Nhưng một người bạn Trung Hoa của chúng tôi thì có nói để chúng tôi thoáng hiểu rằng tiếng
Sông do tiếng Tàu
Súng mà ta đọc theo Hán Việt là
Dõng mà ra, và Tàu đọc là
Súng. Nhưng chúng tôi kiểm soát lại thì không phải thế. Quan Thoại đọc là
Dõng ra
Dùng. Quảng Đông cũng vậy. Mân Việt đọc là
Yủng. Không có nhóm nào đọc là
Súng hết.
Vả lại
Dõng không hề có nghĩa là
Sông, và xin lấy tự điển
Từ Hải làm bằng: “Suối nào ở dưới đất trào lên là
Dõng”.
Từ Hải lại trích quyển
Nhỉ Nhả, một thứ từ điển tối cổ đời Chu: “
Lạm tuyển xuất tức Dõng” nghĩa là “
Suối chảy mạnh là Dõng”.
Từ Hải lại trích
Hách Dục Hanh: “
Nước: từ đất phun lên là Dõng”. Thế là Puits Artésiens rồi vậy.
Tóm lại,
Dõng không hề có nghĩa là
Sông, cả vào cổ thời, và Trung Hoa cũng không đọc là
Sông bao giờ, và danh từ
Sông là danh từ của ta rặc ròng, gốc Mã Lai Bách Việt, như ta sẽ thấy ở các biểu đối chiếu.
Người Trung Hoa chỉ có 5 danh từ để chỉ
Sông, đó là
Xuyên, Hà, Giang, Thủy và
Phố.
Nên biết rằng vào cổ thời
Hà và
Giang là danh từ riêng đấy, dùng để chỉ sông Hoàng Hà và sông Dương Tử, chỉ có về sau, có lẽ trước đời Tống, hai danh từ đó mới biến thành danh từ để chỉ sông.
Hai danh từ chỉ sông của
Tàu là
Thủy và
Phố.
Đó là tình trạng cổ thời. Ngày nay thì
Hà và
Giang dùng để chỉ sông to, còn
Thủy và
Phố dùng để chỉ sông nhỏ.
Trong
Thủy Kinh Chú thì tác giả là Lệ Đạo Nguyên gọi tất cả sông của nước ta là
Phố.
Không hề thấy sách cổ hay sách kim nào của Tàu gọi sông của ta là
Dõng. Mà sông bên Tàu cũng không có cái nào được gọi là
Dõng.
Như vậy không có lý nào mà khi dạy ta học, họ lại dạy tiếng
Dõng mỗi lần nói đến một con sông lớn hay nhỏ của ta mà họ không khinh rằng nhỏ như cái suối
Dõng của họ. Và xin nhắc lại rằng không có nhóm Trung Hoa nào đọc
Dõng là
Súng cả.
*
Chúng tôi có ám chỉ đến giáo sư ngữ học Lê Ngọc Trụ, và xin trở lại với giáo sư họ Lê.
Giáo sư họ Lê viết sách trước giáo sư Nguyễn Phương đến 10 năm, không có chủ trương chủng tộc nào hết, nhưng giáo sư đã thấy sai rằng hầu hết tiếng Việt đều do Tàu mà ra.
Một thí dụ khả nghi hơn hết là tiếng
Dừa giáo sư họ Lê đã đưa ra một ngữ nguyên động trời nói
Dừa do tiếng Hán Việt
Da mà ra.
Bên Tàu không có cây
Dừa. Nước Việt Nam là quê hương của
Dừa. Thế thì tại sao người Việt Nam lại không có danh từ chỉ loại cây ấy mà lại phải vay mượn của một dân tộc không có cây dừa?
Giáo sư họ Lê đã lầm lẫn vai trò chủ nợ và con nợ, không biết ai vay của ai, nên mới nói như thế cho hàng ngàn danh từ như vậy, và cứ bằng vào sách của giáo sư họ Lê thì khó có ngôn ngữ Việt, vì danh từ Việt sơ đẳng nhứt là
Dừa cũng là của Tàu.
Người Tàu vay mượn cái gì của ai, vào thời nào, ta đều biết được hết một cách chắc chắn. Ở Đông Nam Á chỉ có dân tộc Việt Nam là gọi trái ấy giống Tàu mà thôi. Ta gọi là
Dừa, Quan Thoại gọi là
Dẻ, còn thì các dân khác gọi khác quá xa: Thái:
Brao, Cao Miên:
Đôn, Chàm, Mã Lai:
Nyor. Thế thì họ học của ai, đã rõ rồi, chớ không có có ai học của họ cả. Trái
xoài đời hậu Hán, Tàu gọi là trái Am-ma-la. Đó là tiếng Tamoul tức Nam Ấn (gốc Mã Lai) thật đúng là
Empelam mà hiện nay các nước Mã Lai đều dùng. Mấy trăm năm sau họ mới học thẳng với Bắc Ấn danh từ
Mongga mà họ đọc là
Mang quò (chữ nho đọc là
Mông quả).
Danh từ Thái là
Muang, danh từ Bắc Việt là
Muỗm, đều một gốc
Mangga mà ra, có lẽ Thái Quảng Đông học của Tàu, Giao Chỉ học của Thái Quảng Đông, nhưng danh từ chánh hiệu thì:
Thái không bị đồng hóa: Huài
Cao Miên: Sway
Đàng Trong: Xoài
Tàu viết sử rằng họ học nghề nấu đường với nước Ấn Độ vào đời Đường. Tại sao họ không học với Giao Chỉ lại đi học chi cho xa thế? Mà đường tưởng là Giao Chỉ chưa biết làm đường vào thời đó, Giao Chỉ giáp ranh với Chàm mà Chàm đã biết làm đường nhiều trăm năm trước đó rồi.
Cái gì bảnh họ mới nhận, còn không thì thôi, giống hệt Việt Nam nhận Đông Sơn, nhưng phủ nhận Mã Lai.
Họ viết sử rằng họ học nghề làm đường với nước Ấn Độ vào thế kỷ thứ bảy. Ấy, Ấn Độ là nước văn minh, nên họ thấy sang bắt quàng làm họ, sự thật thì họ học với nước Giao Chỉ.
Chúng tôi bắt được tài liệu hiếm hoi sau đây nó sẽ làm cho các sử gia Tàu cứng họng. Mấy câu này trích dẫn ở quyển
Orien’al Commerce của Villiam Milburn, London, 1925, chương nói riêng về nước Việt Nam: Hàng hóa CHÁNH (của xứ Việt Nam) xuất cảng sang Ấn Độ là ĐƯỜNG. Có ba thứ tất cả:
- Đường phèn, tốt nhứt thế giới và được TRUNG HOA QUÝ NHỨT.
- Đường cát trắng, loại tầm thường, giống như đường Phi Luật Tân.
- Đường đen.
(Đường đen là thứ đường rẻ tiền mà Nam Kỳ gọi là đường ta).
Nước Ấn Độ, cho tới năm ấy mà còn phải nhập cảng đường của Việt Nam thì vào thế kỷ thứ bảy họ không thể đủ khả năng dạy Trung Hoa làm đường.
Vả lại chứng tích sau đây còn mạnh hơn nữa. Nếu họ học với Ấn Độ, họ đã gọi môn ấy bằng tiếng Ấn Độ phiên âm. Nhưng họ gọi bằng tiếng Giao Chỉ. Danh từ Trung Hoa chỉ món đường, ở Kinh đô Tàu là
Thẻl. Còn danh từ Giao Chỉ cổ thời là
Tàng.
Tàng biến thành
Đàng,
Đàng biến thành
Đường.
Tàng là danh từ Mã Lai chung của hai nhóm Thái, Việt, còn Cao Miên cũng thuộc chủng Mã Lai thì lại gọi là gì không biết, họ vay mượn của ai thì chưa truy ra. (Xin xem chương
Làng Cườm sống dậy).
Chàm và Mã Lai thì gọi đường là
Gula.
Thế thì
Thẻl do đâu mà ra, cũng rõ rồi.
*
Nổi danh nhứt về ngữ nguyên (Etymologie) là giáo sư đại học Lê Ngọc Trụ. Giáo sư họ Lê đã tìm ra được nguồn gốc của một số tiếng Việt mà ai cũng ngỡ là thuần Việt, nhưng lại do tiếng Tàu mà ra.
Nhưng giáo sư Lê Ngọc Trụ đã khám phá sự kiện đó bằng cách đối chiếu tiếng Hán Việt và tiếng thuần Việt, thấy hơi giống giống rồi gán ghép, nên có lắm tiếng ông cho là của Tàu một cách sai lầm, như danh từ
Dừa đã cho thấy.
Mãi rồi ông bị ám ảnh về sự hơi giống đó, biến nhận xét riêng rẽ của ông thành một cái luật để tổng quát hóa vấn đề.
Nếu giáo sư kiểm soát cái luật của giáo sư bằng cách đối chiếu giọng đọc của Hoa và Việt, ông sẽ thấy rằng ngữ nguyên của ông không đúng.
Khi nãy chúng tôi có nói rằng giáo sư họ Lê bị vài nhận xét lẻ tẻ vô tình đúng, rồi tổng quát hóa vấn đề một cách sai nguyên tắc khoa học.
Nhưng đọc kỹ tác phẩm của giáo sư họ Lê, ta thấy rằng không phải thế. Cái bộ sử mà giáo sư Lê Ngọc Trụ không hề có viết, giáo sư có âm thầm nghĩ trong bụng, và nghĩ gần như giáo sư Nguyễn Phương, nhưng kém khoa học hơn giáo sư họ Nguyễn nhiều.
