Kẻ thuộc bài: Miên Đức Thắng
Tôi biết được Miên Đức Thắng trong một trường hợp khá giản dị. Trong một buổi họp bàn về việc tổ chức một buổi sinh hoạt đặc biệt cho nhóm văn hoá Thái Độ, nhà thơ Nguyễn Đông Ngạc đề nghị mời Miên Đức Thắng tới hát. Một cái tên nghe lạ hoắc – hầu hết anh em chưa ai nghe nói tới và chính tôi cũng chưa bao giờ nghe một bản nhạc nào của người làm nhạc trẻ tuổi này. Một người chú thích thêm rằng có lẽ là “thần đồng Quốc Thắng” ngày xưa cũng không làm “vóc dáng” đương sự rõ ràng thêm.
Khi Thắng tới, tôi bận tiếp tân nên cũng không để ý gì nhiều ngoài tuổi quá trẻ và giọng nói đầy nhiệt tình. Nhưng khi Miên Đức Thắng ôm đàn tiến ra giữa phòng, kê một cái ghế đẩu, gác chân lên và cất tiếng, tôi đang ngồi bệt ở một góc phòng giữa Phạm Duy và Tạ Tỵ, bỗng sững sờ. Tôi tưởng cái anh chàng sinh viên mặt trắng đẹp trai này sẽ hát bài tình ca phổ thông nào đó… Nhưng, đây là những lời ca đầu tôi đã nghe:
Người ta đã dạy tôi hãy thương yêu đồng loại
Người ta đã dạy tôi hãy giữ lấy tình người.
Từ khi tôi biết nói, từ khi tôi biết đi, người ta khuyên anh thế, người ta khuyên tôi rồi.
Nhưng anh ơi người ta, ôi em ơi người ta…
Người ta không như thế, người ta chẳng thương ai
Tôi biết tôi còn có một bộ óc trong tim,
Tôi muốn theo lời đó, lời người khuyên vàng kim
Nhưng anh ơi người ta, ôi em ôi người ta, người ta không như thế, người ta đã quên đi, người ta không như thế người ta chẳng thương gì.
Giọng ca thật thiết tha, đầy nhiệt tình chân thật của một người trẻ lớn lên, khám phá ra rằng người ta đã dạy mình một đằng, rồi làm một nẻo. Một niềm tin đã sụp đổ tan tành. Vũ trụ người lớn đã là một vũ trụ nói láo, lừa dối… Nhưng người trẻ lớn lên, vì “biết tôi còn có một bộ óc trong tim” nên vẫn cứ cố gắng sống và tranh đấu theo những lời “vàng kim” đã được giáo huấn. Thái độ sau cùng thật tội nghiệp vì người trẻ lên tiếng tự hỏi cay đắng:
Hay chính tôi thủ phạm?
Hay các người cố quên?
Đâu đâu tôi cũng thấy,
Các người đã cố quên.
(Bài ca về người)
Sống, hành động tranh đấu theo những lời giáo huấn “vàng kim”, người trẻ tuổi một ngày nào đó chợt khám phá ra một sự thực mà mình không muốn tin: chính mình là người có lỗi, mình là thủ phạm… chỉ vì đã làm theo lời “người”.
