Chương III Trong khi dẫn tôi lên cầu thang, chị Dị dặn tôi nên che nến và đừng có làm ồn, vì ông chủ có những ý tưởng rất kỳ quặc về căn buồng mà chị ta sắp đưa tôi vào. Ông ta không bao giờ muốn để một người nào ngủ ở đây. Tôi hỏi vì cớ gì? Chị nói chị không biết, chị mới đến làm công ở đây có một hai năm, và họ có rất nhiều những cử chỉ kỳ lạ, nếu chị tò mò thì tò mò đến già đời.
Tôi bị choáng váng quá nên không muốn tò mò hỏi thêm, tôi cài cửa lại rồi đưa mắt nhìn quanh xem giường nằm ở đâu. Toàn bộ đồ đạc gồm một chiếc ghế tựa, một tủ đựng quần áo và một cái hòm lớn bằng gỗ sồi có những ô vuông khoét ở mép trên nom tựa như những cửa sổ của một cỗ xe ngựa. Tôi lại gần nhìn vào trong, thì ra đó là một thứ giường nằm kỳ lạ kiểu cổ, rất tiện dụng, vì nó được thiết kế như một cái phòng tí hon; ở thành cửa sổ lại có một cái gờ có thể dùng làm bàn. Tôi đẩy hai cánh cửa lùa, cầm đèn nến chui vào, kéo khít cửa lại, và cảm thấy an toàn.
Tôi đặt cây đèn nến trên thành cửa sổ. Trên thành cửa ấy có mấy quyển sách mốc meo để ở một góc, và trên mặt thành có những chữ đủ các lối chạm bằng dao, mà chữ nào cũng viết toàn một tên người:
Yên Liên [1] thỉnh thoảng đổi ra
Hy Liên hoặc
Tôn Liên.
Trong lúc người đương ngây ngất, tôi dựa đầu vào cửa sổ tiếp tục nhắc lại Liên, Liên, Liên Hy, Liên Tôn... mắt tôi từ từ nhắm lại... được độ dăm phút các chữ hiện ra lòe ánh sáng, sáng rực rỡ như những thây ma... đâu đâu cũng thấy hoa lên những chữ Liên... Liên... Tôi đứng thẳng lên để cho những chữ ám ảnh ấy biến đi. Tôi thấy bấc của ngọn nến cong về một bên làm cháy xém bìa một cuốn sách cũ, sực lên mùi da bê cháy. Vừa khó chịu vì lạnh, vừa rạo rực buồn nôn, tôi ngồi xuống giường mở cuốn sách đặt lên đùi. Đó là quyển Kinh Thánh, trang đầu có biên: “Sách này của Yên Liên” và dưới đề niên hiệu cách đây độ 25 năm. Tôi mở một cuốn khác và lại một cuốn khác nữa và ngắm nghía. Cuốn nào ở những chỗ trống cũng có lời chua bằng mực hay bút chì, có vẻ những lời nhật ký, nét còn non đặc như trẻ con viết. Tôi bắt đầu để ý ngay đến cô Liên không quen ấy và cố tìm đọc những dòng nhật ký viết tháu.
“Một chủ nhật chán lạ. Anh Hạnh
[2] thực tệ với Hy quá. Hy với mình nhất định chống lại... Hạnh nói: Chúng bay không biết nể tao à? A! Thằng Hy
[3] mày đã dám thế à? Lan mình, đi qua rứt tóc nó cho tôi một cái.”
“... Lan rứt tóc Hy rồi về ngồi trên đùi chồng, như hai đứa trẻ, rồi hôn hít nhau và hàng giờ nói với nhau những chuyện chả ra đâu vào đâu. Hy với mình chui xuống dưới ngăn tủ bát, ngồi sát vào nhau. Mình vừa treo khăn quàng ngực của hai người làm màn che thì bác Dọi vào. Bác ta rứt màn, tát mình một cái và kêu lên như quạ rống: ‘Bố vừa mới chết mà đã chửng rỡn rồi! Không biết xấu hổ. Có nhiều sách đấy sao không lấy mà đọc đi.’
Rồi bác ta xoay người chúng tôi lại để có chút ánh sáng từ lò sưởi chiếu tới, rồi vất một đống sách bắt chúng tôi đọc. Mình không còn chịu nổi nữa, quẳng cuốn sách vào cũi chó, nói mình rất ghê tởm những cuốn sách hay. Hy cũng lấy chân hất một cuốn vào cũi chó...
... Anh Hạnh nắm lấy cổ chúng tôi ẩy cả hai đứa vào bếp. Bác Dọi dọa chúng tôi: ‘Ngoáo ộp sẽ đến bắt đem đi.’ Hy rủ mình lấy cái áo tơi treo ở bếp, cả hai núp vào đấy rồi chuồn ra ngoài rừng cỏ chơi. Ý kiến hay đấy... rồi lão Dọi có đến lại tưởng là ma bắt đi thật. Ở ngoài rừng có mưa cũng không sợ bị ướt hay bị lạnh hơn ở đây...
Tôi đoán Liên đã thực hành việc đi trốn ấy vì trong một đoạn sau có tính cách than thở:
“Thực mình không ngờ anh Hạnh làm mình khóc nhiều đến thế. Mình rức đầu, đặt lên gối cũng đau nhưng nhất quyết không xin lỗi. Anh Hy ơi, anh bị người ta cho là thằng ma cà bông, người ta không cho anh ở gần hoặc ăn chung, anh với mình không đươc chơi với nhau nữa, họ bảo thế và dọa sẽ đuổi anh đi ra khỏi nhà này nếu chúng mình trái lệnh. Anh Hạnh lại còn mắng cả bố (sao anh ấy dám hỗn thế), mắng bố đã đối đãi với anh H. quá ư tử tế...”
Tôi bắt đầu díu mắt lại nằm dài trên giường ngủ thiếp đi. Từ lúc tôi biết đau khổ đến giờ chưa có một kỷ niệm nào ghê gớm bằng đêm ấy.
Tôi nằm mơ cùng đi với bác Dọi đến nhà thờ, có rất đông người nghe giảng đạo. Tôi thì tôi mệt lắm! Tôi vặn người, tôi ngáp, ngủ gật rồi tỉnh dậy. Tôi lấy tay thích bác Dọi để bác cho tôi biết bao giờ thì giảng xong. Rồi bỗng nhiên tất cả mọi người xúm quanh tôi, giơ gậy định đánh tôi. Trong lúc hỗn loạn những chiếc gậy định đập vào đầu tôi lại đập lầm vào sọ người khác. Nhà thờ vang lên chí chát những đòn tấn công và phản công. Rồi người giảng đạo đập tới tấp như mưa rào trên bàn giảng đạo, tiếng đập dữ dội làm tôi choàng dậy và cảm thấy người nhẹ nhõm hẳn.
Tại sao tôi lại mơ thấy chuyện đánh lộn nhau và người giảng đạo đập bàn? Thì ra chỉ tại một cành thông mỗi lần gió thổi lại chạm vào cửa sổ, quả thông cứng đập vào mặt kính!
Tôi lắng nghe một lúc, trong lòng ngờ ngờ vực vực, rồi tôi trở người, chập chờn ngủ tiếp và lại mơ, lần này còn tệ hại hơn.
Tôi nhớ ra mình đang nằm trong cái buồng bé tí bằng gỗ sồi và tôi nghe rõ ràng tiếng ào ào của gió tuyết cùng tiếng đập tới tấp của quả thông, tiếng động làm tôi bực mình quá và nhất định tìm cách làm cho nó im đi...tôi trở dậy định mở cửa sổ. Cái quả nắm lại gắn chặt vào ổ khoá.