Giáo sư họ Nguyễn cho rằng đồng bào của bà Trưng là “Mọi” còn ta đây là người Tàu. Giáo sư họ Lê thì làm cho độc giả rối trí đến muốn điên lên vì họ không còn biết họ là ai nữa hết.
Trong
Chính tả Việt ngữ, trang 229, giáo sư viết:
“Nơi đồng bằng Bắc Việt, tổ tiên ta đụng phải ngọn sóng Nam tiến của người Bách Việt. Phải tranh sống với họ, họ mạnh thế hơn. Họ chinh phục nước ta mấy lượt”.
Thế là, theo câu trên đây, ta không thuộc dòng Bách Việt, mà là dân thổ trước Mélanésien (theo khoa khảo tiền sử thì trước Bách Việt là chủng Mê-la-nê).
Nhưng sao giáo sư lại cứ gọi dân ta là dân Việt, tiếng ta là Việt ngữ? Việt chỉ là kẻ xâm lăng thôi chớ?
Quan niệm riêng của giáo sư, trong trường hợp này thật là làm ta choáng váng, còn choáng váng hơn cả quan niệm của giáo sư Nguyễn Phương đã cho ta là Tàu thuần chủng.
Theo ông Lê thì ta, Nguyễn Văn Hai, Trần Văn Ba, hiện nay là ai? Thật không sao biết được. Nếu ta là Bách Việt, sao ông lại nói:
Ta bị Bách Việt chinh phục? Còn ta là thổ trước Mélanésien, sao ông gọi tiếng ta là Việt ngữ, mà không gọi là Mélanésien ngữ?
Ta không còn biết ta là ai nữa, đó là một tâm trạng khó chịu như kẻ mắc bịnh kiên vong quên mình là ai, mặc dầu vẫn còn sáng suốt, hiểu biết mọi việc trên đời.
Nhưng Bách Việt là ai mới được chớ? Cũng trong câu trên giáo sư giải thích rằng Bách Việt là người Tàu phương Nam. Giải thích như vậy là đúng 70 phần trăm. Nhưng chúng ta cũng là Bách Việt nhưng may mắn hơn không bị đồng hóa như Quảng Đông, chỉ có thế thôi, sao giáo sư lại nói chúng ta bị Bách Việt chinh phục? Chính bọn Hoa Bắc đã chinh phục Bách Việt Hoa Nam ấy chớ, bọn Bách Việt ở Hoa Nam, thuở đó chỉ mới bị trị trước ta có hơn trăm năm, đâu có đi chinh phục ta được bằng quân sự và văn hóa. Thuở đó họ chưa thành Tàu và còn nguyên là Bách Việt, mà là Bách Việt đang bị trị, bị nô lệ hóa, sao lại đi chinh phục ta được? Có lẽ vì hiểu lịch sử như vậy, ta là Mélanésien, Quảng Đông mới đích thật là Bách Việt và nhận thấy khi tiếng Hán Việt và thuần Việt hơi hơi giống nhau, giáo sư mới cho tiếng ta có họ với tiếng Tàu, vì Tàu là Bách Việt Hoa Nam, giáo sư không kể Tàu chánh gốc, nhưng chính Tàu đó mới là đáng kể và ta có là họ hay không là nên nhắm vào Tàu đó.
Theo ý giáo sư họ Lê thì chính Quảng Đông hoặc Mân Việt mới là Bách Việt và mới là kẻ đi chinh phục ta. Quả quân đội của Mã Viện có lấy thêm người ở Quảng Đông, nhưng đó là người Hoa Bắc do Tần Thỉ Hoàng đưa xuống để trồng người không hơn một trăm năm.
Nhưng nếu họ là người Thái Tây Âu đi nữa, họ cũng chỉ là quân bổ sung. Quân chánh quy chủ lực là Hoa Bắc, và nhứt là tất cả cán bộ quân sự, văn hóa đều là Hoa Bắc, bằng chứng rõ ràng là các nhà giáo dục nổi danh: Tích Quang, Nhậm Diên, Sĩ Nhiếp đều là người Hoa Bắc. Chính họ mới đưa văn hóa vào xứ ta, chớ Tây Âu học chưa thuộc bài, làm thế nào để đặt ảnh hưởng vào xứ ta được?
Nhưng nếu Mã Viện, Tích Quang, Sĩ Nhiếp và toàn thể đạo quân viễn chinh đều là Bách Việt như giáo sư họ Lê nói, thì như vậy Bách Việt là quân xâm lăng, còn ta, cứ là dân thổ trước chịu ảnh hưởng của Bắc Việt, chớ không thể nào ta lại là Việt và quyển sách của giáo sư cần đổi tên lại là Chính tả Mê-la-nê ngữ mới đúng.
Nhưng nếu thế thì lại hơi lạ, vì lẽ rằng cái văn hóa mà ta học là văn hóa Tàu chớ không phải văn hóa Bách Việt.
Phương pháp của giáo sư đã được áp dụng trong
Việt ngữ chánh tả tự vị, và nếu tin theo phương pháp của giáo sư họ Lê thì khó lòng mà có tiếng thuần Việt được và lời khẳng định ngắn của sử gia Nguyễn Phương được củng cố thật mạnh nhờ thuyết của giáo sư Lê Ngọc Trụ, nhờ cả một bộ tự điển của giáo sư họ Lê.
Thỉnh thoảng có gì không biết chúng tôi có tìm giáo sư Lê Ngọc Trụ để học hỏi, thì những trang sách sau đây thật là có vẻ phạm thượng và phản sư lắm.
Nhưng chắc giáo sư không tức giận chúng tôi đâu vì chúng tôi chỉ tìm sự thật chớ không hề chối rằng mình đã có học hỏi nơi giáo sư, đã khâm phục và tôn kính giáo sư.
Hơn nữa chưa chắc gì chúng tôi viết ra ở chương này là đúng, và giáo sư sẽ có dịp bác bỏ và như thế thuyết của giáo sư sẽ được vững chãi thêm, và đó là cái lợi cho nền học thuật của ta. Giá trị của một thuyết chỉ được củng cố mạnh sau nhiều thử thách, nhiều bài bác mà thôi, và hai người đưa ra hai thuyết ngược hẳn nhau, không hề là địch thủ có ác ý muốn chống đối nhau như thế để sự thật lòi ra.
Giáo sư Lê Ngọc Trụ, không hề chủ trương như sử gia Nguyễn Phương bao giờ, mà còn trái lại nữa, ông viết trong bộ luật chánh tả Việt ngữ: “Trót ngàn năm bị cai trị, dân Việt Nam có chịu ảnh hưởng sâu xa của văn hóa Tàu, chớ riêng tiếng Việt thì không vì đó mà bị đồng hóa”.
Câu này thì rất đúng, nhưng lại quá mâu thuẫn với câu trên. Thế thì trong hai câu, phải có một câu sai. Chúng tôi cho rằng câu này đúng thì câu trên hoàn toàn sai.
Giáo sư họ Lê nhận thức đúng lẽ đó, nhưng đáng tiếc thay, khi áp dụng bộ luật của giáo sư để tìm ngữ nguyên thì không hiểu vì lẽ nào mà danh từ nào của ta, giáo sư cũng đều cho là do tiếng Tàu mà ra cả, kể cả những danh từ sơ đẳng nhứt mà một dân tộc bán khai hẳn đã phải có mà không cần vay mượn làm gì nữa hết.
Thí dụ điển hình nhứt là tiếng
Nỏ, sau tiếng đó giáo sư ghi là
Nôm, nhưng lại thêm một cái dấu riêng, giống hình chữ
V nằm. Dấu này ở chương
Phàm Lệ, được giải thích là
“do tiếng Hán mà ra”. Sau cái dấu đó, quả nhiên giáo sư viết chữ
NỖ của Trung Hoa.
Vậy Nôm
Nỏ do
Nỗ của Tàu, và như thế thì đâu còn là Nôm nữa? Lại mâu thuẫn.
Sự thật thì chính Tàu đã học tiếng Nỏ của Mã Lai Việt chớ Nỗ không phải của họ.
Các nhóm Mã Lai Bách Việt đều có danh từ đó, xin kể ra đây, nhưng không phải vì đa số đó mà chúng tôi chủ trương rằng
Ná và
Nỏ là của ta, mà
vì một luật tạo tự dạng Trung Hoa:
Việt Nam: Ná, Nỏ
Cao Miên: Snả
Mạ: Na
Bà Na: Hna
Sơ Đăng: Mnaá
Giarai: Hnaá
Thái: Nả
Mã Lai: Pnả
Người Trung Hoa khi họ bày ra một tự dạng mới, họ theo những cái luật bất di bất dịch, chớ không phải viết càn. Ta thử chiết tự chữ Nỗ của họ xem sao.
Chữ ấy gồm ngữ căn
Cung để tượng hình, tức chỉ
nghĩa, và tiếp vĩ ngữ
Nô (Nô bộc), dùng chỉ giọng đọc (Hài thanh).
Theo luật tạo tự dạng của Trung Hoa thì danh từ đó là danh từ tân tạo chớ không phải là danh từ nguyên thỉ của dân tộc Tàu.
Cung mới là nguyên thỉ vì không có ngữ căn và ngữ phụ gì cả trong
Cung.
Mà tân tạo thì có hai loại:
- Loại hoàn toàn nội lực. Thí dụ chữ Dẫn, gồm ngữ căn Cung để tượng hình và một sổ cũng tượng hình sự giương cung, không có ảnh hưởng ngoại lai vì cả hai yếu tố đều có nghĩa, và đều là chữ Tàu.