Khi bằng tuổi của Thắng, tôi có viết một truyện ngắn nhan đề Những kẻ thuộc bài trong đó tôi trình bày một số người trẻ tuổi họp nhau lại để tranh đấu cho những gì người lớn đã dạy: độc lập, tự do, công bình, bác ái… nhưng rồi sau cùng buổi họp giải tán trong thất vọng chua chát: tất cả đều ý thức nếu tranh đấu như thế, sẽ bị bắt, tra tấn, thủ tiêu, trở thành các “thủ phạm”. Câu chuyện chấm dứt bằng sự suy tư cay đắng của nhân vật chính:
“Du quan sát các bạn, hy vọng tìm một tình cảm mạnh mẽ ở ngoài chàng. Nhưng các bộ mặt đăm chiêu, ngần ngại của các gã thanh niên ngồi xếp chân trên sàn gỗ chỉ biểu lộ một nản chí tập thể rõ ràng. Vi vẫn nói, giọng đều đều như một học sinh đọc bài. Du mệt mỏi. Những kẻ ngồi đây, cả chàng nữa, chỉ là những học sinh đang trả bài cho đời sống. Những học sinh quá thuộc các điều dạy ở học đường. Như nước triều dâng, những lời giáo huấn trong mười hai năm tiểu học và trung học, hỗn loạn phơi bày… Từ một nơi sâu thẳm trong ký ức, một lời giảng cất lên: “Các trò phải tôn trọng nhân phẩm người khác, phải có lòng nhân từ bác ái. Giá trị con người ở chỗ đó. Các trò phải chính trực, không được lừa lọc điên đảo, không nên vì giàu sang phú quí mà hại dân hại nước. Các trò phải biết trọng tự do của kẻ khác”… Hình ảnh các thân thể trần truồng, thớ thịt rung từng đợt dưới luồng điện, làn da đẫm máu, những ngón tay quằn quại đinh dâm suốt thịt trong phòng tra tấn… Sao? Họ – những kẻ ngồi kia, chàng ngồi đây, không áo có quyền thuộc bài sao?”
Miên Đức Thắng ý thức rõ như thế, nhưng Thắng vẫn cố gắng đòi quyền “làm kẻ thuộc bài”. “Người ta đã cố quên” thì Thắng cất tiếng hát, vẫn tiếng hát thiết tha tự trong tâm để nhắc nhở, kêu gọi tình người, tình máu mủ da vàng Việt Nam:
Ôi những viên đạn bằng đồng thật tươi thật đỏ hồng
Những viên đạn bằng đồng, dân Việt chết đói khô, không làm sao nhai được. Triệu viên đạn đỏ hồng.
Cha con mình gặp nhau, trong tầm bay viên đạn, anh em mình gặp nhau trong tầm bay đạn đại bác.
Anh em làng gặp nhau, trong tầm súng cộng đồng.
(Viên đạn)
Tiếng ca nhắc nhở “người ta” của Thắng đã cất lên như thế trong nhiều năm, dĩ nhiên là trong vòng giới hạn – người ta không thể cho tiếng ca “nhắc nhở” khó chịu đó cất lên công khai bao giờ. Bị dồn vào thế cùng, Thắng chỉ còn biết Gọi quê hương mà nhớ:
Gọi quê hương mà nhớ, quê hương ơi quê hương
Gọi quê hương mà nhớ, quê hương còn quê hương?
Quê hương ngập chiến tranh,
Quê hương có bia mộ,
Quê hương còn snack-bar,
Quê hương không còn bạn,
Quê hương lắm hận thù,
Quê hương đầy tiếng súng,
Quê hương đầy tiếng bom,
Quê hương nhiều chinh chiến,
Quê hương nhiều đau thương.
(Gọi quê hương mà nhớ)
Trong những người đến với Thái Độ hồi đó có Trần Triệu Luật, một sinh viên loại “rất thuộc bài”, và dĩ nhiên cũng rất nhiều nhiệt tình với đất nước – không hề có tí “chủ hoà” hay “hoà bình với bất cứ giá nào” bao giờ. Nhưng người ta, lại “vẫn người ta ấy” gây áp lực mỗi ngày một cao, tôi gồng lên mà vận động mà đỡ chưởng để tiếp tục công việc văn hoá đang mở đầu. Nhưng Trần Triệu Luật không đồng ý với thái độ đó của tôi và tư tưởng anh mỗi ngày một thiên về hành động cực đoan. Tình trạng này không thể duy trì bởi vì như thế người ta sẽ hốt cả đám. Tôi đành yêu cầu Trần Triệu Luật chọn lựa và anh đã chọn: anh rời Thái Độ. Dĩ nhiên là lao vào tổ chức khác, thành lập Hội sinh viên sáng tác, đặt trong Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (66-67). Hội sáng tác ấn hành tập nhạc Hát từ đồng hoang của Miên Đức Thắng, và đêm phát hành và trình diễn, tôi có đến dự. Trời mưa rả rích, mái nhỏ giọt mưa lả tả trong phòng, Thắng ôm đàn ra đứng trên chiếu giữa phòng mà hát:
Rất nhiều đêm, rất nhiều đêm,
Tôi vỗ về tôi thủ thỉ
Ngủ đi con ngủ đi con
Rồi ngày mai khôn lớn,
Cầm súng với cầm gươm
Ngủ đi con ngủ đi con
Rồi ngày mai khôn lớn
Giết bạn bè anh em.