“Nhất định phải mở...” tôi lẩm bẩm thế. Tôi đấm mạnh cho cửa kính vỡ rồi thò tay ra ngoài tìm cái cành thông khó chịu kia. Nhưng đáng lẽ nắm lấy cành thông thì ngón tay tôi lại nắm vào những ngón của một bàn tay nhỏ, lạnh như nước đá. Cả cái ghê sợ cực điểm của giấc mơ chiếm lấy người tôi: tôi cố kéo tay về nhưng bàn tay kia cứ bám chặt lấy và một tiếng nói giọng buồn thương vô hạn thổn thức: “Cho em vào! Cho em vào!” Tôi vừa gỡ cánh tay ra vừa hỏi: “Cô là ai?” Tiếng đáp lại run run: “Tôn Liên đây. Em đã tìm về nhà được. Em vừa bị lạc trong rừng cỏ.” Tiếng ấy tiếp tục nói và tôi thấy mơ hồ nét mặt của một người trẻ tuổi nhìn vào cửa sổ. Sự kinh hoàng khiến tôi trở nên độc ác. Biết là mình không thể gỡ tay ra nổi, tôi kéo cổ tay cô ta để lên miếng kính vỡ rồi cứa đi cứa lại cho đến khi máu chẩy ra đẫm ướt cả khăn giường. Tiếng nói vẫn rên rỉ: “Cho em vào” và bàn tay vẫn nắm chặt lấy tay tôi khiến tôi gần như điên lên vì kinh sợ. Sau cùng tôi bảo: “Tôi mở thế nào được nếu cô muốn vào cô phải bỏ tay tôi ra đã.” Các ngón tay thả lỏng ra, tôi vội rụt tay tôi vào, lấy sách chất đầy lên che lỗ hổng, rồi bịt tai lại để khỏi nghe thấy tiếng kêu than rên rỉ. Tôi đứng yên như thế độ mười lăm phút, song mỗi khi để ý nghe, lại thấy tiếng rên rỉ đau thương ấy tiếp tục. Tôi kêu lên: “Đi ngay đi, cô có van xin tôi trong hai mươi năm tôi cũng không cho cô vào.”
Tiếng nói lại rên rỉ: “Đã hai mươi năm rồi, hai mươi năm, đã hai mươi năm em đi lang thang.” Rồi tôi nghe như có tiếng cạo cạo ở ngoài và chồng sách động đậy như bị đẩy vào phía trong. Tôi định đứng lên, nhưng không sao cử động được tay chân: tôi hoảng sợ đến điên dại rồi gào thét ầm lên.
Tôi ngạc nhiên nhận thấy tiếng gào thét của tôi là có
thực chứ không phải là tiếng trong một giấc mơ. Có tiếng bước nhanh về phía cửa phòng tôi; có ai đẩy mạnh cánh cửa rồi có ánh sáng lọt qua các lỗ vuông phía trên đầu giường. Tôi vẫn ngồi run lẩy bẩy, lau mồ hôi chảy trên trán. Người mới ở ngoài vào như lưỡng lự và tự nói với mình những tiếng rất nhỏ. Sau cùng người đó thì thầm hỏi nhưng có vẻ hỏi mà không đợi câu trả lời: “Có ai ở đây không?”
Tôi nhận ra tiếng đó là tiếng ông Hy, cần phải tỏ ra có mình ở đây, tôi vội quay người lại, mở hai cánh cửa lùa. Tôi khó quên được cảnh tượng lúc bấy giờ...
Ông Hy đứng ở gần cửa vào, một cây nến đương cháy rỏ giọt trên tay ông và mặt ông cũng trắng nhợt như bức tường phía sau. Tiếng động của cánh cửa làm ông choáng người như có điện giật
[4] . Cây đèn nến tuột khỏi tay ông rơi xuống cách chân ông vài bước. Ông ta luống cuống đến nỗi khó khăn lắm mới nhặt được cây nến.
Muốn ông khỏi xấu hổ để lộ cho tôi biết quá lâu về tính rút rát của ông, tôi vội nói:
“Tôi đây ông ạ. Tôi mê sảng quá thành kêu ầm lên. Xin lỗi ông, đã làm phiền tới ông.”
Ông Hy đặt cây đèn cầy xuống ghế vì ông ta biết khó lòng cầm nó vững:
“Trời hại ông! Tôi muốn ông sa ngay xuống...”
Ông ta nắm chặt hai bàn tay, nghiến răng lại để quai hàm khỏi cựa quậy:
“Thế ai đưa ông vào buồng này. Ai? Tôi muốn tống cổ nó đi ngay lập tức.”
Tôi vơ quần áo vừa mặc vội vàng vừa đáp:
“Chị Dị, tôi cũng không áy náy nếu ông đuổi chị ấy đi. Đáng đời lắm. Chắc chị ta muốn dùng tôi để thử một lần nữa xem cái buồng này có ma không. Thế mà có ma thật, vô số là ma. Ông khóa cửa là phải lắm. Ai mà ngủ được trong cái ổ quỷ này.”
“Ông định nói gì. Nếu ông đã vào đây thì ông cứ đi ngủ cho hết đêm nhưng xin ông đừng làm rầm lên như thế nữa; tôi không thể tha thứ ông được nữa, chỉ trừ khi nào ông đương bị người ta cắt cổ.”
Tôi cự lại:
“Nếu con ma ấy vào lọt cửa sổ thì chắc chắn nó sẽ bóp cổ tôi. Tôi không chịu được những sự hành hạ của ông bà ông vải nhà ông nữa. Còn cái cô lắm nhời, Tôn Liên, Yên Liên gì đó... thì ngớ ngẩn và linh hồn chưa thoát: cô ấy bảo tôi cô ấy đi lang thang đã hai mươi năm nay. Tôi chắc lúc còn sinh thời đã phạm nhiều tội lỗi nên bây giờ mới bị trừng phạt như vậy. Thật là đáng kiếp!”
Tôi vừa nói xong miệng mới chợt nhớ là trong một cuốn sách có đoạn nói lẫn lộn hai tên Hy và Liên. Câu chuyện đó tôi đã quên hẳn nay bỗng vụt nhớ ra. Tôi lấy làm xấu hổ là mình đã hớ. Nhưng tôi nói tiếp theo luôn, làm như mình không biết đã làm ông ta mất lòng.
“Sự thực ra, tôi đã đọc rất lâu...”
Tôi ngừng lại. Thật ra tôi định nói: “đọc rất lâu các cuốn sách cũ này”, nhưng nếu nói thế thì tỏ ra ngay là tôi đã đọc những đoạn viết tay chua trong sách. Tôi nói xoay ra:
“Đọc rất lâu những chữ chạm trên thành cửa.”
Ông Hy nói bằng một giọng to như sấm và hết sức hung hăng:
“Ông nghĩ gì mà nói với tôi như thế. Tại sao... tại sao ông dám... mà lại ngay ở nhà tôi...? Trời ơi, phải là điên rồ mới nói như vậy.”
Rồi ông ta tự đấm vào trán mình như cuồng dại.
Tôi tiếp tục kể lại giấc mơ, rồi quả quyết rằng trước kia chưa từng nghe tên Tôn Liên, song chỉ vì đọc nhiều quá, đọc đi đọc lại mãi nên tên đó biến thành người thật. Trong lúc tôi kể ông Hy lùi dần mãi vào náu trong góc phòng có cái giường, ông ta ngồi xuống gần như khuất trong đó. Nhưng nghe hơi thở hổn hển tôi đoán ông ta đang cố sức chống lại một sự cảm động mãnh liệt. Không muốn cho ông ta biết là tôi hiểu thấu sự rối loạn trong tâm hồn ông, tôi mặc quần áo nhìn đồng hồ rồi nói một mình:
“Chưa đến ba giờ, thế mà mình tưởng là sáu giờ. Thời gian ở đây sao mà dài thế. À chắc là tối hôm qua mới tám giờ chúng mình đã đi ngủ.”
Ông Hy cố nén cho khỏi rên lên và cất tiếng nói:
“Về mùa đông bao giờ cũng đi ngủ tám giờ tối và bốn giờ sáng đã dậy.”
Nhìn cái bóng tay cử động tôi đoán ông ta đương gạt nước mắt.
Ông Hy nói tiếp:
“Tiếng kêu của ông đã làm tôi mất cả buồn ngủ, ông cầm đèn rồi ông đi về phòng tôi hay ông muốn đi đâu thì đi, lát nữa tôi sẽ xuống. Ông nên tránh đi ra sân vì lũ chó, còn buồng khách thì có con chó vàng, còn... nhưng thôi ông đi quanh ở cầu thang... ông đi ra ngay! Độ hai phút tôi sẽ ra tìm ông.”
Tôi nghe theo bước ra khỏi buồng, rồi không biết đường lối đi về đâu, tôi ngừng lại và vô tình được chứng kiến một cảnh mê tín rất mâu thuẫn ở một người có lương tri như ông. Ông ta trèo lên giường, dùng sức mở cửa sổ và trong lúc kéo cánh cửa, ông không tự nén được, oà lên khóc nức nở: “Vào! Vào đây! Liên ơi! Vào đi! Em, vào đi...
chỉ một lần này thôi, em yêu dấu của anh! Lần này nghe anh đi, em Liên!”