- Loại phiên âm ngoại ngữ thì chữ tượng hình thứ nhứt vẫn là Cung nhưng chữ tượng hình thứ nhì được thay bằng chữ hài thanh, hoàn toàn vô nghĩa đối với Trung Hoa nhưng lại chỉ được cái âm ngoại quốc mà họ phải theo.
Có lý nào mà cây Nỗ là một thứ
Cung do
Nô bộc hoặc
Nô lệ sử dụng hay không? Không, không thể nào mà có chuyện như vậy. Nô bộc không phải là chiến sĩ, còn nô lệ có thể là chiến sĩ, nhưng không sao mà được phép sử dụng một loại khí giới quá lợi hại (của thời đó).
Vậy
Nô hoàn toàn vô nghĩa, và chỉ để phiên âm giọng đọc của chủ nhơn môn võ khí ấy mà thôi, và Nà, Nỏ của ta không bao giờ do
Nỗ của Tàu mà ra, mà trái lại chính Tàu đã vay mượn của Mã Lai Việt cả món vũ khí lẫn cái tên.
Lộ trình vay mượn có thể được hồi phục như sau đây. Sự vay mượn xảy ra khi dân Trung Hoa di cư vào đất Kinh của chủng Việt, họ vay mượn cả vật dụng lẫn lối đọc tên vật ấy.
Pnả biến thành
Nỗ. Riêng các nhóm Mã Lai Bách Việt thì cứ tiếp tục dùng
Na, Ná, Phả, Hná, Nỏ của họ. Người Tàu viết chữ, ta đọc sai là
Nỗ, chớ Quan Thoại thì đọc là
Nũa.
Chữ
Noa cũng viết theo lối đó, nhưng với chữ
Tử. Nhưng chữ
Noa thì có nghĩa hẳn hòi vì phụ hệ Trung Hoa xem vợ con như tôi tớ, về mặt tinh thần.
Nô + Tử là chữ tân tạo có nghĩa hẳn hòi, chí như
Nô + Cung thì chắc chắn là chữ phiên âm không còn ngờ gì nữa, cũng như chữ
Phật chỉ là chữ phiên âm mà thôi:
Nhơn + Phất.
Nhưng ta cũng cố tìm xem coi Trung Hoa cổ thời có vũ khí Nỗ hay không? Tài liệu tìm được ở trong một quyển sách thuộc loại rất cổ của họ, đó là quyển
Chu Lễ. Chu Lễ tả cây
Nỗ khá tỉ mỉ, nhưng ta đừng nên thấy
Chu Lễ có tả cây
Nỗ mà vội kết luận rằng Tàu đã phát minh ra Nỗ.
Trung Hoa đã tiếp xúc với Việt ở Kinh Man từ đời nhà Hạ, mà Chu Lễ thì hơn một ngàn năm sau mới được soạn thảo. Đến cuối đời Tần, Tàu vẫn còn
kém về Nỗ. Có phải chăng là Triệu Đà đã rất sợ Nỗ của An Dương Vương? Câu chuyện Nỏ thần có hoang đường bao nhiêu, cũng còn lại cái vũ khí rất lợi hại của Bách Việt mà Tàu rất kinh sợ.
Tàu học của Việt ở đất Kinh Man rất nhiều, nhưng ít ai chú ý đến. Trường hợp
Nỏ và
Nỗ nhắc ta nhiều danh từ khác. Thí dụ danh từ
Đỗ của ta mà ai cũng bảo là do Hán Việt
Đậu mà ra. Không có bằng chứng nào như thế hết mà còn có bằng chứng trái lại:
Việt Nam: Đỗ
Bà Na: Tở
Giarai Pleiku: Tả
Giarai thuần Mã Lai nhứt ở Đông Nam Á, thuần hơn cả Chàm và Java nữa.
Trong trường hợp này, y như trong trường hợp trước, ta nói được rằng Cổ Mã Lai cho vay, Trung Hoa là con nợ.
Chiết tự chữ
Đậu, ta cũng thấy có sự lạ kỳ. Ngữ căn trong chữ đó chỉ là bộ
Thảo đầu, còn phần dưới không dính dáng gì tới một món ăn nào hết, mà lại tượng hình một dụng cụ thờ phượng mà Pháp gọi là
Compotier, Tàu dùng đựng trái để cúng trên bàn thờ mà họ gọi là cái
Đậu (món đó Hán Việt và Hoa ngữ, đều đọc là
Đậu). Thành thử cái phần tưởng là chánh yếu, lại chỉ để tượng thanh mà thôi, chính cái bộ
Thảo đầu mới là chỉ thực vật mà chỉ như thế là chỉ tổng quát, không có nghĩa gì hết. Đó là một tự dạng vô nghĩa, kể cả phần tượng thanh lẫn tượng hình thì nó chỉ có thể là một chữ phiên âm mà thôi.
Ráp nối liên hệ họ hàng đã khó, mà đặt cho thật đúng địa vị kẻ vay mượn và chủ nợ, còn khó hơn khi ta không đi sâu vào vấn đề.
Đã bảo dân Cổ Mã Lai làm chủ đất Trung Hoa trước người Tàu thì người Tàu chắc chắn phải có vay mượn của Cổ Mã Lai trước khi đồng hóa họ hoặc đuổi họ thiên di, và chúng tôi đã ám chỉ đến những vay mượn của Tàu đối với Việt, trong
Sở từ.
Trong quyển
Études des phnènes Vietnamiens, bác sĩ Reynaud lại xác nhận sự kiện đó. Và đây là thí dụ của ông: Chữ
Bạn của ta, ai cũng cho là
Bạn hoặc
Bằng của Hán Việt mà ra, nhưng bác sĩ Reynaud lại bảo rằng ngữ căn
M'Bang của Mã Lai tràn ngập Đông Nam Á và có nghĩa là
Bầy, Bạn, Nhóm, và bằng chứng sơ sơ là:
Việt Nam: Bạn
Mường: Ban
Khả văn minh: Bơn
Giarai: Baan
Ban: Baan
Cao Miên: Bôn, Pốut
Mã Lai: Bang
Mà đừng tưởng là Giarai, Bà Na, Cao Miên đã học với ta hay với Tàu vì Giarai chỉ chịu ảnh hưởng của Chàm tức Mã Lai còn cho tới ngày nay. Bà Na vẫn chưa hề thấy mặt Trung Hoa, còn ta thì cũng mới đến xứ họ sau đầu thế kỷ XX mà danh từ đó họ đã có hàng ngàn năm rồi.
Danh từ
Ván của ta, ai cũng cho là do
Bản của Hán Việt, nhưng bác sĩ Reynaud cũng nói là do P’pan của Mã Lai.
Thoạt tiên chúng tôi không thể tin bác sĩ Reynaud cũng như đã không tin giáo sư Lê Ngọc Trụ. Nhưng một tài liệu khác lại cho chúng tôi thấy rằng bác sĩ Reynaud nói đúng.
Cách đây 300 năm dân ta không nói
Cửa mà nói
Pan do P’Pan của Mã Lai mà ra, không phải Pan biến ngay thành
Cửa đâu mà nó được ta đọc ra là
Ván hiểu là
Ván, rồi lại
đồng hóa Ván với một món đồ (Cái cửa).
Đây là bằng chứng:
Năm 1792, một du khách Ăng Lê có viếng Việt Nam (miền Trung) có chép du
ký Voyage à la Cochinchine. Quyển du ký này đã được dịch ra tiếng Pháp. Trong ấy tác giả có dành một chương cho ngôn ngữ Việt. (Con chó, thấy được ghi là
Con Koo, y hệt như nơi người Thượng hay người Mường ngày nay).
Nhưng danh từ quan trọng hơn hết là danh từ
Cửa, thấy ghi là
Pan.
Người phê bình sách đó, bà Martine Piat cho rằng tác giả chép sai, hoặc chép theo lời phu bến tàu ở Tourane vốn là người Tàu, hoặc nhà in đã in sai. Nhưng không. Tác giả đã chép đúng. Người Tàu không bao giờ gọi Cửa là Pan hết. Hiện nay, cái
Cửa, người Thượng Bà Na gọi là
Mbang, người Kơlua gọi là
Mbơng, người Mang Buk gọi là
Mbong, và người Mã Lai gọi tấm ván là
Pan.
Ván và
Cửa là hai thứ đi đôi với nhau, biến nghĩa qua lại với nhau.
Không phải
Pan biến thành
Cửa như đã nói mà nó biến ra
Pan, Bơng, Bong, Ván rồi bị đồng hóa với một món đồ là
Cửa. Danh từ
Cửa chắc chắn chỉ xuất hiện sau năm 1792, tức chỉ mới đây thôi, và cũng chắc chắn không phải do
Hộ mà giáo sư Lê Ngọc Trụ đã viết.
Chúng tôi đối chiếu
Cửa và
Môn để phủ nhận nguồn gốc Trung Hoa của tiếng
Cửa, nhưng ông Lê Ngọc Trụ cho rằng
Cửa do
Hộ mà ra. Để xem coi các thứ giọng Trung Hoa có giọng nào đọc
Hộ giống
Cửa hay không.
Quan Thoại đọc
Hầu
Việt Nam Hải đọc
Hẩu
Mân Việt đọc
Hú
Hộ cũng không may mắn gì hơn
Môn.
Sự thật thì
Cửa là tiếng Mã Lai
Kưala. Danh từ đó không chỉ
Cửa của cái mà được định nghĩa như sau: Kưala là tên chỉ những nơi sông đổ ra biển, hoặc đổ vào một con sông khác.
Cửa sông họ nói là
Kưala Sôngai, mà cửa sông danh tiếng khắp thế giới là
Kưala Lumpur được dùng làm thủ đô cho nước Mã Lai Á.