Rất nhiều đêm, rất nhiều đêm,
Tôi vỗ về tôi thủ thỉ
Ngủ đi con ngủ đi con
Rồi ngày mai khôn lớn
Bán nước mà làm quan…
(Thơ Đỗ Nghê, Miên Đức Thắng phổ trong bài Lời ru)
Thật chua xót và cũng thật dữ dội. Tôi vừa nghe lời ca, vừa lắng nghe giọt mưa lạnh vừa rớt thấm vào da đầu, lần dở tạp chí Sinh viên do Trần Triệu Luật chủ trương… Vào khuya, lời ca tiếng hát của Thắng thiết tha và dữ dằn hơn nữa:
Một buổi sáng mùa thu
người lính trẻ trong tù
hai tay ôm khung cửa
ru xác gầy đong đưa
Một buổi sáng mùa thu
người lính trẻ trong tù
hai tay ôm mặt khóc
nghe xác hồn lạnh băng
Người lính khe khẽ hát
Mẹ ơi ơi mẹ ơi
Vì con không muốn giết
Bao anh em của mình
Vì con không muốn giết
Nên con làm tù binh
(Mẹ ơi nuôi con lớn để con làm tù binh)
Khi từ giã cả hai người trong đêm, tôi xiết tay họ và khuyến cáo nên cẩn thận, tốp bớt lại đi… Trong cuộc chiến đang tàn khốc này, không ai tha thứ cho những kẻ kêu gọi tình người, nhắc nhở tới quê hương thiết tha như thế đâu. Trần Triệu Luật chỉ cười. Trời mưa nặng hạt hơn khi tôi ra về và tôi thoáng buồn.
Sinh ra trong một dòng mà cuộc đấu tranh chống cộng sản và chống thực dân đủ loại đã sang tới thế hệ thứ hai, tôi hiểu lắm. Những người bác đã chết đi vì cả tay cộng sản lẫn thực dân khá nhiều: những Tường Cẩm, Hoàng Đạo, Nhất Linh, khi nằm xuống, dù muốn hay không cũng truyền lại cho lớp sau ít kinh nghiệm. Tôi biết tương lai của Trần Triệu Luật sẽ nhiều đen tối như tương lai của Miên Đức Thắng, nhưng tôi làm thế nào được…
Nhưng dù vậy, tôi cũng chẳng đủ tài sức giữ được nhóm Thái Độ bền vững. Một vài chưởng đã được đánh ra, tôi không đủ sức đỡ, kép quân chạy dài – và tôi cũng phải nuốt nhiều nước mắt tủi nhục ca bài “con cá” mới tránh cho đa số bạn bè thoát cảnh tù đày… Về sau, tôi ít gặp Miên Đức Thắng. Anh vẫn ôm đàn đi khắp nước mà hát cho những người trẻ nghe với sự giúp đỡ của một đoàn thể Phật giáo. Còn có người nói với tôi Thắng đã lao mình vào hành động khác hơn là cất tiếng hát nữa.
Bởi thế tôi không ngạc nhiên khi có người hỏi tôi ở một quán cà phê là có quen Miên Đức Thắng không thì bảo hắn trốn đi lẹ, không thì vào tù đến nơi. Đây là thời kỳ có vụ cư xá Quảng Đức và vụ “bảo vệ an ninh” cho Thượng toà TM. Tôi liền kiếm Nguyễn Đông Ngạc nhờ chuyển lời nhắn, trong lòng tin chắc rằng nếu có vụ bắt bớ, chắc tại những hoạt động sinh viên Phật tử của Thắng mà thôi. Ít ngày sau, một bạn văn khác lại nhắc lại chuyện đó, lần này nói rõ Miên Đức Thắng sẽ bị bắt trong nội tuần. Tôi kiếm được Thắng ở Pagode, lại chuyển lời người ta nói, Thắng cười và nói: “T. không sợ, bắt thì bắt, biết làm sao bây giờ!”