Nhưng hồn ma không thấy hiện. Chỉ có tuyết có gió lồng lộng ùa vào dữ dội, thổi vào tận chỗ tôi đứng và làm nến phụt tắt. Trong cơn mê sảng của ông Hy, tôi thấy có cái gì đau đớn não nuột quá, khiến tôi thương cảm ông và quên cả sự cuồng dại của ông. Tôi đi ra xa, hơi hối là đã trót nghe, dẫu nghe rất ít, và tiếc rằng đã kể giấc mộng vô lý của mình ra. Chính cái giấc mộng đó đã làm ông ta bị mê sảng nhưng
vì cớ gì thì tôi không rõ. Tôi mò mẫm đi xuống dưới nhà, và đi vào một căn bếp. Một vài cây củi vẫn còn than hồng tôi liền lấy lửa thắp nến lên. Một con mèo xám từ đống tro bò ra, kêu “meo” một tiếng cáu kỉnh.
Tôi nằm xuống ghế dài vừa bắt đầu thiu thiu thì có bác Dọi vào. Bác nhìn vào ngọn lửa tôi vừa nhóm, đôi mắt trông rất ác. Bác đuổi con mèo đi ngồi vào chỗ của nó và lấy ống điếu ra nhồi thuốc. Bác ta yên lặng đặt đầu điếu vào môi, khoanh hai cánh tay lại và thở khói lên trời. Tôi để mặc bác ta yên ổn hưởng cái thú vị khoái trá ấy. Sau khi thở phì xong hơi khói cuối cùng, bác thở dài một cái rồi đi ra cũng đĩnh đạc như khi bước vào.
Sau lại có tiếng chân bước rảo hơn, tôi định mở miệng chào, nhưng rồi ngăn lại vì thấy Hạ đương “cầu kinh” bằng cách lẩm bẩm hàng tràng tiếng chửi rủa những vật mà anh ta sờ vào. Anh ta nhìn vào chỗ tôi nằm, chắc anh ta chẳng nghĩ đến chào tôi, cũng như chẳng bao giờ anh ta nghĩ đến chào một con mèo cả. Anh ta lấy cái thuổng cầm tay gõ vào một cánh cửa và chỉ cho tôi bằng một tiếng gầm gừ rằng nếu tôi muốn sang phòng khác thì phải đi về phía ấy.
Cửa đó đi vào phòng lớn, chị Dị đương thổi bễ cho ngọn lửa to lên. Cô nàng dâu ông Hy thì ngồi cạnh lửa, chăm chú đọc sách, chỉ thỉnh thoảng ngừng lại mắng chị Dị đã làm bắn tia than vào đầy người nàng, hoặc đẩy con chó chốc chốc lại chọc mũi vào mặt nàng. Tôi lấy làm ngạc nhiên thấy ông Hy cũng có đó, đứng quay lưng về phía tôi: ông vừa mới mắng chị Dị một trận dữ dội vì chị ta chốc chốc lại ngưng làm việc, nhấc một góc khăn quàng ngực quyệt nước mắt và khóc than rền rĩ.
Trong lúc tôi đi vào thì ông Hy quay lại phía nàng dâu và thốt ra một tiếng rủa không lấy gì tệ hại lắm, nhưng nếu hạ bút viết thì phải thay vào bằng mấy cái chấm...
“Còn cô ả này, cô ả khốn nạn này nữa...cô cứ ngồi khểnh ra đó mà vớ vẩn. Ở nhà này ai cũng làm việc cả; có làm thì mới có ăn chứ... Còn cô, thì cô chỉ ăn bám vào tôi thôi. Quẳng những cái nhảm nhí ấy đi rồi tìm việc mà làm đỡ người khác, nghe rõ chưa, đồ mặt dầy!”
Cô nàng dâu gấp sách lại quẳng trên ghế:
“Tôi sẽ ném những sách nhảm nhí này đi, nếu không thì ông lại áp chế tôi, nhưng nếu ông cứ còn quen miệng nguyền rủa mãi thì tôi thích làm cái gì tôi sẽ làm cái ấy.”
Ông Hy giơ tay lên; nàng vội chạy ra xa, rõ ràng là nàng đã biết rõ sức mạnh của bàn tay ấy. Không muốn chứng kiến một cuộc đối chọi giữa chó và mèo, tôi vội vàng tiến lên làm như chỉ muốn đến sưởi ấm, chứ không biết gì đến cuộc cãi nhau vừa ngừng. Mọi người đều có đủ lịch sự để ngừng cuộc xung đột. Ông Hy đút nắm tay vào túi để khỏi bị quyến rũ dùng đến nó. Cô nàng dâu thì bĩu môi rồi đến ngồi ở cái ghế xa, giữ đúng lời hứa và ngồi yên như tượng, trong lúc tôi còn ở lại. Cũng không lâu la gì cho lắm: tôi từ chối lời họ mời ăn điểm tâm và khi trời bắt đầu hửng sáng, tôi vội vàng tìm dịp đi ra ngoài; trời bây giờ sáng, yên tĩnh và lạnh như nước đá.
Tôi gần đi đến cuối vườn thì ông Hy gọi tôi dừng lại rồi đề nghị dẫn đường cho tôi qua rừng cỏ.
Chúng tôi nói chuyện rất ít, và khi đi đến trước cửa rừng cỏ trại Họa Mi Trang, ông ta ngừng lại nói là bây giờ thì tôi không thể lạc đường được nữa. Chúng tôi chào nhau bằng mấy lời vắn tắt. Từ ở cửa rừng đến trại có hơn ba cây số, tôi đi mất gần bẩy cây, luôn luôn lạc lối ở ngoài đám cây, và có khi thụt vào trong tuyết ngập đến cổ. Mãi tới trưa tôi mới về tới nhà, thành thử mỗi cây số rưỡi tôi phải đi mất một tiếng đồng hồ.
Mọi người ở nhà đã tưởng tôi chết từ đêm trước và họ đương bối rối không biết làm thế nào để đi tìm đem được xác tôi về.
Chương IV Chúng mình thực thay đổi như chong chóng. Tôi không ưa sự thù tiếp xã giao, tự lấy làm mãn nguyện tìm được một nơi hầu như không thể có được, thế mà khi mụ Diễn
[5] coi nhà đem cơm chiều lên tôi mời mụ ngồi lại trong khi tôi ăn. Tôi thực tình mong mụ ta là một mụ lắm nhời lắm miệng. Tôi bắt đầu hỏi:
“Bác ở đây lâu lắm rồi, có phải không? Hình như bác nói đã mười sáu năm rồi...”
“Thưa ông, mười tám năm rồi. Tôi đến lúc bà chủ đi lấy chồng. Sau khi bà ta mất, ông ta giữ tôi lại làm người quản gia.”
“Thật vậy à?”
Bác ta yên lặng. Có lẽ mụ không thuộc loại người lẻo mép. Nhưng sau đó một lúc, hai nắm tay chống đầu gối, vẻ mặt đỏ ửng, nhiễm vẻ suy nghĩ mơ màng, bác ta nói:
“A! từ lúc đó đến bây giờ biết bao nhiêu là thay đổi.”
Tôi nói thêm vào:
“Chắc bác đã chứng kiến những sự thay đổi, có phải thế không?”
“Vâng, chính thế. Lại bao nhiêu đau khổ nữa.”
Tôi nghĩ thầm: “Mình phải gợi cho mụ ta nói chuyện về gia đình ông Hy, mình mới biết cô nàng dâu góa trẻ và đẹp ấy.”
Nghĩ thế tôi hỏi bác Diễn tại sao ông Hy lại cho thuê Họa Mi Trang và chịu sống ở một địa vị và trong một căn nhà kém cỏi như thế. Hay ông ta không giàu có lắm để giữ gìn sản nghiệp cho được đàng hoàng. Bác Diễn đáp lời:
“Thưa ông Hy giàu lắm chứ! Không ai biết ông ấy có bao nhiêu tiền và mỗi năm tài sản lại tăng lên đến mức nào; ông ấy thừa sức sống trong cái nhà sang trọng hơn căn nhà này nhiều; nhưng ông ấy phải cái tính keo kiệt, cho dẫu ông ta có ý dọn sang ở Họa-Mi Trang đi nữa mà nếu có người muốn thuê và trả giá cao, ông ấy cũng không bỏ qua dịp kiếm thêm tiền. Chỉ có một thân một mình trên đời này mà còn tham lam như vậy nghĩ cũng kỳ thật.”