Tất cả các sông của họ đều được gọi là
Kưala và tất cả các cửa sông của Việt Nam đều được gọi là
Cửa, trái hẳn với Tàu mà các nơi đó luôn luôn được gọi là
Khẩu.
Còn cái cửa thì họ gọi là
Pan, đúng nghĩa là tấm ván. Giáo sư họ Lê lại cũng nói
Ván do
Bản của Tàu mà ra, nhưng ta là Mã Lai thì nó phải do
Pan của Mã Lai.
Mà đừng tưởng là Mã Lai đã học của Tàu. Mã Lai Nam Dương là
Mã Lai thuần chủng tuy từ Hoa Nam di cư, nhưng họ không có chịu ảnh hưởng của Tàu, như khoa khảo tiền sử đã cho thấy.
Còn Mã Lai Hoa Bắc thì lại di cư vào thời mà Trung Hoa chưa biết cưa gỗ để làm ván.
Tóm lại, cả hai thứ Mã Lai đợt I (Lạc bộ Trãi) và Mã Lai đợt II (Lạc bộ Mã) không có ai học Trung Hoa tiếng nào cả trước khi họ chịu ảnh hưởng Tàu từ đầu Tây lịch về sau. Mà những danh từ
Kưala Sôngai và
M'Pan thì Mã Lai đã có từ muốn vạn thuở.
Dân Mã Lai không có danh từ để chỉ cái cửa, nên đồng hóa Pan là Ván với một món đồ là cái cửa.
Dân Việt Nam là Mã Lai nên cũng đã làm y hệt như thế.
Xin nhắc lại một lần nữa là danh từ Kưala của Mã Lai chỉ để gọi
Cửa Sông mà không hề có nghĩa nào khác hơn, và Việt Nam chỉ mới đồng hóa
Kưala để chỉ
Cửa nhà không lâu, bằng chứng là đến năm 1792 mà ta còn gọi
Cửa nhà là cái
Pan.
Có lẽ sự đồng hóa đã xảy ra lâu hơn nữa, nhưng đến năm 1792, ta còn dùng song song cả hai danh từ, danh từ Pan chưa mất hẳn như ngày nay.
Chúng tôi tìm những sách viết trước năm 1792 bằng chữ nôm thì thấy danh từ
Cửa đã xuất hiện rồi, để chỉ cái
Cửa nhà. Như thế thì sự đồng hóa
Kưala (cửa sông) ra
Cửa nhà xảy ra trước khi người du khách Ăng Lê ghi chép. Nhưng người ấy mà ghi chép như thế tức vào năm 1772
Pan vẫn còn được thịnh dụng.
Ở Nghệ An có một giang khẩu tên là
Cửa Lò. Từ hai ngàn năm nay nơi đó không có xí nghiệp nào, công nghệ nào, dựng lò nào cả.
Nhưng nếu chúng tôi nói rằng Cửa Lò là Kưala thì không ai tin. Chúng tôi phải đưa ra một chứng tích không thể chối cãi được. Trong
Việt sử tiêu án Ngô Thì Sĩ gọi nó là
Cô La.
Nếu địa danh
Cửa Lò mà có trước Ngô Thì Sĩ thì sử gia họ Ngô đã dịch ra là
Lô Khẩu, chắc chắn không sai, vì thói quen của nhà nho ta là thế,
Bến Nghé ở Saigon đã được các ông dịch là
Ngưu Tân.
Khi mà một nhà nho Việt Nam không dịch là nhà nho đó có tinh thần trọng thực và Kưala = Cô La = Cửa Lò.
Sử ta lại chép rằng ở phía dưới Cửa Lò ở Nghệ An trong tỉnh Hà tĩnh, có một giang khẩu nay tên là
Cửa Khâu, nhưng xưa tên là Kỳ La.
Hết
Cô la đến
Kỳ la, chung quy cũng chỉ là Kưala mà thôi.
Đối với lịch sử, những biến dạng như thế có thể xem là câu chuyện hôm qua, vì danh từ
Pan của năm 1972 không lâu đời lắm, còn Ngô Thì Sĩ thì cũng không phải cổ nhơn như Lê Văn Hưu.
Đến đời Tây Sơn,
Cửa Thuận An còn được gọi là
Cô la Eo và Tourane còn được gọi là
Cô la Han. Ở đó có một cái tháp Chàm đổ nát, nên Pháp gọi là Tour Han, sau biến thành Tourane.
Chỉ phiền là ta biết Kưala Eo là cái gì còn Kưala Han thì chúng tôi chưa truy ra nghĩa của danh từ Han.
Tất cả các địa danh ở miền Trung mà chưa bị Việt hóa đều là địa danh Mã Lai, vì đó là đất của Chàm, mà Chàm là Mã Lai.
Dấu vết Mã Lai xuống tới Cù My Lagi là hết và ai muốn biết Cù My Lagi là gì xin đón đọc bộ
Tự vựng Mã – Việt mà chúng tôi đang soạn.
Lắm địa danh bị các ông Tây viết dính lại, như Cap Bantangan ở Quảng Ngãi, khiến chính người Chàm cũng điên đầu, không còn biết là gì nữa. Nhưng học xong tiếng Mã Lai, thì ta sẽ hiểu. Đó là
Ba-Ta-Ngan chớ không phải là
Batang-An đâu, lại càng không phải là
Batangan như các ông Tây đã viết, vì các ông ấy mắc bệnh viết dính các danh từ độc âm, y như Việt Nam mắc bịnh viết ngắn những danh từ đa âm.
Fermetur éclair bị ta thâu lại thành
Nút le.
*
Nhưng xuống tới Nam Kỳ thì Kưala biến mất, hóa thành
Piam, một danh từ Mã Lai đợt I, mà người Nam Kỳ biến thành Vàm: Vàm Cỏ, Vàm Lôi Lạp (Piam Soarap).
Có lẽ xưa hơn, các
Piam ở Nam Kỳ cũng được gọi là Kưala, vì người Phù Nam dùng ngôn ngữ của Mã Lai đợt II, tức y như Chàm. Nhưng ảnh hưởng Cao Miên đến thay thế cho Phù Nam, thành thử ta mới nhảy từ
Kưala sang
Piam một cách đột ngột.
Tuy nhiên, thuyền biển ở Nam Kỳ vẫn được tiếp tục gọi là
Ghe Cửa, tức
Gay Kưala, chớ không phải
Ghe Vàm. Ghe Vàm là danh từ rất ít được dùng, và tuyệt đối không được dùng ở Bình Tuy, Biên Hòa và Bà Rịa, vì ba nơi đó còn là đất Chàm mãi tới năm ta di cư vào Nam mặc dầu với giấy phép của vua Cao Miên, vì thuở ấy ở ba nơi đó Cao Miên chỉ làm chủ trên giấy tờ mà thôi, người Chàm còn đông đảo, địa danh chàm cũng được ta giữ nguyên cho tới nay, thí dụ
Cù My Lagi ở Bình Tuy.
Riêng ở Biên Hòa thì toàn là địa danh của người Mạ mà chúng tôi nghi là hậu duệ của Phù Nam.
Tên Đồng Nai, không phải là tên Việt Nam đâu. Đó là tên của Mạ, họ gọi con sông đó là
Đạ Đờng.
Đạ là hình thức đầu tiên sẽ biến thành
Nước trong ngôn ngữ ta, qua
Nác ở Huế và
Đák của người Mường.
Mạ: Đạ
Xi Tiêng: Đá
Bà Na Sơ Đăng, Mường: Đák
Việt Nam Thừa Thiên: Nác
Việt Nam: Nước
Cao Miên: Tứk
Đờng được biến thành
Đồng.
Nhưng cụ Trương Vĩnh Ký lại cho rằng tên cũ của sông Đồng Nai là một tên Cao Miên, cụ có viết ra chữ rõ ràng. Không biết cụ đã thấy điều đó ở đâu, chớ chúng tôi nghe tận tai người
Mạ ở Biên Hòa gọi con sông ấy là ĐẠ ĐỜNG.
Mà đừng tưởng họ bắt chước ta, biến
Đồng thành
Đờng. Có hằng lô, hằng tá địa danh ở Biên Hòa là địa danh của họ mà ta phiên âm, chớ chủ mới bắt chước chủ cũ thì có, không bao giờ chủ cũ bắt chước chủ mới cả.
Nếu biến
Kontum thành
Công Tâm chẳng hạn, người Sơ Đăng ở đó cũng bất kể, cứ gọi nơi ấy là Kontum.
Bằng chứng chủ mới bắt chước chủ cũ còn dấu vết rành rành vì
Nha Trang (chủ mới Việt) chỉ là
EA TRAANG (chủ cũ Chàm) có nghĩa là con sông đầy lau lách, sậy, đê.
(Danh từ
Trang trong Việt ngữ biến thành
Tranh và
Trảng).
Lại bằng chứng ở Hội An. Fai Fô (chủ mới Pháp) chỉ là Hoài. Phố (chủ cũ Việt). Hoài là tên, còn Phố là con sông nhỏ. Con sông nhỏ ở đó xưa kia tên là Hoài Phố.
Vậy sông Đồng Nai, chỉ là sông Đờng mà lưu vực có nhiều nai, chớ không phải là đồng bằng có nhiều nai, như ta hiểu theo ngày nay.
Cũng nên nhắc rằng đất Phù Nam xưa ăn tận ra tới Nha Trang mà Chàm chỉ mới chiếm sau thế kỷ thứ IX còn Cao Miên thì không có bao giờ chiếm được Nam Kỳ cả, theo khám phá mới nhứt của ông Pierre Dupont (B.S.E.I.).
Có rất nhiều người cho trạng từ
Xa của Việt Nam do Hán Việt
Hà mà ra, và quả Quan Thoại đọc
Hà là
Xa. Nhưng thử hỏi đó là trùng hợp ngẫu nhiên hay vay mượn? Trong các nhóm dân gốc Mã Lai, chúng tôi thấy người Cao Miên nói
Xangai có nghĩa là
Xa, mà Cao Miên là Lạc bộ Chuy. Nhưng có thể nào mà Cao Miên cũng học của Quan Thoại như ta hay không? Chúng tôi có bằng chứng là không.
Thí dụ tiếng
Xẻ của Quan Thoại bị ta biến thành
Xe, nhưng Cao Miên biến thành
Te, các âm
X của Quan Thoại đều bị Cao Miên biến thành âm
T. Nhưng
Xangai không bị biến thành
Tangai là làm sao? Chỉ có một lối trả lời độc nhứt là trạng từ
Xa là trạng từ Mã Lai đợt I mà bộ Chuy nói là
Xăngai, còn bộ Trãi nói là
Xa chớ nếu bộ Chuy cũng đã vay mượn thì họ đã nói là
Tangai theo luật biến âm trong ngôn ngữ của họ.
Có những trùng hợp ngẫu nhiên trong ngôn ngữ như thế đó mà chúng tôi đã trình ra quá nhiều rồi, thí dụ
Đua của Mã Lai đợt II và của La Tinh đều có nghĩa là
Hai, và đều đọc y như nhau, nhưng Mã Lai đợt II không bao giờ mà là La Tinh hoặc vay mượn của La Tinh được.
Đôi khi giáo sư Lê Ngọc Trụ cũng có dựa vào H. Maspéro để nhìn nhận rằng có một số tiếng Nôm ta gốc Thái. Thí dụ: Trăng, Cổ, nhưng như thế lại cũng chẳng là Nôm gì hết, tức chẳng là Việt Gốc gì hết mà cứ là gốc của kẻ lạ, không Tàu thì Thái. (Nhưng sự thật thì Trăng là danh từ chung của chủng Mã Lai mà tất cả các dân tộc ở Đông Nam Á đều nói y nhau, kể cả Tây Tạng.
Chúng tôi đã đi xa hơn H. Maspéro mà lên tới tận nguồn là Mã Lai và Tây Tạng, chớ không dừng chơn ở giai đoạn chót như ông H. Maspéro mà giáo sư Lê Ngọc Trụ dựa theo.
Ông H. Maspéro, như chúng tôi đã chứng minh, không hề biết Thái ngày xưa tên là Âu, và Âu và Lạc là hai Chi của chủng Mã Lai. Ông cũng không hề biết rằng chủng Việt đích thị là chủng Mã Lai. Thế nên thay vì chủ trương rằng Thái ngữ và Việt ngữ đồng gốc, ông chủ trương rằng Việt ngữ do Thái ngữ mà ra. Vài ông khác lại cũng chẳng hề biết rằng Cao Miên và Việt đồng gốc, cho rằng Việt ngữ thuộc gia đình Miên ngữ. Các ông Tây sai hết về ngữ học Việt Nam.
Thái và Việt chỉ là hai chi của Mã Lai, chi Thái xưa kia được người Tàu gọi là Âu, chỉ có thế thôi.
Bắt ta làm họ với Thái, với Miên, các ông Tây không hoàn toàn sai, mà chỉ vì các ông chỉ biết có giai đoạn cuối. Dầu sao các ông Tây cũng thấy đúng một chặng đường của lộ trình, còn ông Lê Ngọc Trụ thì lại đi theo lộ trình hoàn toàn khác.
Chúng tôi đối chiếu
Ăn với
Xực và thấy là khác, nhưng giúp Lê Ngọc Trụ nói
Ăn do
Xan mà ra.
Nhưng
Xan không phải là
ăn mà chỉ là
Bữa ăn mà thôi. Động từ
Ăn là của chủng Mã Lai. Họ chia ra ba động từ như sau:
Việt Nam: Ăn
| Việt Nam: Xơi
| Việt Nam: Nhắm
|
Cao Miên: Ănh
| Cao Miên: Xi
| Sa Mường: Lam
|
Mường: Ăn
| Cao Miên: Xi Sa
| Cao Miên: Nham
|
Khả Lá Vàng: Ăn
| Mạ: Saa
| Rađê: Mnam
|
Mã Lai: Mak-An
| A-Ka-Lông: Haa
| Bà Na: Nyơm
|
|
| Khả văn minh: Cha Cổ ngữ Đông Âu (Bắc Phúc Kiến): Lim
|
|
| Giarai: Nyam
|
|
| Mã Lai: Miniom
|
Chú ý: Trong động tác
Nhắm, phần uống quan trọng hơn phần ăn, nhưng
vẫn có ăn. Thế nên Đông Âu (Bắc Phúc Kiến) mới dùng
Lím để chỉ cả ăn lẫn uống và có lẽ động từ
Liếm của Việt Nam cũng cùng gốc đó mà ra vì
Liếm ngoài cái nghĩa Liếm, còn là
ăn như chó ăn, tức cũng bằng cách Liếm và uống.
Chúng tôi đã nói rằng bộ luật ngữ nguyên của giáo sư họ Lê không theo sự đối chiếu giọng đọc Hoa Việt mà chỉ dựa vào sự hơi giống nhau giữa Hoa và Hán Việt.
Ở đây ta lại có thể thêm rằng luật đó không theo luật ngôn ngữ tổng quát.
Quả thật thế, âm
X của Trung Hoa cứ còn nguyên vẹn trong Việt ngữ. Thí dụ: Xé = Xe, Xảo = Xào.
Âm
X không hề biến mất thì tại sao trong
Xan, nó lại biến mất để thành
Ăn?
Nếu theo quan sát ngoài đời và theo luật ngôn ngữ, giáo sư đã chủ trương khác rồi.
Giáo sư cho rằng
Trẻ do
Trĩ mà ra,
ăn do
Xăn, nhưng
Già và
Uống thì theo giáo sư, lại là thuần Việt.
Tại sao một dân tộc có tiếng
Già mà không có tiếng
Trẻ, có tiếng
Uống lại không có tiếng
Ăn?
Còn nói họ bỏ tiếng họ để vay mượn thì sao trong cặp
Già, Trẻ chỉ bỏ
Trẻ mà giữ
Già, còn trong cặp
Ăn, Uống chỉ bỏ
Ăn mà giữ
Uống.
Thật ra Già và Trẻ đều là tiếng Mã Lai.
Việt Nam: Trẻ
Mường: TlẻMã Lai đợt I
Khả Lá Vàng: Plẻ
Việt Nam: Già
Thái: Kà
Mường: Gia
Khả Lá Vàng: K’rà
Mạ: Kra
Bà Na: Kra (Người già)Mã Lai đợt II
Bà Na: Ya (Bà già)
Mã Lai Célèbes: Ya
Các đảo Mã Lai khác: Tu À
Miền Nam có một tỉnh từ
Sằn dã, có nghĩa là
đồng quê, quê mùa giản dị, mộc mạc. Ông Lê Ngọc Trụ viết rằng
Sằn Dã do
Điền Dã biến ra nhưng tại sao trong hai chữ Hán Việt, chỉ có một chữ
Điền là bị biến còn chữ
Dã thì không?
Tự điển Huỳnh Tịnh Của thì nói
Sằn là cây
Tế Tân dùng làm thuốc đau răng. Như vậy nguồn gốc của
Sằn, theo Huỳnh Tịnh Của thì lại còn khác hơn ông Lê Ngọc Trụ nữa.
Thuyết của ông Huỳnh Tịnh Của mới nghe tưởng như là hữu lý hơn bởi ta không tin rằng
Điền biến ra Sằn thì ta cũng phải tin rằng Sằn là Sằn. Nhưng thử hỏi cây
Sằn có phải là tượng trưng cho đồng nội, cho đồng quê của miền Nam hay không?
(Vâng,
sằn dã là từ ngữ riêng do các nhà nho miền Nam đặt ra chớ Trung Hoa và miền Bắc không có).
Ta có thể trả lời không cần suy nghĩ rằng cây Tế tân không bao giờ tượng trưng cho đồng nội miền Nam hay miền Bắc miền Trung gì hết thì các cụ xưa không tạo ra một từ ngữ với loại cây đó.
Sự thật thì tĩnh từ này bị viết sai chính tả. Nó là
Sàn dã, chớ không phải là Sằn dã.
Sàn là chữ nho, có nghĩa là hèn mọn,
Sàn dã là
Đồng nội hèn mọn của tôi, nói theo lối quá khiêm nhượng của Trung Hoa về những gì chỉ mình, chỉ quê hương mình.
Sàn dã là thôn quê hèn mọn của tôi, nghĩa ban đầu là thế.
Ông Lê Ngọc Trụ nói
Làng do Hán Việt
Hương mà ra. Có ai tin nổi
Hương biến âm thành
Làng hay không? Riêng chúng tôi, chúng tôi thấy
Làng do tiếng Mã Lai
T’Lang mà ra, và quyển sách này cốt chứng minh rằng dân ta gốc “Mã Lai” chứng minh bằng nhiều chứng tích chớ không phải chỉ có danh từ
Làng mà thôi đâu.
Tổ tiên ta xưa có tiếng
Lang có nghĩa là
fiel féodal, mà cho đến ngày nay, người Mường còn dùng, họ cũng còn Quan Lang (Chef du fief) y như tổ tiên ta xưa.
Danh từ Mã Lai
T’Lang cũng có nghĩa y hệt như vậy và hiện vẫn còn được người Mã Lai dùng.
