệ thống Y. vẫn nguyên vẹn chưa được làm dịu bớt; một vài đặc điểm trong sự dồn dập tràn đến tạo ra những chuỗi cảm giác khoan khoái hay khó chịu. Tuy nhiên cũng nên nói rằng những khích động bên trong có cường độ và phẩm chất (có khi là độ rộng) phù hợp với cách tác động của hệ thống Y. hơn những khích động từ ngoại giới tràn đến. Tình trạng mô tả trên đây làm xuất hiện hai sự kiện: thứ nhất, cảm giác khoan khoái và khó chịu phát ra từ những tiến trình ở trong bộ máy tâm thần, hơn trội hẳn những khích động bên ngoài; thứ hai, thái độ của cơ thể phải hướng về chiều nào có thể chống lại khích động bên trong có cơ tăng gia tăng trạng thái khó chịu quá mức chịu đựng. Do đó mà phát sinh khuynh hướng coi những khích động bên trong như là có nguồn gốc ở ngoài để có thể áp dụng phương tiện che chở mà cơ thể vẫn dùng để ngăn cản khích động bên ngoài. Đó là cách giải thích hiện tượng
phóng rọi (projection) đã đóng một vai trò quan trọng trong sự tất định những tiến trình thuộc về bệnh lý học.
Tôi có cảm tưởng rằng những quan điểm trên đây đưa chúng ta đến gần sự hiểu biết những điều kiện và những nguyên do làm cho nguyên tắc khoan khoái chiếm được ưu thế. Tuy nhiên những quan điểm ấy không cắt nghĩa được những trường hợp đối lập với nguyên tắc khoan khoái. Được gọi là
ngoại thương, những khích động bên trong đủ sức mạnh để chọc thủng phòng tuyến bảo vệ. Tôi thiết nghĩ không thể nào định nghĩa chữ
ngoại thương (traumatisme) cách nào khác cách căn cứ vào những liên lạc của nó với một phương tiện phòng vệ như thế ở trên, sự phòng vệ ấy xưa kia có hiệu lực để chống lại kích thích. Một biến cố như sự ngoại thương nguồn gốc ở ngoài bao giờ cũng gây ra sự xáo trộn trong sự tổ chức và điều động tinh lực của cơ thể và khơi động mọi phương tiện phòng vệ. Nhưng chính nguyên tắc khoan khoái là nhân vật đầu tiên bị loại khỏi vòng chiến, vì không thể ngăn cản những số lượng khích động lớn lao xâm nhập bộ máy tâm thần, cơ thể con người chỉ còn có một lối thoát là cố gắng làm chủ những khích động ấy, trước hết hẳn bất động hóa chúng rồi sau mới giải tỏa lần lần.
Có lẽ cảm giác khổ não đặc biệt kèm theo sự đau đớn thể xác là hậu quả của sự sụp đổ một phần phòng tuyến bảo vệ. Những khích động sẽ từ phía ngoài tràn vào bộ máy tâm thần trung ương luôn luôn, không khác nào những khích động nguồn gốc ở bên trong bộ máy
[8] . Chúng ta có thể mong đợi sinh hoạt tâm thần phản ứng cách nào để chống lại sự xâm nhập ấy? Tâm thần sẽ kêu gọi tất cả những tinh lực trong cơ thể để tập trung một số tinh lực tương đương cường độ ở những nơi gần kề chỗ bị kẻ thù xâm nhập. Như vậy là đã thành lập một lực lượng chống địch, nhân đó mà các hệ thống tâm thần kém tinh lực đi, nghĩa là chức vụ của các cơ năng tâm thần khi bị đình chỉ hay suy kém. Tất cả những hình ảnh dùng trên đây đều dùng để bênh vực những giả thuyết siêu hình tâm lý học của chúng tôi, ít ra là để làm cho thêm sáng tỏ; chúng tôi rút ra kết luận rằng một hệ thống tinh lực mới tràn đến, biến đổi chúng thành những tinh lực bất động, đứng về phương diện tâm thần thì ta gọi là những tinh lực "liên kết". Một hệ thống có thể "liên kết" (lier) một số tinh lực càng nhiều nếu trong lúc bình thường tinh lực riêng của nó càng cao; trái lại, tinh lực của một hệ thống càng