Và dĩ nhiên sau đó là Thắng bị bắt – biết chạy đâu bây giờ, bên kia lằn mức là người cộng sản, sau lưng là Thái Bình Dương. Được bạn bè báo tin, tôi không lo cho Thắng bởi vì cứ yên trí Thắng bị bắt vì vụ Phật giáo vì Thầy: khi nào hoà giải xong, thầy ra thì Thắng cũng được ra. Ngay cả hầu hết bạn bè của tôi và Thắng đều tin như vậy. Bốn giờ chiều Toà án Mặt trận xử vụ Miên Đức Thắng, tôi mới được biết là toà truy tố Miên Đức Thắng hoàn toàn vì những bài ca tiếng hát của Thắng mà thôi. Sự bí mật của vụ án quả đã giữ được đến phút chót.
Bản án nặng ngoài sức tưởng tượng: 5 năm khổ sai. Chính quyền cộng sản ngoài Bắc khi xử vụ “Nhân văn giai phẩm” cũng chỉ nặng tay đến thế là cùng. Người bạn, vẫn là nhà thơ Nguyễn Đông Ngạc, khi dự khán phiên xử cho biết là sau khi toà tuyên án, Thắng không nói gì, chỉ im lặng khóc – những giọt nước mắt cay đắng nhất và cũng đẹp nhất của một người trẻ tuổi thiết tha với quê hương và đất Việt Nam.
Buổi tối ngồi trong quán HG với một người bạn cố tri, tôi hút thuốc và uống bia, và buồn. Tôi bất lực không làm được gì cả. Tôi chỉ còn có ngòi bút nhưng không báo nào chịu đăng bài của tôi vào thời kỳ ấy. Và hơn nữa, cách đó không lâu, “người ta” đã tặng tôi một quả plastic vào cổng nhà – một trái thật xinh để cảnh cáo mà thôi: cấm nhúc nhích! Đêm vào khuya, khi khách về hầu hết, chỉ còn vài người lính biệt động quân què, cụt và chột mắt và bọn tôi, chủ nhân, cũng là bạn của Thắng, để các tape ghi các bài Thắng đã hát – những bài có lời đã đưa người làm nhạc ấy vào tù… Tôi ngồi lắng nghe từng lời ca quen thuộc ấy và vào một lúc nào đó, tôi xúc động: tiếng Thắng đang hát bài Tình ca cho mẹ, phổ lời thơ của Phan Trước Viên, một người làm thơ khác trong Thái Độ, một người trẻ trong quân lực đồn trú ở miền Trung đã từng làm tôi chú ý khi đọc bài thơ đầu tiên anh gửi về:
quê hương tôi nằm dài trông ra biển
sóng vỗ ngàn năm một điệu ru hờn
dân tộc đời đời tủi hận
chiến đấu nhiều hơn…
chúng tôi sinh ra chẳng hề an nghỉ
đánh giặc nhiều năm không hết kẻ thù
con mồi bé trước mồm bầy thú dữ
để tan tành còn lại nhúm xương khô
các người thử sức nơi đây
biết đến bao giờ mệt mỏi
đến bao giờ tan cuộc các người đi
người Việt sau cùng tàn tạ héo khô
nhìn cây cỏ bơ phờ trên đỉnh núi
các người không thể hiểu
các người không muốn hiểu
nhưng đồng bào tôi biết rõ vô cùng
lòng cách ngăn không bởi một dòng sông
mà bởi những con tàu xa xa ngoài Nam hải…
(Tiếng ca đen, thơ Phan Trước Viên)
Một ngày nọ tôi được tin Phan Trước Viên đã bị cơ quan an ninh của quân lực bắt giữ vì là “người bên kia”. Kế đó tôi nhận được một bức thư vài hàng không ký tên, trong đó anh yêu cầu tôi giúp đỡ vợ con. Cứ cho Phan Trước Viên có là người của bên kia chăng nữa thì điều đó không có nghĩa là tôi phải khước từ trợ giúp vợ con anh – đạo nghĩa bằng hữu phương Đông. Tôi liền biên thư cho Lam, lúc đó tôi nghèo quá mức không lấy gì mà gửi ra, nhờ Lam kiếm và tặng thay tôi ít thực phẩm. Nhưng việc không thành vì lý do hồ sơ về Phan Trước Viên rất nặng và lạ lùng: Phan Trước Viên là người của Mặt trận đã nhiều năm và được lệnh tìm cách vào Thái Độ, kết thân với tôi rồi đợi lệnh sau… Phan Trước Viên, người bạn văn hay kẻ nội thù? Tôi gặp trực tiếp Phan Trước Viên có hai lần nhưng đọc các bài thơ anh làm, tôi thấy tự tình tự căn bản, anh không thể là người tin theo chủ nghĩa Mác Lê – thơ ca trong nền văn hoá đỏ không bao giờ có thể có những tình tự, rung cảm như thế được.