Làng của ta gồm nhiều ấp,
Lang của Mường và
T’lang của Mã Lai cũng gồm nhiều ấp. Đó là
thái ấp (fief féodal) bé tí ở Hồ Nam hồi cổ thời của chủng Mã Lai.
Giáo sư viết rằng
Đũa do chữ Hán
Trợ mà ra. Có thể nào mà âm
Tr biến thành
Đ được hay không chớ?
Sự thật thì
Đua thì tiếng Mã Lai mà ta biến thành
Đôi rồi thành
Đũa, vì chính nó có nghĩa là
Hai, là
Cặp. Còn
Đôi đũa thì chính người Mã Lai họ nói là
Đua Đua.
Giáo sư lại nói
Vá áo do Hán Việt
Bổ Y mà ra,
Bể vỡ do Hán Việt
Phá mà ra.
Mổ xẻ do
Phẫu mà ra,
Giống do
Tượng mà ra,
Khéo, Giỏi do
Tài mà ra,
Xuôi do
Lưu mà ra, v.v.
Đọc những tiếng Hán Việt mà ông Lê Ngọc Trụ đưa ra để chứng minh, đọc theo tiếng Tàu giọng Quan Thoại, giọng Man hay giọng Quảng gì, cũng không giống gần hay giống xa tiếng Nôm của ta chút nào.
Ông nói tiếng
Áo do
Y mà ra. Nhưng không hề thấy âm
Y của Hán Việt biến thành âm
Ao của Việt Nam lần nào hết. Sự thật thì ta đã mượn tiếng đó, nhưng
Áo là do
Áo của Tàu, chớ không bao giờ do
Y.
Thấy rõ là giáo sư thấy hơi giống rồi tổng quát hóa thành một cái luật. Còn hễ có vay mượn mà không giống giáo sư lại cho rằng không có vay mượn. Thí dụ giáo sư nói
Tủ là tiếng Việt Nam. Nhưng
Tủ lại đúng là vay mượn của Tàu. Họ đọc là
Tu, bình dân ta nhại gần đúng là
Tủ nhưng các nhà nho ta thì đọc sai quá xa là
Độc, vì một lẽ bí mật đã nói đến rồi ở trường hợp tiếng
Pín được nhà nho đọc là
Tân mà không là
Bến như bình dân.
Rồi cứ cái đà ấy ông viết
Bể vỡ do
Phá mà ra.
Giống do
Tượng.
Tốt mã do
Mỹ,
Vùi lấp do
Bồi,
Cái giùi do
Chuy,
Dễ do
Dị. (Nhưng
Khó thì lại thuần Việt. Ấy, cũng giống trường hợp
Trẻ già và
Ăn uống, trong một cặp, dân Lạc Việt cũng vay mượn có một tiếng mà thôi).
Chùa do
Tự,
Chờ do
Trữ.
Kỵ biến thành
Đám giỗ.
Nhưng
Kỵ Mã lại biến thành
Cỡi ngựa.
Chưa bao giờ thấy âm
K của Tàu biến thành âm
G của ta, nó chỉ có thể biến thành
C như trong
Cỡi mà thôi, nhưng lại không có bằng chứng là ta không biết cỡi ngựa trước khi tiếp xúc với Tàu.
Có ba từ làm cho ta nghi ngờ lắm là
Chèo, Chống và
Chở, mà giáo sư cho rằng do
Trạo, Kháng và
Tải mà ra.
Dân Việt nổi danh vô địch về thủy vận, giỏi hơn Tàu nhiều lắm hồi thượng cổ, thì sao ta phải học ba tiếng đó của Tàu? Mà âm
Kh của Tàu cũng không thấy biến thành âm
Ch của Việt lần nào hết.
Ông viết
Lưu của Tàu biến thành
Xuôi của Việt, lại biến ra
Làu (thuộc làu làu) của Việt. Thế thì một âm
L của Tàu biến thành lu bù âm của ta được hay sao.
Mõm chó theo ông thì do chữ
Vần của Tàu.
Ta không có danh từ
Mõm chó nữa, thì ta không có ngôn ngữ và dân tộc Việt không có, và đúng ta là Tàu như sử gia Nguyễn Phương đã nói. Nhưng bằng chứng ở đâu để cho rằng
Mõm chó do
Vẩn mà ra?
Ông nói rằng
Ngực do
Ức của Tàu mà ra, nhưng người Tàu chỉ cái
Ngực bằng tiếng
Hún, Siung và viết ra chữ thì mới hay đó là chữ
Hung. Không có nhóm Trung Hoa nào mà nói
Ức, Óc, Ích gì hết.
Đã bảo giáo sư không tìm tài liệu trong ngôn ngữ mà dân chúng đang nói, nếu có, giáo sư sẽ thấy rằng không có nhóm Trung Hoa nào nói
Ức hết, mà chỉ nói
Hung thôi, vì cái lẽ giản dị rằng
Ức không phải là
Ngực. Trong tiếng Việt,
Ức chỉ là một điểm nhỏ trên ngực, còn trong Hoa ngữ thì
Ức là
Phía trước ngực, cũng như
Xan là
bữa ăn, chớ không phải là
Ăn.
Chữ
Hung của Tàu có hai nghĩa: Poitrine, Sternum. Còn
Ức chỉ là Thorax mà thôi. Còn trong Việt ngữ thì:
Sternum = Mỏ ác (Bắc)
= Chớn thủy (Nam)
Chớn thủy tương đương với
Ức của Tàu đấy.
Nếu thấy trong sách hai danh từ giống nhau rồi đặt ra mối liên hệ giữa hai danh từ đó thì một người Pháp đã làm rồi, Đại tá H. Fray, nhưng với tánh cách đùa cợt mà thôi:
Con voi (Việt) = Con voi (Pháp)
Nhưng các con voi ngày xưa thì không hợp thành bằng con voi mà bằng con lạc đà.
Trường hợp của
Ngực giống hệt trường hợp của
Mắt và
Nhà. Ai cũng nói hai danh từ
Mắt và
Nhà do Hán Việt
Mục và
Gia mà ra, kể cả giáo sư Lê Ngọc Trụ. Nhưng người Trung Hoa không bao giờ chỉ con mắt bằng tiếng
Mục mà họ chỉ bằng tiếng
Nhãn, và
Gia không hề có nghĩa là cái nhà. Gia hàm ý gia đình. Luôn luôn người Tàu dùng danh từ
Ốc để chỉ món kiến trúc đó.
Người ta nói Nhãn khoa chớ không ai nói Mục khoa. Người ta nói Kiến ốc cục chớ không ai nói Kiến gia cục.
Mắt do Mã Lai Bách Việt
Mata mà ra, còn
Nhà cũng thế.
Việt Nam: Mắt
Mạ: Maht
Mã Lai: Mata
Tây Tạng: Mag
Việt Nam: Nhà
Mường: Nha
Kơ Yong: Nyia
Yêh: Niơ
Khả Lá Vàng: H’Nơm
Sơ Đăng (Kong Bring): Hnhây
Rơn Gao: Hnyê
Mamêt: N’a
Ông Lê nói tiếng
Vạc là cái
Đỉnh do
Hoạch của Tàu mà ra và
Hoạch có nghĩa là cái chảo ba chơn. Nhưng tra tự điển
Từ Hải thì thấy sách ấy nói
Hoạch là cái bồn lớn
không chơn, hoặc cái bình lớn
không chơn, có vẽ hình hẳn hòi.
Trong cổ vật Đông Sơn, dân Lạc Việt có cái nồi ba chơn thì họ có danh từ
Vạc là chuyện dĩ nhiên, không cần bắt họ mượn của Tàu hay của ai cả.
Việc kiểm soát bằng tự điển Tàu khiến ta đâm nghi ngờ ông Lê Ngọc Trụ cố ý lôi kéo liều lĩnh để cho thuyết của ông được thành thuyết với nhiều bằng chứng.
Thật vậy, sau tiếng
Hoạch, ta tra thử vài tiếng khác. Ông viết rằng danh từ
Xương của Việt Nam do
Khang Hán Việt mà ra, và
Khang cũng đọc là
Xang. Nhưng trên thực tế thì không có vùng nào ở Việt Nam mà người ta đọc
Khang là
Xang cả. Xương do đâu mà ra, ta sẽ thấy ở các biểu đối chiếu.
Ông nói
Xảo của Hán Việt cũng đọc là
Khảo để kết luận rằng
Khéo do
Khảo mà ra. Nhưng không có vùng nào đọc
Xảo là
Khảo cả.
Cứ làm như thế mãi rồi thì không còn danh từ nào là thuần Việt được nữa.
Việc bắt tiếng Việt làm bà con với tiếng Hán Việt rất là phiêu lưu mạo hiểm. Có hai tiếng Hán Việt
Thủ và
Đầu.
Thủ, Trung Hoa đọc là
Sầu, Sẩu, Sùi, Đầu họ đọc là
Thủ, Thầu, Tháo.
Mặc dầu sáu lối đọc Trung Hoa về hai tiếng
Hán Việt ấy đều hơi giống tiếng Nôm
Đầu của ta, thế nhưng ai dám chắc
Đầu của ta gốc Trung Hoa hay không? Nhìn vào bản đối chiếu những danh từ chỉ các bộ phận trong thân thể con người dưới đây, ta đâm ngờ. Ta có đủ các danh từ, chỉ trừ cái
Đầu là nghĩa làm sao? Có thế nào ta mê tiếng Tàu mà chỉ mê có tiếng
Đầu, còn tay, chơn, mắt, mũi thì không mê hay chăng?