thấp thì hệ thống càng kém khả năng tiếp nhận những đợt tinh lực mới, hậu quả của sự vỡ phòng tuyến bảo vệ càng tai hại. Người ta sẽ nghĩ sai nếu người ta cho rằng sự tăng gia tăng tinh lực ở nơi xảy ra cuộc xâm nhập có thể giải thích được dễ dàng hơn bằng sự lan tràn trực tiếp những tinh lực ở ngoài xâm nhập vào. Nói như vậy thì sẽ có hậu quả sau đây: hẳn là tinh lực của bộ máy tâm thần được tăng gia tăng thật, nhưng không thể cắt nghĩa được tính cách làm tê liệt của sự đau đớn, không thể cắt nghĩa được sự suy kém của tất cả những hệ thống khác. Cả đến sự rẽ dòng của hiện tượng đau đớn cũng không làm lay chuyển cách nhìn của chúng tôi, bởi vì đây là một động tác phản ứng thuần túy, nghĩa là xảy ra không can dự gì đến bộ máy tâm thần. Chúng tôi trình bày những quan điểm mà chúng tôi gọi là tâm lý siêu hình một cách lờ mờ không nhất định vì chúng tôi không biết gỉì về những tiến trình khích động xảy ra trong các yếu tố của những hệ thống tâm thần. Chúng tôi không thể có một ý kiến gì về lãnh vực ấy. Chúng tôi vẫn suy luận với một ẩn số X viết chữ lớn và chúng tôi cứ để nguyên thế đưa vào mỗi công thức mới. Cùng lắm chúng tôi có thể chấp nhận rằng tiến trình ấy có thể làm việc bằng cách sử dụng những tinh lực khác nhau tùy từng trường hợp; cho rằng nó có nhiều đặc tính (thí dụ nó có thể rộng hay hẹp) thì còn dễ chấp nhận hơn; về những quan điểm mới, chúng tôi có thể kể ra quan điểm của Breuer, ông chấp nhận rằng có hai hình thức tinh lực của các hệ thống (hay yếu tố trong hệ thống): hình thức tự do và hình thức liên kết (énergie hée). Về điểm này, chúng tôi muốn đưa ra giả thuyết rằng sự liên kết những tinh lực tràn vào bộ máy tâm thần rút cục chỉ là tinh lực ở trạng thái tự do lưu chuyển biến thành trạng thái nghỉ ngơi bất động.
Theo ý tôi thì không nên lùi bước trước ý muốn cho rằng chứng suy nhược thần kinh ngoại thương thông thường là hậu quả của một trường hợp vỡ phòng tuyết bảo vệ quan trọng. Nói như vậy là trở lại thuyết bị đụng mạnh đã cổ xưa và có vẻ ngây thơ, thuyết ấy hầu như đối lập với thuyết mới đây và với những cao vọng tâm lý học nhấn mạnh vào sự không có va chạm mạnh vào sự kinh sợ và sự ý thức cái nguy hiểm đe dọa tính mạng. Nhưng chúng tôi không nói đến một sự đối lập tuyệt đối, quan niệm phân tâm học về bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương không có gì là lẫn lộn với thuyết va chạm mạnh, một thuyết thô thiển hơn nhiều. Thuyết va chạm quan niệm sự va chạm như một vết thương trực tiếp của cơ cấu phân tử (molécule), có thể là cơ cấu lịch sử của những đơn tố trong thần kinh hệ, còn chúng tôi cho rằng đó là sự phá vỡ phòng tuyến bảo vệ của cơ quan tâm thần, do đó mà gây ra những hậu quả khác. Chúng tôi không nghĩ đến việc giảm bớt tầm quan trọng của sự kinh sợ. Trên kia chúng tôi đã nói: điểm đặc biệt của sự kinh sợ là không có chuẩn bị để đợi cái nguy hiểm; trái lại trong sự lo sợ thì có chuẩn bị, trong sự chuẩn bị ấy những hệ thống trước tiên phải chịu khích động về tăng cường tinh lực của chúng. Vì không có một lượng tinh lực cần thiết hay vì lượng tinh lực ở dưới mức nhu cầu của tình trạng, những hệ thống ấy không có khả năng liên kết những số lượng tinh lực tràn đến, bởi vậy dễ gây ra hậu quả của sự vỡ phòng tuyến. Chúng ta nhận thấy sự lo sợ và sự bội tăng tinh lực của những hệ thống tiếp thu khích động, đều là những phòng tuyến cuối cùng chống lại khích động, chính sự lo sợ làm cho ta cảm thấy nguy hiểm. Trong nhiều trường hợp ngoại thương, phân tích đến cùng thì lối thoát tùy thuộc vào sự khác biệt giữa những hệ thống có chuẩn bị và những hệ thống không chuẩn bị tinh lực cao để chống lại nguy hiểm; nhưng nếu ngoại thương mạnh quá một cường độ nào đó thì yếu tố đó không có công hiệu nữa. Giấc mơ của người bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương rất thường đưa người bệnh trở lại tình trạng xảy ra ngoại thương, sự trạng đó xảy ra không phải là tại nguyên tắc khoan khoái đã gán cho giấc mơ chức vụ thực hiện ước vọng của họ một cách hư ảo. Thực ra chúng ta phải chấp nhận rằng giấc mơ theo đuổi một mục tiêu khác, mục tiêu ấy phải thực hiện trước khi nguyên tắc khoan khoái làm chủ tình thế. Giấc mơ có một cách làm xuất hiện một trạng thái lo giúp cho họ thoát khỏi vòng kiềm tỏa của những khích động mà họ đã trải qua, chính sự khuyết phạp trạng thái lo sợ ấy là nguyên nhân của bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương. Như vậy giấc mơ mở ra cho ta một viễn tượng về chức vụ của bộ máy tâm thần, chức vụ ấy tuy không đối lập với nguyên tắc khoan khoái nhưng cũng đứng độc lập đối với nó và hầu như có nguồn gốc xa xôi hơn cả khuynh hướng tìm khoan khoái tránh khó chịu.
Đây chính là lúc nên nêu ra một ngoại lệ thứ nhất của nguyên tắc giấc mơ thực hiện ước vọng của người nằm mơ. Đã nhiều lần chúng tôi trình bày rằng chúng ta không thể áp dụng nguyên tắc thực hiện ước vọng cho những giấc mơ lo sợ, những giấc mơ "trừng phạt"; giấc mơ lo sợ và giấc mơ trừng phạt không thực hiện những ước vọng cấm đoán mà lại xuất hiện hình phạt liên hệ đến ước vọng cấm đoán, nói khác đi thì đó là phản ứng của ý thức tội lỗi chống lại một xu hướng mà nguyên tắc kết án. Giấc mơ của người mắc bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương không thể quy về quan điểm thực hiện ước vọng; về tâm phân học chúng tôi cũng vấp phải những khó khăn ấy khi phân tích những giấc mơ trong đó có sự hồi tưởng những ngoại thương tâm thần của tuổi thơ. Những giấc mơ thuộc hai loại ấy vângtuân theo khuynh hướng nhắc lại; tuy nhiên, trong thời gian tâm phân nghiệm người bệnh thì giấc mơ ấy dựa vào ước vọng nhớ lại cái gì bị bỏ quên và bị dồn nén, ước vọng ấy được khuyến khích bởi sự gợi ý của ông thầy. Như vậy thì chức vụ nguyên thủy của giấc mơ cũng không hẳn là chống lại sự cố ý thực hiện những xu hướng phá rối giấc ngủ; nó mới nhậm chức ấy từ khi toàn thể đời sống tâm thần bị thống trị bởi nguyên tắc khoan khoái. Nếu quả có một "vượt qua nguyên tắc khoan khoái", thì chúng ta cũng nhận thấy chúng ta có lý khi chấp nhận rằng khuynh hướng thực hiện ước vọng của giấc mơ chỉ là một sản phẩm muộn mằn, xuất hiện sau thời kỳ nguyên thủy vắng mặt hẳn khuynh hướng ấy. Nói như vậy không có gì là đối lập với chức vụ sau này của nó. Khi khuynh hướng ấy xuất hiện, chúng ta bị đặt trước một câu hỏi khác: những giấc mơ có mục đích liên kết những ấn tượng ngoại thương theo nguyên tắc nhắc lại có thể xảy ra ở ngoài trường hợp ông thầy dùng đến cách gợi ý cho con bệnh để tâm phân nghiệm chăng? Nói chung thì chúng ta có thể trả lời rằng có.