Phan Trước Viên, anh là ai? Có thể hồ sơ đó là nguỵ tạo hoặc do tra tấn mà có, có thể là không. Hay tệ hơn nữa, đây dám là một cái bẫy mà người ta dùng Phan Trước Viên như con mồi – để chụp cái mũ cộng sản cho tôi cùng Thái Độ. Giả thuyết nào đúng, tôi không làm sao biết được, tôi đành án binh bất động. Rồi một hôm tôi nhận được tin báo Phan Trước Viên đã chết. Anh được tha, bị bóc lon rồi cho đi làm binh nhì bộ binh ở Quảng Tín và trong phiên canh đêm, anh đã đưa khẩu súng lên bắn vào đầu tự sát – trong một niềm câm nín hoàn toàn. Ai và cớ gì đã đưa anh đến cái chết tức tưởi ấy, một lần nữa tôi không sao biết được… Và bây giờ, trong quá về khuya này, lời thơ tha thiết của anh đang vang lên qua giọng ca của Miên Đức Thắng:
con về thăm mẹ tay cầm lưỡi lê
mẹ nhìn ngơ ngác
mặt con đầy những máu
tóc mẹ đầy sao khuya
sao khuya rọi qua miệng hầm
giọt sương trên tàu lá úa
nhà ơi không đèn không lửa
vườn ơi không cỏ không hoa
còn đây mẹ ơi
này là lựu đạn này là hầm chông
còn đây mẹ ơi
này là liên thanh đại bác
còn đây mẹ ơi
này là hận thù này là tình thương cao ngất
cao hơn nóc hầm của mẹ tránh bom
cao hơn cây đa hồi chưa tróc gốc
cao hơn đình làng có đôi tổ chim
con về thăm mẹ một lần rồi thôi
thế hệ con – mẹ cũng liều như dứt tao nôi…
Người thốt ra những lời thơ tha thiết trên đã chết gục trên cát sỏi miền Trung, người làm nhạc và đang hát đang nằm trong ngục tối, còn tôi, tôi ngồi đây, trong quán về khuya này, tôi ngồi nghe và tôi ngồi nghe.