Thuần Việt |
Hán Việt |
Mân Việt |
Việt Nam Hải |
Quan Thoại |
Tóc |
Phát |
Hoặc |
Fatt
| Fạ
|
Đầu
| Thủ
| Xùi
| Xẩu
| Xầu
|
Đầu
| Tháo
| Thầu
| Thủ
|
|
Cổ
| Cảnh
| Kẹ
| Kẻng
| Chiều
|
Mặt
| Diện
| Mil
| Mil
| Mél
|
Trán
| Ngạch
| Hía
| Ngạc
| Ngớ
|
Mắt
| Nhãn
| Ngán
| Ngạl
| Ièl
|
Mũi
| Tỵ
| Phì
| Pì
| Pi
|
Lỗ mũi
| Tỵ khổng
| Phì khang
| Pì có
| Pi khùng
|
Tai
| Nhỉ
| Hỉ
| Dii
| Ơl
|
Lỗ tai
| Nhỉ khổng
| Hỉ khang
| Dii có
| Ơ khùng
|
Miệng
| Khẩu
| Kháo
| Hẩu
| Khù
|
Môi
| Thần
| Xún
| Xuần
| Xài
|
Râu
| Tu
| Txiu
| Xúa
| Xú
|
Má
| Hạp
| ?
| ?
| ?
|
Răng
| Nha
| Ghế
| Ngà
| Yạ
|
Lưỡi
| Thiệt
| Chíi
| Li
| Xửa
|
Mình
| Thân
| Xink
| Xál
| Xil
|
Ngực
| Hung
| Hênk
| Hún
| Siung
|
Bụng (B ngoài)
| Phúc
| Pậc
| Phục
| Phủ
|
Lưng
| Bối
| Bùê
| Pui
| Pi
|
Tay
| Thủ
| Txiú
| Xẩu
| Xù
|
Chơn
| Cước
| Kha
| Cượk
| Chèo
|
Bắp vế
| Thối
| Thúi
| Pỉ
| Thùi
|
Đầu gối
| Tất
| Xik
| Xách
| Xưa
|
Da
| Bì
| Phuế
| Phì
| Pia
|
Lông
| Mao
| Mó
| Mù
| Mao
|
Khi hai bà Trưng ra lệnh chặt đầu một viên tướng Tàu, thật không rõ bà nói làm sao cho được khi mà dân ta chưa vay mượn được tiếng
Đầu của Tàu.
Theo chúng tôi, sở dĩ
Đầu của ta hơi giống của Tàu, là chỉ vì sự trùng hợp ngẫu nhiên. Và chúng tôi nói thế không có gượng gạo chút nào hết.
Trung Hoa có đại danh từ
Pàpá để con xưng hô với cha (danh từ của họ là
Fùxíl, tức
Phụ thân).
Nhưng Ấn ngữ cũng có tiếng
Pa vừa là danh từ để chỉ cha, vừa là đại danh từ dùng để con xưng hô với cha.
Có ai dám bảo rằng Quan Thoại đã học theo Ấn ngữ hay không? Hoặc Ấn ngữ đã học của Hoa Ngữ?
Hẳn là không. Nhưng mà khi Việt hơi giống Tàu là tức thì bị xem là cóp của Tàu, không có ngoại lệ.
Chúng tôi nói rằng sự gán ghép ấy phiêu lưu mạo hiểm vì càng khám phá, càng thấy mỗi ngày sự sai lạc, mà một thí dụ sau đây rất là điển hình.
Giáo sư họ Lê nói động từ
Đâm do động từ
Châm của Tàu mà ra (trang 57, bản in 1959).
Cho tới nay thì giới khảo cổ Tây lẫn ta đều quan niệm rằng người
Mường là người Cổ Việt bất hợp tác với Trung Hoa, rút lên rừng mà ở. Sự kiện bất hợp tác hẳn phải kéo theo sự kiện không chịu ảnh hưởng. Và quả thật thế, mặc dầu một số người Mường hiếm hoi có học chữ Nho, họ vẫn không chịu ảnh hưởng của Tàu như người Việt ở đồng bằng.
Năm 1962, nhà khảo cổ Lê Văn Lan đã lên xứ Mường Phú Thọ để khảo sát cách sử dụng trống đồng thì ông thấy người Mường ở đó đánh trống y hệt như hình khắc trong trống đồng, tức lấy gậy to mà đâm vào mặt trống, lối đánh kỳ dị ấy khiến thuở nghiên cứu trống, các nhà khảo cổ Âu Châu rất phân vân và nhiều nhà cho rằng đó là giã gạo, chớ ai lại đánh trống lạ lùng như vậy.
Ấy, người Mường gọi động tác đâm gậy vào mặt trống như vậy là
Chàm, mà
Chàm trong ngôn ngữ của họ, có nghĩa là
Đâm của ta. Đánh trống đồng, họ nói là
Chảm thau, tức Đâm trống thau.
Giã gạo theo lối đó, tức giã theo thời cổ, họ gọi là
Chàm ló tức
Đâm lúa,
Chọt lúa của ta, hoặc
Chàm Đuống, tức
Chọt gạo.
Vậy
Đâm mà do
Chàm mà ra, đó là tiếng Lạc Việt thời tiền Mã Viện. Không thể bảo rằng
Chàm cũng chỉ là biến thế của
Châm y như
Đâm bởi người Mường không có chịu ảnh hưởng của Trung Hoa.
Hơn thế danh từ
Chàm của Trung Hoa chỉ có nghĩa là cây kim, sau thêm cái nghĩa dùng kim để chích. Thế thì vật dùng để châm, tương đối nhỏ, nhọn và ngắn (cây kim thời thạch khí bằng đá, nhưng vẫn nhọn, nhỏ và ngắn) còn cái vật mà dân ta dùng để
đâm, để chọt gạo lại dài, mà
không được nhọn, mà công việc thì cũng không phải là
chích.
Người Mường nói
Chàm, và một số lớn các dân tộc Cổ Mã Lai cũng nói tương tự như thế:
Người Sơ Đăng nói
Tam
Người Chàm nói
Tơm
Đâm, Chàm, Tum, Tơm thấy rõ là đồng gốc, mà là gốc cổ Mã Lai, chớ không phải là gốc Tàu
Châm, vì
Châm chỉ một động tác khác mà vật dụng dùng để
Châm cũng khác với vật dụng dùng để
Chàm.
Người ta cứ bị ám ảnh rằng Tàu văn minh ảnh hưởng đến mọi dân tộc mà quên mất sự kiện rằng Tàu đã vay mượn lung tung. Thí dụ ở Đông Dương (chớ không riêng Việt Nam) có danh từ Ô Dước, Hoa Nam gọi là
Oyo. Nhưng Hoa Nam lại không có cây Ô Dước như Đông Dương. Như vậy ai học của ai?
Trong
Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ, có ba danh từ mà dịch giả cho rằng không biết là gì.
Danh từ thứ nhứt là
Am La. Danh từ đó đã được chúng tôi giải thích rồi.
Danh từ thứ nhì là
La Nga, dịch giả biết rằng đó là chiếc bành voi có mui, nhưng cũng không biết do đâu mà ra. Đó cũng là danh từ mà Trung Hoa vay mượn của Phạn ngữ dưới trào đại Ma già đà. Danh từ Phạn ấy là
P’lana.
Danh từ thứ ba thì rất bí. Dân ở Bến Vân Đồn ưa đội nón Tàu. Quan trấn thủ ở đó là Trần Khánh Dư ra lịnh cấm, vì Tàu thường tấn công vào nơi ấy và quân ta sẽ khó phân biệt bạn và thù nên hạ lịnh cho dân phải bỏ nón Tàu, đội nón
Ma lôi.
Dịch giả cũng kêu là không biết nón ấy ra sao.
Nên biết rằng Ngô Thì Sĩ là người sống ngang với trào nhà Thanh, nhưng viết sách, lại dùng danh từ đời Hán mà Trung Hoa đã bỏ hơn một ngàn năm rồi, như danh từ
Am la đã cho thấy.
Như thế danh từ
Ma lôi chắc cũng là danh từ Tàu đời Hán. Dưới đời Hán, Tàu đã biết các đảo Mã Lai rồi.
Cái nón lá nhọn đỉnh của dân ta và của tất cả các dân gốc Mã Lai, được người Mã Lai gọi là
Tărăndắc Malaya.
Có lẽ ông Tàu đời Hán đã phiên âm, nhưng bỏ bớt âm, theo thói quen của họ, trong cái danh từ quá dài đó, họ chỉ giữ lại có hai âm là
Ma Lôi mà thôi, bởi dân Việt ở Bến Vân Đồn thì ngoài nón Tàu ra không thể đội nón nào khác hơn là nón nhọn đỉnh, biệt phẩm của chủng Mã Lai, mà cho đến ngày nay dân ta còn dùng.
(Một điểm khiến ta phải ngạc nhiên là các sử gia ta, bất kỳ sống dưới đời Minh, đời Thanh gì, cũng dùng danh từ đời Hán cả, thí dụ các ông gọi nước Cao Miên là Chân Lạp. Đó là danh từ mà Tàu đã bỏ từ đời Đường. Nhưng các ông Việt cứ tiếp tục dùng mãi. Ông Tàu bỏ rất hữu lý vì ông Cao Miên đã bỏ và đã tự xưng là Kampuchia, nên ông Tàu đời Đường phiên âm là Cam-Bố-Trí, Cam-Phá-Giá, hoặc Giản-Phố-Trại, cớ sao các ông Việt lại cứ dùng danh từ đời Hán thì thật là khó hiểu).