Đối với những bệnh suy nhược thần kinh chiến tranh mà danh từ này không những nói đến sự liên lạc giữa bệnh và nguyên nhân trực tiếp của bệnh mà còn nói đến những sự kiện khác, chúng tôi đã chứng minh ở nơi khác rằng đó có thể là những bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương dễ bạo phát vì có sự xung đột trong cái
Tôi.
[9] Trên kia đã có nói đến sự kiện sau đây: khi nào ngoại thương đồng thời gây ra một thương tích lớn thì ít có hy vọng xuất hiện một chứng suy nhược thần kinh; sự kiện ấy bây giờ không còn gì là khó hiểu nữa nếu người ta kể đến hai trường hợp được những người nghiên cứu phân tâm học đặc biệt chú trọng đến. Trường hợp thứ nhất là thể xác bị đụng đập mạnh có thể coi là một trong những nguồn gốc của khích động dục tính
[10] ; trường hợp thứ hai là những bệnh đau đớn nóng sốt có ảnh hưởng mạnh đến sự phân phối libido, suốt trong thời gian bị bệnh. Bởi thế mà thân xác bị va chạm mạnh sẽ làm thoát một lượng kích thích dục tính, sự kích thích ấy có thể gây ra ngoại thương nếu không có sự lo sợ tương ứng với sự hình dung ra cái nguy hiểm và nếu thương tích thân xác gây ra lúc ấy không có hậu quả là cột chặt số khích động nhiều quá vào cơ quan bị tổn thương, theo một thứ áp lực ngã ái quá nặng
[11] . Sau đây cũng là một sự kiện rất phổ thông mà thuyết libido chưa khai thác hết: thí dụ những xáo trộn trầm trọng trong việc phân phối libido xảy ra cho người bệnh điên ưu uất (mélancolie) sẽ biến mất trong một thời gian, nếu thân xác mắc bệnh khác trong khi điên; cả đến bệnh điên cuồng sớm (démence précoce) mắc đã lâu ngày cũng có thể thuyên giảm trong một thời gian theo điều kiện ấy.
[1]Symptôme moteur
[2]Đứa trẻ này mồ côi mẹ năm được 5 tuổi 9 tháng. Lần này thì mẹ đi xa thật sự (o-o-o), đứa trẻ không bộc lộ chút buồn rầu nào. Vả chăng nó đã có em và nó ghen với em đến cùng cực.
[3]Ở nơi khác chúng tôi đã minh thị rằng khuynh hướng tái tạo được phụ giúp bởi tác động gợi ý của ông thầy, nghĩa là con bệnh chiều theo ý ông thầy, hành động của họ có nguồn gốc ở mặc cảm sợ cha mẹ.
[4]Narcissisme
[5]Xin coi những nhận xét của C.G. Jung trong bài "Die Bedeutung des Vaters für das Schicksal des Einzelnen",
Jahrbuch für Psychoanalyse, I, 1909
[6]Theo những quan điểm của Breuer trình bày trong phần lý thuyết của cuốn
Studien über Hysterie, 1895
[7]Studien über Hysterie, Breuer và Freud xuất bản lần thứ 4, 1922.
[8]Xem "Triebe und Triebschicksale",
Sammlung kleiner Schriften zur Neurosenlehre, IV, 1918
[9]"Zur Psychoanalyse der Kriegneurosen – Einleitung",
Internationale psychoannalytische Bibliothek, No 1919
[10]Coi "Die Wirkung des Schaukelns und Eisenbahnfahrens", Một phần của cuốn
Drei Abhandlungen zur Sexualtheorie, 1910. Bản dịch Pháp văn:
Trois Essais sur la theories de la sexualité, NRF
[11]Coi "Zur Einführung des Nazissmus" trong cuốn
Kleine Schriften zur Neurosenlehre, loại 4, 1918