Cuộc hành trình làm người Việt Nam qua Trịnh Công Sơn
Trong căn phòng đã bắt đầu thiếu ánh sáng của trụ sở Tổng hội Sinh viên Huế, tôi vẫn còn cố gắng tranh luận, thuyết phục. Bên trái tôi là anh chủ nhiệm tạp chí tôi đang cộng tác thường xuyên, bên phải tôi là Hoàng Phủ Ngọc Tường, một trong những bạn học thân nhất của tôi trong những năm đầu ở Viện Đại học Sài Gòn. Bên kia đầu bàn là người trẻ mang kính trắng là chủ tịch Tổng hội Sinh viên Huế, hai bên hiện diện đầy đủ hầu hết các đại diện cho giới trẻ của cố đô. Tôi đang cố gắng thuyết phục tất cả những người đó không nên tham gia và phát động cuộc tranh đấu mà sau này mọi người thường gọi là phong trào Tranh đấu của miền Trung. Tôi không tin là cuộc tranh đấu ấy sẽ thành công: ngồi ở Sài Gòn vào một vị trí khá thuận tiện để nghiên cứu vào thời gian đó, tôi đã ước tính là những người trẻ Việt Nam trong đó có các bạn đang ngồi kia với tôi, cộng với cả Phật giáo nữa, cũng không thể nào làm thay đổi được chính sách của hai đế quốc trắng và đỏ… tại miền Nam này. Vào thời gian đó, tôi hoàn toàn tin tưởng ở một giải pháp duy nhất để giải quyết vấn đề Việt Nam, đó là thực hiện một cuộc cách mạng xã hội. Dĩ nhiên với tin tưởng như thế, tôi gần như muốn chống đối lại mọi phong trào xuống đường của lớp người trẻ dù vài năm trước nữa, chính tôi không vắng mặt trong bất cứ một cuộc xuống đường ngoạn mục nào ở Sài Gòn.
Trời đã hết hẳn nắng từ lâu, phòng họp đã mờ khuôn mặt người, tôi vẫn còn thuyết phục. Cách mạng đâu có thể thực hiện được bằng truyền đơn, biểu ngữ và các cuộc tuần hành ngoài đường phố. Phong trào mà những người bạn tôi đang ngồi kia sắp tham gia, tôi không tin sẽ dẫn tới một thay đổi căn bản nào cho chiến tranh Việt Nam – tại Á châu, lẽ phải nằm ở đầu ngọn lưỡi lê và lưỡi lê ấy, chúng ta không có hay chưa có. Phải dành sinh lực và thiện chí cùng nhân sự để rèn lưỡi lê cần thiết đó đã… Hình như trong không gian mờ tối của căn phòng, tôi đã trình bày như thế. Tôi phải dùng chữ “hình như”, bởi vì thời gian qua cũng đã lâu rồi kể từ ngày ấy.
Vào một lúc nào đó, tôi chợt khám phá ra tôi đang độc thoại. Từ đã lâu rồi, những khoảng người ngồi quanh bàn đã câm nín. Tôi cũng im theo và trong một khắc im lặng ngắn, tôi chợt cảm thấy như có một ranh giới vô hình đã xuất hiện giữa tôi và các bạn. Ngay cả đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường. Không còn gì để nói với nhau nữa, mỗi bên giữ vững lập trường của mình, đường ai người ấy đi. Nhưng tôi không muốn đứt đoạn, phân cách nhau một cách vô lý như thế. Tôi không hề muốn từ giã họ như thù nghịch – bởi vì điều bất đồng ý, không hề nằm ở mục tiêu theo đuổi, mà là ở phương thức thực hiện. Có lẽ Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng cảm thấy tương tự nên đã cùng với tôi tuyên bố chấm dứt thảo luận chính trị, và kể từ giờ cho tới khi tôi rời Huế, chỉ nói chuyện văn nghệ và sinh hoạt với nhau như bạn mà thôi. Tất cả đều tán đồng và hẹn gặp nhau lại ở Tuyệt Tình cốc.
Đến địa điểm hẹn gặp, ở một con đường nào và khu nào của Huế, tôi bây giờ không sao nhớ lại được, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đợi sẵn và dẫn tôi đi theo một con đường nhỏ hai bên hàng rào âm u như một xứ quê. Quả xứng đáng là con đường dẫn vào “Tuyệt Tình cốc”. Một căn nhà tranh vách đất và nền cũng bằng đất, không điện và cũng không có một dấu vết nào chứng tỏ có vết tích của cơ khí Tây phương. Vài chiếc chiếu trải trên đất, các ngọn nến thắp rải rác quanh vài đĩa bánh và các ly cà phê đen sánh, đen như màu mắt của ba thiếu nữ duy nhất hiện diện. Hoàng Phủ Ngọc Tường giới thiệu chung và vì quá đông, tôi chỉ nhớ được tên vài người như Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân… và một người rất trẻ mặc chiếc áo ka ki, vẻ mặt trong sáng hiền lành sau làn kính trắng có cái tên rất hợp với Tuyệt Tình cốc: Trịnh Công Sơn.