“Tôi tưởng ông ta có cậu con trai?”
“Có, ông ta có một cậu nhưng chết rồi.”
“Còn cái người đàn bà trẻ ấy là vợ góa của con ông ta?”
“Vâng.”
“Cô ấy ở đâu đến?”
“Cô ấy là con gái ông chủ tôi. Cô ấy là cô Liên, Tôn Liên
[6] tên riêng cô ta từ thuở nhỏ. Chính tôi là vú nuôi cô ấy. Tội nghiệp con bé. Tôi chỉ mong ông Hy về đây ở để tôi với cô Liên được đoàn tụ với nhau.”
Tôi kinh ngạc kêu lên:
“Ai? Cô Tôn Liên?”
Nhưng suy nghĩ một lát tôi biết cô này không phải cô Tôn Liên ở trong giấc mộng của tôi. Tôi tiếp theo:
“Thế ra ông Tôn là người ở Họa Mi Trang này trước tôi?”
“Vâng, đúng thế.”
“Thế còn anh chàng họ Yên... Yên Hạ, cùng ở với ông Hy là ai? Có họ với ông Hy không?”
“Không, đấy là cháu của bà Tôn Kha.”
“Nghĩa là anh em con cô con bác với cô goá trẻ?”
“Vâng, và chồng cô Liên với cô Liên cũng là anh em con cô con bác với nhau: chồng về phía mẹ, vợ về phía bố. Còn ông Hy lấy em gái ông Tôn
[7] .”
“Tôi thấy ở Gió Hú có tên họ Yên khắc trên cổng chính. Có phải là một họ gia thế không?”
“Thưa vâng, cậu Hạ là con trai nối dõi sau cùng của họ Yên, cũng như cô Liên là dòng dõi cuối cùng của họ Tôn. Thưa ông, ông đã đến thăm trại Gió Hú? Xin lỗi ông tôi hỏi như vậy thực là tò mò, nhưng tôi muốn hỏi thăm ông xem cô Liên có được mạnh khỏe không?”
“Cô Tôn Liên ấy à? Cô ấy có vẻ khỏe mạnh lắm và trông cô ấy cũng xinh đẹp; song hình như không được sung sướng lắm thì phải.”
“Trời! Cái đó cũng không có gì lạ. Còn về ông Hy? Ông nghĩ sao?”
“Một người hơi thô tục. Có phải tính nết ông ta thế không, bác Diễn?”
“Vâng, thưa ông, đúng thế. Ông Hy thô tục và đanh đá. Ông càng ít giao thiệp với ông ta càng hơn.”
“Chắc ông Hy trong đời nhiều lúc lên voi xuống chó nên bản tính mới thế. Bác có biết chuyện gì về ông ta không?”
“Tôi biết hết chuyện ông ta, nhưng còn ông ta sinh đẻ ở đâu, bố mẹ là ai, lúc đầu ông ta làm giầu cách nào thì tôi không biết gì hết. Anh chàng Hạ bị người ta vứt ra khỏi tổ như một con chim sẻ non. Chỉ có mình anh ta là không ngờ rằng mình bị sang đoạt.”
“Bác Diễn, thế thì bác hãy làm phúc kể cho tôi nghe ít nhiều về đời những người láng giềng của tôi. Tôi biết là nếu tôi có ngủ bây giờ cũng không thể nào ngủ được. Vì vậy bác ngồi chơi thong thả một lát rồi nói chuyện gẫu cho tôi nghe đi.”
“Thưa ông tôi rất vui lòng. Để tôi đi lấy đồ đan rồi ngồi cho tới khi nào ông không muốn nghe nữa.”
Bác Diễn bắt đầu kể chuyện không đợi tôi mời thêm lần nữa.
*
Trước khi đến đây, tôi vẫn ở trại Gió Hú. Bà cụ thân sinh ra tôi trước kia là vú nuôi ông Yên Hạnh tức là cha đẻ ra Yên Hạ bây giờ. Tôi thường chơi với lũ trẻ con. Một buổi sáng mùa hè, cụ Yên ông (bố đẻ của ông Yên Hạnh và cô Yên Liên) mặc bộ quần áo kiểu du lịch đi xuống dưới nhà. Sau khi chỉ bảo công việc cho bác Dọi làm, cụ Yên quay về phía Hạnh, Liên và tôi rồi hỏi con trai:
“Ngày hôm nay ba đi Li-vơ-pun
[8] con có thích cái gì không? Con muốn chọn cái gì tùy ý miễn là đừng to lớn quá vì ba phải đi bộ suốt cả lượt đi lẫn lượt về ngót hai trăm cây số, xa lắm đấy.”
Hạnh muốn có một cây đàn vĩ cầm. Rồi cụ lại hỏi Yên Liên (tức là Liên mẹ) hồi đó mới lên sáu, nhưng đã cưỡi được tất cả ngựa ở chuồng nên cô ta chọn cái roi quất ngựa.
Trước khi hôn các con, chào từ biệt và lên đường, cụ Yên không cũng quên tôi, cụ hứa sẽ mang về cho tôi một bịch lê táo.
Ba ngày cụ Yên đi vắng đối với chúng tôi thực là đằng đẵng. Cô bé Liên cứ luôn miệng hỏi bao giờ bố về. Chiều hôm thứ ba, cụ bà cứ hoãn mãi giờ cơm, hết giờ này sang giờ khác mà cụ ông vẫn chưa về. Bà cụ muốn các con đi ngủ nhưng chúng kêu van ở lại đợi. Mãi đến mười một giờ đêm, ông cụ mới về. Cụ ném mình xuống một cái ghế và nửa cười nửa gắt bảo vợ con đừng đến gần vì cụ mệt gần chết.
Ông cụ mở cái áo tơi cuộn tròn trong tay ra rồi nói:
“Đã thế lại phải mang một thứ nặng chết người. Này mình xem. Trong đời tôi chưa bao giờ thấy mệt như bây giờ, nhưng mình phải nhận lấy cái gánh nặng này trời gán cho đấy, mặc dù nó đen như quỷ sứ.”
Chúng tôi đứng xúm lại. Tôi nhìn qua đầu cô Liên thấy một đứa trẻ bẩn thỉu, quần áo tả tơi, tóc đen bù xù, nhưng người đã đủ lớn để có thể đi lại và nói năng được. Trông nét mặt nó có vẻ nhiều tuổi hơn Liên. Nhưng đến lúc nó đứng dậy, nó chỉ biết nhìn quanh một cách ngơ ngác và nói lí nhí mãi không ai hiểu gì cả. Tôi sợ quá và cụ bà thì muốn đem quẳng nó ra cửa ngay lập tức. Bà giận dữ không hiểu cụ ông đem cái đứa trẻ cầu bơ cầu bất ấy về làm gì, trong lúc nhà có lũ con cần nuôi dậy. Chồng mình định làm gì? Ông có điên không chứ? Cụ ông cố sức giảng giải. Cụ gặp nó đương nằm đói ở ngoài phố, định thăm hỏi nhưng không ai biết nó. Ít tiền lại ít thì giờ cụ nghĩ không gì tốt hơn là đem nó về nhà, không thể để nó trong tình trạng đó được. Sau cùng cụ bà cũng dịu và cụ ông bảo tôi tắm cho nó, mặc quần áo sạch sẽ cho nó, rồi cho nó đi ngủ với bọn trẻ con.
Hạnh và Liên đứng yên nhìn và nghe cho đến khi mọi việc ổn thỏa và hai đứa trẻ khám hết các túi cha để tìm quà. Hạnh là một cậu bé đã mười bốn tuổi nhưng khi cậu lôi ra một cây đàn bị đè nát từng mảnh trong áo bành tô của cha, cậu cũng khóc nức nở. Còn Liên khi biết cha vì săn sóc thằng bé đã để mất cái roi ngựa, cô nhăn mặt tỏ ý khó chịu và nhổ về phía đứa bé đứng, khiến ông cụ tát cho một cái để dậy cho cô có những cử chỉ lịch sự hơn. Cả hai cô cậu đều quyết liệt không chịu ngủ chung giường với đứa bé, ngay cả chung buồng cũng vậy. Tôi cũng chẳng khôn gì hơn bọn chúng, đem đặt đứa bé ở cầu thang, mong sáng hôm sau dậy nó cút thẳng. Không may ông cụ ở buồng đi ra trông thấy nó nằm đấy liền điều tra: tôi đành phải thú nhận, và vì tội hèn nhát và vô nhân đạo ấy, tôi bị đuổi.