Trung Hoa đã mượn chữ
Phù là cây phù dung để phiên âm
Trầu mà họ không có.
Phù đọc theo Quan Thoại là
Pù hơi giống
Plù mà
Plù là lối đọc có cái tiếng
Trầu của ta mà nay người Mường còn đọc.
Mã Lai Bách Việt chỉ ăn trầu nhiều ở Đông Nam Á mà thôi, còn ở Quảng Đông thì rất ít, vì họ không trồng trầu được. Hơn thế người Quảng Đông ăn trầu, không hề nói rằng họ ăn trầu, mà nói rằng ăn cau:
xực pín loòng (Thực tân lang).
Tại sao họ không nói ăn trầu, mà nói ăn cau? Chỉ vì tại họ không có danh từ Trầu. Nhóm Tây Âu là Quảng Đông, có ăn trầu theo Việt Nam, nhưng cũng chẳng có danh từ đó, vì khí hậu bên ấy lạnh, trầu không mọc được một cách tự nhiên, mà nhập cảng cũng không xong. Nhưng tại sao Tàu vẫn mượn
Phù để phiên âm
Trầu, chi vậy? Chỉ để cho có, vì dân văn minh muốn có tất cả, như Pháp chẳng hạn, họ không hề ăn được trái sầu riêng, không hề dùng danh từ đó, nhưng vẫn phiên âm tiếng Mã Lai
Durian và
Durion, cho có vậy thôi.
Trầu là tiếng Bách Việt chánh gốc Mã Lai, không hề do
Phù của Tàu, mà chính Tàu mượn
Phù của Mã Lai:
Việt Nam Kim: Trầu
Việt Nam Trung Cổ: T’lù (theo sách của các cố đạo)
Mường: Plù
Cao Miên: Pìu hoặc Mìu
Bà Na: Blao
Sơ Đăng: Grao
Mã Lai Célèbes: Blao
Danh từ
Cau của Trung Hoa là
Tân lang thật đáng ngờ là của họ. Họ không có cây trầu cây cau gì hết thì đó chỉ có thể là tiếng phiên âm mà thôi.
Quả thật
Tân lang không có nghĩa gì cả mà tiếng Mã Lai chỉ cây cau lại là
Pin nang mà Quan Thoại đọc
Tân lang là
Pấn lạl. Pin nang = Pấn lạng. Có phải là Tàu phiên âm hay Mã Lai học của Tàu. Đó là trường hợp Dừa và Da. Ở Mã Lai có cau, ở Trung Hoa không có cau.
Đành rằng hiện nay ngôn ngữ ta đầy dẫy danh từ vay mượn của Tàu, không ai muốn chối sự kiện đó, nhưng đó là những tiếng vay mượn về sau để chỉ những vật, những việc, những ý mà trước đời Hán, ta không biết diễn ra. Đời sống thuần nông nghiệp xen lẫn với việc săn bắn, câu kéo của dân Lạc Việt, hẳn là không bị bận rộn về cái xe. Bị nhà Hán trực trị một thời gian, ta mới có xe, nên mới biến xé, xẻ ra xe, nhưng những gì ta có trước đó, ta đã có danh từ để chỉ.
Cho đến những vật lạ ta chỉ mới thấy lần đầu dưới đời Tần, mà lắm cái ta tạo ra tiếng, hay vay mượn ở nơi khác, chớ không vay mượn của Tàu thì đủ biết rằng ta không là Tàu. Chẳng hạn như tiếng
Cừ là
Kinh.
Nhà Tần phát minh việc đào kinh lớn gần như sông, và họ gọi là Cừ (sau này họ gọi là Vận tải hà), nhưng ta không bao giờ dùng cả hai danh từ cũ và mới của họ, mà gọi là
Kinh hoặc
Sông đào mà thôi. Tại sao người Tàu ly khai ở Việt Nam lại dùng danh từ khác người Tàu Quảng Đông, Phúc Kiến, người Sơn Đông? Là tại họ không phải là Tàu.
Nhà bác học ngôn ngữ M. Karlgren, cho biết rằng hồi đầu Tây lịch, Quan Thoại đọc chữ Phật là
But, chớ không có đọc
Fa hay
Fô như ngày nay. Đến thế kỷ thứ VII thì họ biến
BUT ra
Vuel, rồi sau biến
VUET và
FO vào thế kỷ nào, không tìm được dấu vết nữa.
Thế nghĩa là tiếng Quan Thoại ngày nay đã qua nhiều cuộc biến giọng. Nhưng xin đừng dựa vào nhận xét trên đây mà cho rằng tiếng Việt ngày nay đích thị là tiếng Quan Thoại cổ, đã biến dạng đi rồi, thế nên nay ta đối chiếu Việt và Quan Thoại, ta mới thấy khác nhau.
Không, ông M. Karlgren đã tìm được dấu vết của rất nhiều danh từ, động từ bị biến dạng, trong đó chẳng hạn
Xúi, là
Xúi là
Xủi gì đó chớ không bao giờ là
Nức là
Nực là
Nược mà cho rằng tiếng
Nước của ta có thể là Quan Thoại cổ thời.
Ta đã theo dõi Trung Hoa rất sát, hễ họ biến thì ta cũng biến, chớ không phải là nhà quê, học được một lần rồi thôi và tiếp tục nói tiếng Tàu cổ rồi nay lại ngỡ tiếng Tàu cổ đó là tiếng Việt khi đối chiếu với Kim Quan Thoại, thấy là khác, bằng chứng là khi họ biến
But ra
Fo, ta cũng biến
Bụt ra
Phật.
Trường hợp người thời nay nói tiếng xưa vẫn có xảy ra, thí dụ dân Gia Nã Đại nói tiếng Pháp của thế kỷ thứ XVIII, nhưng đó không phải là trường hợp của ta vì ta cứ giữ liên lạc với Trung Hoa hoài hoài.
Những danh từ mà họ biến, ta không buồn biến, cũng được biết. Việt ngữ theo bén gót Quan Thoại, chớ không hề nhà quê, miền này không theo thì miền khác theo.
Chúng tôi xin đơn cử ra thí dụ cái
Moustiquatre. Cái đó Quan Thoại thời Mã Viện gọi là
Wát cháng tức
Mấu trướng, Mấu là con muỗi,
trướng là
bức màn dài. Giao Chỉ dĩ nhiên là không có danh từ
trướng vì họ không biết dùng cái màn dài trước khi Mã Viện đến.
Nhưng ta vay mượn của Tàu Quan Thoại một cách thông minh kinh khủng, ta không nói là
wát cháng mà nói là
wát màn. Màn là gì?
Màn là tiếng Quan Thoại (chữ nho đọc là
Mục) chỉ cái lưới (cương mục).
Quả thật thế. Cái
Monstiquaire, thật ra, đâu có phải là trướng mà đó là năm cái trướng may dính lại, nói giống cái lưới cá (Màn) chớ không có giống cái trướng. Người Tàu hồi đó còn nghèo danh từ.
Có người ngỡ ta mượn tiếng
Mạn là cái
màn ngắn. Nhưng không.
Mạn là
màn ngắn che cửa sổ, họ đọc là
Mó, chỉ có
Mục họ mới đọc là
Màn.
Vậy ta theo Tàu, nhưng theo rất là tài tình, ta gọi cái đó là cái
Văn Màn chớ không gọi là
Văn trướng hay
Văn Mó. Sau vì lười biếng, ta bỏ mất chữ
Văn chỉ còn
Màn.
Nhưng đến nhà Minh thì Tàu đã có danh từ khác, đó là danh từ mà Quan Thoại đọc là
Mung viết một bên
Cân một bên
Mông để thay cho
wát cháng. Ta cũng biết và cũng theo. Ta bắt đầu theo tại Hội An mà nhà Minh bị nhà Thanh đuổi xuống đó. Từ Hội An đến Cà Mau đều gọi cái đó là
Mùng, rồi Mùng lộn ngược lên trên Nghệ An nữa. Tóm lại, ta không có quê một chút xíu nào hết, trong việc vay mượn tiếng Tàu.
(Riêng Bắc Việt thì, vì đã quá quen với
Màn, không sửa đổi như những người chịu ảnh hưởng của Tàu về sau là dân Trung Việt và Nam Việt).
Sự tồn tại của ngôn ngữ Lạc Việt, chứng tỏ rằng dân tộc ấy không bị diệt. Hơn thế, nó còn là yếu tố chủ lực của dân tộc Việt Nam ngày nay, vì lai giống với Chàm hay Thái, hay Cao Miên hay gì cũng cứ là với chủng Mã Lai với nhau cả.
Bây giờ nếu loại bỏ tất cả những danh từ vay mượn của Tàu quá nhiều, dân Việt Nam vẫn cứ trao đổi ý nghĩ với nhau được như thường, chỉ có cái là không diễn được những ý khó về văn hóa, học thuật mà thôi.
Ta không chối đã vay mượn quá nhiều của Tàu, cũng không bị mặc cảm nghèo nàn, nhưng ta phải thấy rằng cái căn bản của ngôn ngữ ta vẫn là Lạc Việt. Mà như vậy tức ta không phải là người Tàu.
Người Trung Hoa có thể tự lập ở đây và tự xưng là Việt Nam, nhưng không bao giờ họ lại nói tiếng Lạc Việt và dùng văn phạm Lạc Việt. Nếu phải vay mượn của Lạc Việt, họ chỉ mượn vài danh từ hiếm hoi mà họ không có, chớ sao lại vay
cái mặt, cái má, cái mũi, lỗ mũi, cái môi, cái miệng, cái răng, cái cổ, cái ngực, cái bụng, cái lưng, chơn, tay, toàn là danh từ mà họ đã có?