Khi Trịnh Công Sơn bắt đầu hát, tôi chú ý nghe bởi vì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có lần chê tôi là “không biết Trịnh Công Sơn thì kể như chưa biết gì về văn nghệ miền này”. Nhưng ngay lập tức, tôi không cần phải chú ý nữa – tôi đã bị chìm ngập ngay vào trong thế giới âm thanh của Trịnh Công Sơn. Tôi vẩn vơ theo dõi những viên đá, hay một viên đá, lăn trầm bồng bềnh trong cuộc đời, tôi cầu xin mặt trời ngủ yên cho đàn bò đi vào thành phố băng qua những giáo đường tình yêu… Khi Sơn ngừng hát, tôi vẫn còn sững sờ vì không thể ngờ nổi Việt Nam lại có thể xuất hiện những bản nhạc như thế. Những âm thanh lê thê, những hình ảnh hoang tàn, rã rời, nhưng… tôi vẫn cảm thấy một sức mạnh tiềm tàng lẩn khuất trong từng âm thanh của bản nhạc, trong những người đang ngồi quanh dưới các ánh nến chập chờn và những bóng đen lung linh trên vách đất. Đêm khuya, khi ra tới đường lộ, Hoàng Phủ Ngọc Tường tách ra khỏi bạn bè, hỏi riêng tôi: Thực ra còn lý do chi nữa làm anh tin bọn tôi sẽ thất bại? Trước câu hỏi này của người bạn đồng song, tôi đã trả lời khá ngay thẳng rằng tôi đã trông thấy bên cạnh anh cả người của Hoa Kỳ lẫn người của cộng sản. Làm sao thất bại, chết và tù đày không xảy đến cho những người trẻ cứ muốn đi vào cuộc hành trình làm người Việt Nam, muốn khước từ làm tay sai cho bên kia và bồi bếp cho bên này… Và khi bắt tay từ giã Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi đều quyết tâm theo đuổi con đường mình cho là đúng nhất, con đường đã chọn lựa: Hoàng Phủ Ngọc Tường và tất cả những người của Tuyệt Tình cốc – trừ ba người nữ – đã lao vào phong trào tranh đấu do Phật giáo phát động một thời gian sau, còn tôi, về tới Sài Gòn là lo treo ấn từ quan (một chiếc ấn bé xíu của một chức quan hữu danh vô thực) cùng các bạn lập nhóm Thái Độ để lao mình vào cuộc phiêu lưu thực hiện “giấc mơ trăm năm của dân tộc”: hoài bão thực hiện một cuộc vận động văn hoá mới tiến tới cách mạng xã hội. Và trong đêm, khi lái chiếc xe Jeep già nua đưa một trong ba thiếu nữ đã có mặt trong Tuyệt Tình cốc trở về nhà qua những con đường nhỏ ngủ êm, ven một con sông rất nhỏ và rất êm đềm, tôi không thể ngờ đó là lần chót tôi gặp Hoàng Phủ Ngọc Tường và rất nhiều người trẻ của thành phố cổ xưa này.
Sau những tháng gay cấn dữ dội, phong trào tranh đấu của miền Trung đã thất bại. Trong thời gian này, mặc bộ quân phục bạc phếch, tôi vừa quay ronéo từng trang từng trang cho những tập Thái Độ đầu tiên, vừa cùng các bạn theo dõi cuộc đấu tranh khốc liệt: họ, những người của Tuyệt Tình cốc, đã xuất hiện đầy đủ trong bản hùng ca thê thảm ấy. Một Nguyễn Đắc Xuân, kẻ đã cho tôi nghe lần đầu những bài tâm ca của Phạm Duy, con người thơ mộng bề ngoài ấy, đã làm tiểu đoàn trưởng Quyết tử. Một Hoàng Phủ Ngọc Tường, con người dân tộc cực đoan… Và dù đã ước đoán trước được, tôi vẫn không khỏi buồn khi mấy tháng về sau tôi được tin anh đã bỏ thành phố chạy trốn và bị bắn chết, không biết vì đạn bên nào ở một vùng ven đô Huế. Sau sự tan rã của phong trào, từ Tuyệt Tình cốc, chỉ còn Trịnh Công Sơn xuất hiện, mỗi ngày một nổi danh vì những bản nhạc của mình. Những bản tình ca của anh được lớp trẻ hoan nghênh dữ dội và phổ biến sâu rộng: không ngồi nơi nào không nghe thấy những âm điệu của anh. Nhưng tôi biết anh không thể ngừng ở đấy, không thể chỉ là một người làm tình ca cho thiên hạ yêu nhau.