Đấy, Hy nhập gia đình cụ Yên như thế đấy. Mấy ngày sau khi tôi trở về (vì tôi biết chỉ là sự đuổi tạm thời) thì tôi thấy nhà đã đặt tên đứa bé là Hy (tên một đứa con của cụ Yên chết). Hy vừa là tên vừa là tên họ. Lúc đó Liên và Hy đã ăn ý với nhau lắm. Hạnh thì ghét Hy và thú thực tôi cũng ghét Hy. Chúng tôi trêu chọc Hy và đối đãi với nó một cách bất công; bà chủ Yên giá có thấy nó bị oan ức cũng không bao giờ bênh vực nó.
Hy có vẻ một đức bé rầu rĩ và nhẫn nhục, đã quen chịu đựng những cách đối đãi cục cằn. Hạnh đấm đá nó, nó không hề cau mày, không hề giỏ nước mắt; tôi có véo nó thì nó chỉ thở dài và giương to hai mắt ra, hình như bị đau chỉ vì rủi ro và không có ai đáng trách cả. Cụ Yên thấy nó có tính gan dạ thế nên mỗi khi thấy con mình hành hạ nó, cụ cáu vô cùng; cụ gọi nó là thằng bé mồ côi khù khờ. Cụ yêu nó một cách lạ lùng; nó nói gì, cụ cũng nghe (nó nói rất ít nhưng thường nói sự thực); và nuông nó còn hơn cả bé Liên nhiều vì bé Liên có tính cứng đầu cứng cổ không tuân lời.
Vì vậy, ngay từ lúc đầu, Hy đã gây nên bao nhiêu sự bất hòa ở trong nhà. Hai năm sau... cụ Yên bà qua đời, Hạnh coi cha như một người áp chế chứ không phải một người bạn, và coi Hy như một người đã cướp tình yêu và quyền thế của cha mình. Mới đầu tôi cũng về hùa với Hạnh, nhưng về sau, khi các trẻ bị lên sởi, tôi phải săn sóc chúng thì ý nghĩ của tôi đổi khác. Hy bị bệnh nguy hiểm nhất; lúc cơn bệnh lên tột độ, nó muốn tôi luôn luôn ngồi ở đầu giường: tôi đoán nó thấy tôi đã hết lòng với nó, nhưng nó chưa đủ trí để hiểu rằng tôi phải làm thế chỉ vì bổn phận mà thôi. Dầu sao tôi cần phải nói rõ nó là một đứa trẻ ngoan ngoãn nhất. Sự khác biệt giữa Hy với Liên và Hạnh khiến cho tôi bớt tư vị. Liên, Hạnh làm tôi mệt nhoãi mệt nhoài, còn Hy thì yên lặng như con cừu non; nó làm tôi bớt lo nghĩ không phải vì tính nó hiền lành, nhưng chỉ vì nó chịu đựng được đau đớn.
Về sau Hy khỏi; bác sĩ nói quyết rằng một phần lớn nhờ tôi, rồi khen tôi chịu khó săn sóc nó. Tôi hài lòng về những lời khen đó và trở nên rộng lượng đối với Hy, người đã làm cho mình được tiếng khen. Thế là Hạnh không còn ai là bạn nữa. Tuy vậy tôi cũng không ưa gì Hy cho lắm; tôi vẫn tự hỏi không biết đứa trẻ lầm lỳ ấy có thứ gì khiến cụ Yên thích nó đến thế. Theo chỗ tôi biết, không có một lần nào nó tỏ ý biết ơn ông cụ. Nó không hỗn sược với người làm ơn cho mình, nó cứ thản nhiên vô tình, mặc dầu nó biết đã chiếm được tình yêu của người ấy. Nó chỉ khẽ tỏ ý ra là tất cả nhà ai cũng phải chiều ý nó. Chẳng hạn, tôi nhớ lại một ngày cụ Yên mua một đôi ngựa cho Hy và Hạnh mỗi cậu một con. Hy lấy con đẹp nhất, không bao lâu con này què chân. Thấy vậy nó bảo Hạnh:
“Anh cần phải đổi ngựa cho tôi. Tôi không thích con ngựa của tôi nữa. Nếu anh không bằng lòng tôi sẽ mách ba rằng trong tuần lễ này anh đã đánh tôi ba lần rồi. Tôi sẽ giơ cánh tay bầm tím đến tận vai để ba xem.”
Hạnh thè lưỡi ra chế nhạo, và bợp tai nó một cái. Nó lùi ra cửa chuồng ngựa và dằn giọng nói:
“Anh biết điều thì đổi ngay đi, nếu không tôi giơ những chỗ bị đánh này thì anh bị ốm đòn.”
Hạnh giơ quả tạ dùng để cân khoai và kêu lên:
“Cút đi, đồ chó!”
Hy không động đậy:
“Anh cứ ném đi. Rồi tôi sẽ mách ba rằng anh đã dọa tống cổ tôi ra khỏi nhà này khi ba mất. Chắc chắn anh sẽ bị đuổi ngay lập tức bây giờ.”
Hạnh ném quả tạ trúng giữa ngực Hy; Hy ngã nhưng lại đứng dậy ngay, mặt tái mét, người lảo đảo và thở hổn hển. Nếu tôi không ngăn cản thì nó đi thẳng tìm cụ Yên và không cần nói gì, chỉ để cụ Yên thấy tình trạng nó là tự cụ đã đoán ngay ai là thủ phạm.
Hạnh nói:
“Ừ thì mày lấy con ngựa của tao đi, thằng chết đường. Tao cầu trời cho nó quật gẫy cổ mày, thử xem nó lại không đá cho một cái vỡ sọ ra à.”
Trong lúc Hy tiến lên để tháo yên ngựa đổi chuồng, Hạnh đẩy nó ngã dưới chân ngựa rồi cắm cổ chạy thẳng không kịp nhìn xem ngựa có đá không. Tôi lấy làm ngạc nhiên thấy thằng bé Hy đứng dậy thản nhiên như không, tiếp tục tháo yên cương. Rồi nó ngồi xuống bó cỏ cho đỡ mệt, trước khi vào nhà. Tôi bảo nó để tôi nói rằng nó bị bầm tím mình mẩy là tại con ngựa, nó chịu ngay: muốn nói gì thì nói nó cũng không cần, vì nó đổi được con ngựa là đủ rồi. Vả lại, sau những cuộc đánh nhau như vậy, ít khi nó than phiền, nên tôi tưởng nó không để bụng thù. Nhưng tôi hoàn toàn lầm. Để rồi tôi kể ông nghe.
Chương V Cụ Yên ngày một kém sức. Khi cụ yếu quá, chỉ ngồi cạnh lò sưởi, cụ đâm ra dễ cáu. Một tí gì cũng làm ông cụ giận dữ nhất là có ai bắt nạt Hy hoặc sai bảo Hy một cách sỗ sàng. Chỉ mới nghĩ rằng người ta có thể nói một câu bất nhã khó chịu với Hy, cụ cũng lo lắng tức bực. Hình như ông cụ tự nhồi vào óc cái ý nghĩ rằng chỉ vì cụ yêu Hy, nên mọi người đều ghét và muốn trêu chọc cụ. Nhưng việc này hại cho Hy vì những người tốt bụng trong bọn chúng tôi đều không muốn làm trái ý cụ, thành thử chúng tôi phải phờ phỉnh tính tư vị của cụ, và sự phờ phỉnh đó như nuôi cái tính kiêu ngạo và hung hãn của Hy. Một vài lần, Hạnh để lộ vẻ khinh bỉ, cụ nhận thấy, cáu lắm, vác gậy định đánh, nhưng tức run cả người lên khi thấy mình không còn đủ sức để đánh nữa.
Sau vị mục sư của chúng tôi khuyên cụ Yên nên cho Hạnh đi học xa, cụ đồng ý tuy chẳng vui gì, vì cụ bảo:
“Thằng Hạnh muốn đi đâu thì đi, nó chẳng được tích sự gì mà cũng chẳng bao giờ làm nên công chuyện gì.”
Tôi thực tình mong mỏi là từ nay trong nhà sẽ yên ổn... Nhưng lại có hai người: cô Liên và bác Dọi. Ông đã gặp bác ta, trên Đỉnh. Bác ta khéo thuyết đạo, khéo nói những lời sùng tín, nên có ảnh hưởng đến cụ Yên, và cụ Yên càng yếu, ảnh hưởng bác ta càng tăng. Bác ta ray rứt tàn nhẫn cụ Yên để nhắc đến việc cứu vớt linh hồn cụ, và lưu tâm dậy con cái một cách nghiêm nghị; bác khuyên cụ Yên nên coi Hạnh như một đứa trời đánh và chẳng chiều nào là bác không tuôn ra một chuỗi dài các chuyện xẩy ra không hay cho Hy và Liên; bác ta bao giờ cũng khéo đánh vào chỗ yếu của ông cụ là đổ tội lên đầu Liên nhiều hơn.
Còn Liên, cô ấy có những thói riêng tôi chưa từng thấy ở đứa trẻ nào... Cô quấy rầy chúng tôi mỗi ngày có hàng năm chục lần: từ lúc xuống đến lúc đi ngủ, không có một phút nào mà chúng tôi không lo sợ xẩy ra một chuyện ma quái. Liên bao giờ cũng háo ha háo hức, láu táu luôn miệng...nào hát, nào cười, châm chọc bất kỳ ai không làm theo như cô. Thật là một con ranh con bất trị, nhưng khắp vùng này lại không có ai có con mắt vui hơn, nụ cười vuốt ve hơn, dáng đi nhẹ nhàng hơn cô bé ấy. Nghĩ cho kỹ, tôi chắc cô ấy không phải là người có tâm địa xấu, vì mỗi lần làm cho chúng tôi bực mình, cô ấy thường ở bên chúng tôi, van xin chúng tôi nín khóc để cho cô ấy khỏi buồn lòng. Cô ấy cứ quấn quýt lấy cậu Hy. Chúng tôi đã nghĩ ra được một cách phạt Liên nặng nhất là bắt Liên phải xa Hy. Thế mà trong bọn chúng tôi không ai bị mắng vì Hy như Liên.
Còn cụ Yên thì không chịu nổi những lời bông đùa của trẻ con; đối với con bao giờ cụ cũng khắc nghiệt, nghiêm nghị; về phần Liên, cô không hiểu sao cha mình trong khi đau yếu thường hay nóng tính, gắt gỏng không như thời còn tráng kiện. Chính vì cụ hay gắt gỏng càu nhàu mắng mỏ nên Liên mói thấy việc trêu cha là một cái thú. Mỗi khi thấy tất cả mọi người đều mắng cự cô, cô lấy làm khoái trí lắm, cô như thách tất cả mọi người bằng hai con mắt nhìn ngạo nghễ, hỗn sược và những câu đối đáp sẵn sàng. Cô ta nhạo những câu nguyền rủa độc địa của bác Dọi, cô ta trêu tôi, làm chính những việc mà ông bố ghét nhất, và tỏ cho ông bố biết tại sao sự khinh miệt giả tạo vờ vĩnh của cô - mà ông bố tưởng là thật - lại có ảnh hưởng đến Hy hơn là lòng tốt của ông bố đối với Hy; cô ấy lại còn tỏ ra tại sao bất cứ việc gì cô bảo, Hy cũng nghe cô, còn đối với ông bố thì Hy chỉ nghe theo khi nào chính Hy thấy việc ấy hợp với ý thích của Hy thôi. Suốt ngày hỗn sược với bố như thế, chiều đến thỉnh thoảng Liên lại đến vuốt ve bố làm lành. Cụ Yên nói:
“Thôi Liên ơi, ba không yêu con đâu. Con còn tệ hơn cả thằng Hạnh. Đi cầu kinh đi, con ơi, rồi thú tội với Chúa. Mẹ mày và tao nữa thẩy đều lấy làm xấu hổ đã sinh ra mày.”
Mới đầu những lời đó làm cho Liên khóc, nhưng bị ông bố ruồng rẫy mãi, Liên quen đi và mỗi khi tôi khuyên cô nên xin lỗi và tỏ ý hối tiếc những lầm lỗi đã qua thì cô lại bật cười.
Rồi một hôm cụ Yên chết, chết yên lặng trong khi đương ngồi trước lò sưởi, một buổi chiều tháng mười, gió mạnh thổi quanh nhà, rít lên trong lò sưởi; hình như có bão nhưng trời lại không rét lắm. Chúng tôi đều quây quần quanh lò sưởi; tôi ngồi ở một chỗ hơi xa đương bận đan còn bác Dọi thì ngồi đọc Thánh Kinh ở gần bàn. Cô Liên hơi mệt, vì thế cô ngồi yên, dựa đầu vào chân cha, còn Hy thì nằm dài ở dưới đất, đầu đặt lên đùi Liên. Tôi nhớ cụ Yên trước khi thiu thiu ngủ còn vuốt ve làn tóc xinh đẹp của con gái. Ông cụ ít khi có được cái thú thấy con gái mình ngoan. Cụ nói:
“Liên ơi, tại sao con không bất cứ lúc nào, cũng là một đứa bé ngoan?”
Liên ngửng đầu về phía bố rồi đáp:
“Ba ơi, tại sao ba không bất cứ lúc nào, cũng là một người bố ngoan?”
Nhưng khi Liên thấy cha giận, cô hôn bàn tay cha và nói sẽ hát một bài để ru cha ngủ. Tôi bảo Liên đừng hát nữa và đừng động đậy người sợ đánh thức cụ Yên dậy. Chúng tôi ngồi yên không nói như thế trong nửa giờ; sau cùng bác Dọi đứng lên nói sẽ đánh thức ông chủ để ông chủ đọc kinh và đi nghỉ. Bác Dọi đến gần gọi tên ông chủ và sờ vào vai. Thấy cụ Yên không nhúc nhích bác Dọi cầm cây nến soi vào mặt. Tôi đoán có sự gì không hay xẩy ra khi tôi thấy bác Dọi đặt cây đèn rồi mỗi tay dắt một đứa trẻ bảo chúng rất khẽ: “Lên gác đừng có làm rầm cầu kinh lấy với nhau cũng được, còn tôi, tôi có việc.”
Liên nói: “Tôi muốn hôn ba một cái” và giơ tay lên quàng lấy cổ bố trước khi chúng tôi có thể ngăn cản. Cô bé khốn nạn hiểu ngay và kêu lên:
“Ba chết rồi. Hy, Hy, ba chết rồi!”
Và cả hai đứa trẻ cùng kêu khóc thảm thiết. Tôi cũng khóc ầm ỹ theo chúng. Nhưng bác Dọi bảo có một người đã hiển thánh sống trên thiên đường, việc gì mà chúng tôi phải kêu rống lên như thế. Bác ta bảo tôi đi ra Diên-mễ-Tôn
[9] tìm bác sĩ và mục sư. Tôi không hiểu hai người đó giúp được gì, tuy nhiên tôi vẫn lặn lội nửa giờ đi đem ông đốc tờ về, còn ông mục sư thì nội sáng ngày hôm sau sẽ đến... Để mặc bác Dọi giảng giải, tôi chạy lên buồng hai đứa bé. Cửa buồng chúng hé mở, tôi thấy chúng chưa đi ngủ, mặc dù lúc đó đã quá nửa đêm; nhưng chúng đã bình tĩnh, tôi không cần an ủi. Hai đứa nhỏ tự an ủi lẫn nhau bằng những câu mà tôi không thể nào nghĩ ra. Không có một mục sư nào có thể tả cảnh thiên đường đẹp hơn là chúng tả trong khi chúng ngây thơ thỏ thẻ cùng nhau. Trong lúc tôi vừa thổn thức vừa nghe chúng nói chuyện, lòng tôi không thể nào không ao ước rằng chúng tôi... tất cả chúng tôi... sẽ được xum họp yên lành ở trên đó.
Chương VI Hạnh trở về để đưa đám và trở về với một người vợ khiến chúng tôi kinh ngạc, và người chung quanh vùng bàn tán. Bà vợ là ai, quê quán ở đâu, không bao giờ Hạnh cho chúng tôi hay. Chắc bà ta không có của hồi môn, không phải là con nhà gia thế vì vậy Hạnh phải giấu cuộc hôn nhân ấy, không cho cha biết...
Sau ba năm vắng nhà, Hạnh thay đổi rất nhiều, người gầy đi, kém hồng hào, lời nói và cách ăn mặc khác hẳn trước. Ngay hôm mới về, cậu ấy ra lệnh bắt bác Dọi và tôi từ nay phải ở luôn trong bếp và căn phòng lớn cho cậu dùng. Còn mợ Hạnh tỏ ý thích muốn làm chị làm em với người trong họ chồng; lúc đầu mợ ta chuyện trò thân mật với Liên, hôn hít Liên, đi chơi khắp nơi với em chồng và mua cho rất nhiều quà bánh. Nhưng về sau, sự thân yêu ấy nhạt dần và khi mợ ta trở nên cau có thì Hạnh trở thành độc đoán. Chỉ một vài câu mợ nói tỏ ý không ưa Hy cũng đủ làm nổi dậy trong lòng Hạnh tất cả mối thù hận xưa. Hạnh bắt Hy sống với bọn tôi tớ, không cho đi học nữa, bắt làm lụng ở ngoài đồng và cũng làm vất vả như một tên thợ cầy.
Lúc đầu Hy cũng chịu đựng được sự khổ nhục ấy, vì Liên học được đến đâu thì dậy lại Hy, cùng Hy làm việc và chơi đùa ở ngoài đồng. Cả hai đứa thực tình hứa hẹn với nhau sẽ cố trở thành thô bạo như lũ mán mọi; Hạnh không ngó ngàng gì đến cách ăn ở của hai đứa trẻ và mọi việc chúng làm, miễn là chàng không gặp mặt chúng. Hạnh cũng chẳng cần biết tới việc chúng có đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật không, nếu không có lời bác Dọi và ông mục sư trách móc về sự vắng mặt của Hy và Liên; thế là Hạnh bảo đem Hy đi đánh đòn và phạt Liên nhịn cơm trưa hay chiều. Nhưng hai đứa không lấy gì làm thích hơn là cùng nhau chạy trốn vào rừng cỏ, từ sáng sớm và ở đấy suốt ngay; sự trừng phạt chắc sẽ có nhưng chúng chỉ coi đó là một thứ để đùa giễu. Ông mục sư muốn bắt Liên học thuộc lòng bao nhiên chương sách đó là tùy ý ông, bác Dọi muốn cầm roi vụt Hy cho đến khi tê dại cả cánh tay, đó là tùy ý bác ta; hễ Hy và Liên gặp nhau là chúng quên hết mọi sự, nhất là khi chúng mưu mô được một cách trả thù ranh quái. Nhiều lần tôi đã phải khóc thầm thấy hai đứa trẻ ngày một trâng tráo quá, nhưng tôi không dám ngỏ một lời nào hết sợ mất hết một chút oai quyền còn lại đối với hai đứa trẻ thiếu thốn thương yêu ấy.
Một buổi chiều chủ nhật, chúng bị đuổi ra khỏi buồng vì làm rầm rĩ hay vì một lỗi nhỏ gì đấy. Khi tôi đi gọi chúng về ăn cơm thì tìm hết nơi cũng không thấy chúng đâu cả. Sau cùng Hạnh cáu tiết ra lệnh đóng hết các cửa và cấm bất kỳ ai cho chúng vào nhà đêm nay. Mọi người đã đi ngủ. Riêng tôi, vì lo lắng không sao ngủ được, tôi mở cửa sổ, thò đầu ra ngoài nghe ngóng, mặc dầu lúc đó trời mưa: nếu chúng về, tôi nhất quyết sẽ mở cửa cho chúng bất chấp lệnh cấm. Sau một lúc lâu có tiếng chân đi trên đường và có ánh sáng một ngọn đèn lấp loáng sau hàng rào ngăn. Tôi choàng khăn, chạy vội ra sợ chúng gõ cửa làm Hạnh tỉnh giấc. Chỉ có Hy về, tôi giựt mình:
“Còn Liên đâu? Không xẩy ra tai nạn gì chứ?”
“Ở Họa Mi Trang; còn tôi, tôi cũng ngủ lại đấy, nếu họ có đôi chút lễ độ mời tôi ở lại.
“Thế cậu làm gì ở Họa Mi Trang?”
“Để tôi thay quần áo ướt rồi tôi sẽ kể hết vú nghe.”
Tôi bảo Hy cẩn thận đừng làm Hạnh thức giấc và trong lúc thay quần áo Hy nói tiếp:
“Chúng tôi trốn khỏi nhà giặt để chạy rông cho thỏa thích. Thấy có ánh sáng ở Họa Mi Trang, chúng tôi nẩy ra ý kiến đến xem hai đứa bé nhà họ Tôn chiều chủ nhật có ngồi rét run ở một só không, trong khi bố mẹ ăn no, uống say cười hát cạnh lò sưởi; hoặc xem chúng có bị bắt đọc sách thuyết giáo, bị một tên đầy tớ già giảng đạo hoặc bị phạt học thuộc lòng cả một cột tên trong Thánh Kinh nếu chúng trả lời sai.
Chắc là không rồi. Vì đó là những đứa trẻ ngoan; người ta không bao giờ đối đãi chúng như đối đãi hai cô cậu xấu tính xấu nết nhà này.
Thôi đi vú. Đừng giảng đạo đức nữa. Láo, láo tuốt. Chúng tôi chạy một mạch từ Đỉnh Gió Hú đến Họa Mi Trang… Liên bị tôi bỏ xa vì nó chạy chân không. Chúng tôi chui qua một lỗ hổng ở hàng rào, lần mò theo con đường nhỏ, rồi leo lên một cái bồn hoa nhìn qua cửa sổ vào trong... thật là tuyệt: một gian phòng sang trọng có thảm đỏ, bàn ghế đều phủ nhung đỏ, trần nhà trắng toát viền kim nhũ và ở ngay giữa, các ngọn nến chiếu sáng long lanh một chùm mảnh thủy tinh treo bằng những sợi giây bạc. Ông bà Tôn không có đấy, chắc là hai đứa trẻ sung sướng như tiên. Chúng tôi thì tưởng mình đã lên tiên rồi! Thế mà, vú có biết hai đứa bé ngoan của vú làm gì không? Con Sa
[10] nó độ mười một tuổi nghĩa là kém Liên một tuổi - con Sa nằm lăn xuống nền nhà, kêu la như đương bị lũ quỷ sứ tùng sẻo, thằng Kha
[11] thì ngồi ở cạnh lò sưởi khóc ri rỉ. Ở giữa bàn có một con chó con chân run rẩy, kêu ăng ẳng. Thấy đứa nọ đổ lỗi cho đứa kia, chúng tôi hiểu ngay là hai đứa đã suýt kéo đứt đôi con chó! Đấy vú xem chúng nó nghịch như thế đấy. Đánh nhau chí chết, tranh nhau một con chó, rồi sau lại hờn khóc vì cả hai đều không ai muốn lấy con chó nữa. Thấy hai đứa trẻ hư thân mất nết ấy, chúng tôi cười vỡ bụng; thực là lũ đáng khinh. Vú xem, có bao giờ vú thấy tôi đòi một thứ gì mà Liên thích không, có bao giờ vú thấy hai chúng tôi một mình với nhau mà người thì khóc nức nở, người thì nằm lăn ra đất, mỗi người ở một phía buồng không? Ở đời không có thứ gì có thể khiến tôi đổi địa vị tôi lấy địa vị thằng Kha ở Họa-Mi Trang. Tôi không bao giờ làm thế cho dẫu người ta cho tôi cái quyền ném lão già Dọi từ đỉnh nóc nhà cao nhất hoặc sơn cái cửa nhà này bằng máu của thằng Hạnh.”
Tôi ngắt lời:
‘Im miệng ngay! Cậu Hy, cậu vẫn chưa kể cho tôi nghe vì sao cậu về để cô ấy ở lại.’
Tôi đã bảo vú là chúng tôi cười nôn ruột. Hai đứa nhà họ Tôn nghe thấy, cùng một loạt chạy vụt ra cửa nhanh như tên bắn. Im lặng một lúc rồi chúng cùng kêu: “Mợ ơi mợ! Cậu ơi! Mợ ơi mợ vào mau. Cậu ơi!” Chúng tôi lại đập cửa thình thình để làm chúng sợ hơn; sau nghe có tiếng người kéo then cổng chúng tôi thấy là nên chuồn ngay. Tôi cầm tay Liên, kéo đi, bỗng nhiên Liên ngã xuống đất. Liên thầm thì bảo tôi: ‘Anh Hy, anh trốn đi, trốn đi ngay! Em đã bị con chó chúng nó thả ra...’ Con chó quỷ đã ngoạm vào mắt cá chân Liên, vú ạ. Liên không kêu một tiếng nào, nó cho kêu là xấu hổ; cho dẫu là bị một con bò điên húc thủng bụng, nó cũng chẳng kêu. Nhưng tôi, tôi kêu rầm lên, tôi nguyền rủa độc địa để diệt trừ mọi yêu quái ở trên đời. Vớ lấy một hòn đá, tôi tọng vào giữa hàm răng con chó rồi ráng lấy hết sức ấn hòn đá vào trong cổ họng nó. Sau cùng một thằng đầy tớ chạy ra tay cầm một cái đèn lồng bảo con chó cứ “ngoạm chắc lấy”, nhưng khi thấy chó mình cắn một cô bé gái, hắn đổi giọng và bảo chó nhả ra. Hắn đỡ Liên dậy, Liên tỏ vẻ khó chịu, không phải vì sợ - tôi chắc thế - mà vì đau. Hắn mang Liên vào trong nhà. Ông Tôn đứng ở cửa, hỏi:
‘Con chó bắt được cái gì?’
‘Thưa cậu nó bắt được một con bé.’
Người đầy tớ trả lời như vậy rồi giơ quả đấm vào mặt tôi, nói tiếp:
‘Còn thằng này có vẻ là một tên dẫn đường. Chắc là bọn cướp định cho hai đứa này trèo qua cửa sổ rồi mở cửa cho bọn cướp vào giết sạch cả nhà. Ông Tôn, xin ông đừng rời cây súng ra.’
Ông Tôn nói:
‘Bọn bợm này biết hôm nay là ngày thu tiền nhà, chúng định làm một mẻ.’
Rồi quay lại phía bà Tôn:
‘Này mình xem. Đừng sợ, nó chỉ là một đứa bé nhưng trông gian ra mặt.’
Ông Tôn đẩy tôi ra đứng dưới ánh sáng đèn sáng treo trên trần. Bà Tôn lấy kính đeo rồi giơ hai tay lên tỏ vẻ ghê tởm. Hai đứa trẻ rút rát cũng mon men lại gần. Con Sa nói: “Người gì mà ghê thế này. Nhốt nó xuống hầm rượu, cậu ạ. Nó giống hệt đứa con trai mụ thầy bói nó ăn cắp con chim da-da nuôi của con.”
Trong lúc họ ngắm xét tôi thì Liên vào; nghe thấy mấy câu nói sau cùng nó bật lên cười. Thằng Kha sau khi nhìn Liên soi mói, nhận ra ngay, và nói tiếng rất nhỏ với bà Tôn:
‘Liên đấy, mợ ạ. Yên Liên ấy mà. Mợ xem con vện nó cắn... chân ra bao nhiêu là máu.’
Bà Tôn cất tiếng nói to:
‘Yên Liên à? Con Liên đi cầu bơ cầu bất với một thằng vô loại. Sao lạ lùng thế? Ừ mà thật, nó ăn mặc tang phục, đích Liên rồi... khổ con bé có thể què suốt đời.’
Ông Tôn quay về phía Liên, kêu lên:
‘Cậu Hạnh không săn sóc gì đến em gái cả. Tôi thấy ông mục sư nói cậu Hạnh để em gái sao lãng cả việc đi nhà thờ. Thế còn thằng bé kia, ở đâu ra? à, à, thôi đích thị là thằng con nuôi mà ông Yên đã nhặt được hồi ông đi Li-vơ-pun...một thằng nhãi Ấn Độ, một đứa ở Y-pha-nho hay ở Mỹ lạc loài đến.’
Bà Tôn điểm thêm:
‘Dầu sao cũng là một đứa bé hung tợn, không đáng được ở trong một gia đình lương thiện. Ông có để ý đến cách nó ăn nói không? Thế mà mình để các con mình nghe nó nói, có chết người không?’
Tôi lại bắt đầu văng tục, vú ạ. Vú đừng giận nhé! Lũ đầy tớ được lệnh tống cổ tôi ra ngoài. Tôi kháng cự, không chịu đi một mình để Liên ở lại đó. Lão kéo tôi ra vườn, bảo tôi cầm cây đèn lồng, ra lệnh bảo tôi đi, rồi đóng cửa lại. Nhưng màn treo vẫn còn hé mở, tôi đứng nhìn vào; nếu Liên muốn về mà bọn họ không cho về thì tôi sẽ đập tan cửa kính ra làm trăm nghìn mảnh. Liên ngồi im ở ghế nệm dài. Bà Tôn lắc đầu vừa nói những câu mà tôi đoán chắc là những câu nửa khuyên nửa cự gì đó. Liên là con gái nhà gia thế cho nên bọn họ đối đãi với Liên khác hẳn với tôi. Người hầu gái đem vào một thau nước nóng và rửa chân cho Liên. Ông Tôn đi pha một cốc rượu chát, trộn nước chanh đường. Con sa trút cả một đĩa bánh vào lòng Liên, trong khi đó, thằng Kha tự xa nhìn Liên miệng há hốc, rồi họ hong và trải mớ tóc đẹp của Liên, xỏ vào chân Liên một đôi giầy “păng-túp” và đẩy ghế lại gần lò sưởi. Lúc tôi bỏ đi thì Liên vui vẻ hết sức, nó chia bánh cho chó ăn và véo cả mũi con vện đã cắn nó. Liên đã làm cho những con mắt xanh mờ xạm của người nhà họ Tôn long lanh sáng lên một tia sống, và ánh vẻ đẹp thần tiên của Liên đã phản chiếu sang nét mặt họ một phần nào. Tôi thấy bọn họ ngắm Liên ngây dại vì cảm phục. Liên ở một bực trên họ cao lắm... cao xa hơn bất kỳ ai trên trái đất này... có đúng thế không, vú?”
Tôi vừa dọn giường cho Hy ngủ vừa trả lời:
“Việc này còn lôi thôi chán, không như cậu tưởng đâu, cậu thật là bất trị. Rồi cậu Hạnh bắt buộc phải dùng những phương pháp cực đoan để trừng tri cậu.”
Quả nhiên việc này làm cho Hạnh cáu dữ. Hôm sau ông Tôn thân hành đến thăm chúng tôi; ông lên lớp cho cậu chủ chúng tôi một bài về việc quản trị gia đình, khiến Hạnh quyết định sẽ săn sóc cẩn thận mọi việc trong nhà. Hy không bị đòn nữa, nhưng bị cảnh cáo hễ nói với Liên một tiếng là bị đuổi liền. Một mặt thì Lan (nhũ danh của vợ Hạnh) phải kềm chế cô em chồng khi cô này về nhà. Cô vợ Hạnh sẽ dùng khéo léo chứ không dùng sức mạnh, dùng sức mạnh thì không bao giờ có kết quả gì.
[1]Catherine Earnshaw (ỏ Anh nếu lấy chồng thì tên con gái vẫn giữ nhưng tên họ mình đổi ra họ nhà chồng. Liên là tên người con gái này, Tôn Liên là tên khi đã lấy chồng nhà họ Tôn. Còn Hy Liên chỉ là tên hai người ghép lại)
[2]Hindley Earnshaw
[3]Frances
[4]Hồi đó người ta đã phát minh ra điện
[5]Dean
[6]Tức là con gái cũa Yên Liên, Tôn Liên, người đã hiện ra trong giấc mơ của ông Lộc. Ở bên Anh mẹ con trùng tên họ nhau là chuyện thường.
[7]Xem “bản truyền hệ” ở đầu quyển truyện này.
[8]Liverpool, một bến đò lớn ở Anh.
[9]Gimmerton
[10]Isabelle Linton
[11]Edgar Linton