Kể cũng kỳ lạ. Sơn và tôi cùng những người đồng lứa, chúng tôi có tuổi trẻ, quá nhiều tuổi trẻ để hưởng tình yêu cùng những mật ngọt của trần gian. Nhưng chúng tôi không làm sao nếm mật mà không cảm thấy vị đắng cay. Quân lực Mỹ đã đổ bộ và Việt Nam, chiến tranh đổi hình thái và đặt lại cả vấn đề chính nghĩa nữa. Điều quan trọng nhất chiến tranh đã trở thành vấn đề của mỗi nhà, mỗi người. Phải tìm cho được một cái gì biện minh nổi cho những rừng lá trụi khô ruộng đồng bỏ hoang cả nước đầy mồ. Phải tìm một thái độ, một vị trí – dù trên thực tế mình có phải đứng sau M16, sau AK hay đứng giữa hai lằn đạn giao nhau. Có những người như tôi chấp nhận nổi cuộc chiến chống cộng, với điều kiện là nó bảo vệ cho tự do và xây dựng cho một xã hội mới cho miền Nam – cuộc chiến này sẽ không có lý do biện mình nếu nó chỉ là bán xương máu người trẻ để xây dựng những tài sản bất chính.
Nhưng có rất nhiều, rất nhiều người khác, không sao chấp nhận nổi cuộc chiến: họ đi tìm, họ lục soát, họ nhìn khắp quê hương, ngó đủ khuôn mặt bạn bè, mà không thấy lý do nào biện minh. Họ nhìn bên kia lằn mức: không thấy gì. Họ nhìn bên này: không thấy gì. Không thấy gì ngoài những hình ảnh:
một người già trong công viên
một người điên trong thành phố
một người nằm không hơi thở
một người ngồi nghe bom nổ
một người ngồi hai mươi năm
nhìn hoả châu đêm rực sáng
Ngày thật dài trong âu lo
rồi từng đêm bom đạn phá
người Việt nhìn sao xa lạ
người Việt nhìn nhau căm thù
một ngục tù trên quê hương
người Việt Nam quên nòi giống
(Ngày dài trên quê hương, Trịnh Công Sơn)
Không tìm thấy gì, nhưng không thể sống mà không có một vị trí trong cuộc đời. Trừ những người tin theo các triết thuyết nhập cảng đóng hộp từ phương Tây và những người buông thả vào trong siêu hình Ấn Độ, không ai có thể sống hàm hồ. Mỗi người đều ước mơ:
ước gì được là ta, hay nói theo ngôn ngữ Phạm Duy,
làm sao khi thức dậy, tôi tìm thấy tôi. Trong cuộc hành trình đi tìm chính ta chính tôi chính mình này, những người trẻ đã vung tay xé rách các tấm màn để biết rằng mình không phải là Tây con, là phó-hoa-kỳ, đã đập nát tấm bình phong bằng tre để biết mình không phải là người-giải-phóng, người-vô-sản-vùng-lên. Và tệ hơn nữa, là không còn thấy cả quê hương nữa. Cuộc hành trình phải tiếp tục, và lần này, đi lại từ đầu:
đi tìm quê hương. Những mốc dấu đầu tiên thực thảm hại:
người nô lệ da vàng ngủ quên trong căn nhà nhỏ
đèn thắp thì mờ, ngủ quên đã bao năm ngủ quên đã bao năm
ngủ quên không thấy quê hương
(Đi tìm quê hương)
Khám phá đầu tiên ấy thực là buồn. Nhưng những người trẻ chấp nhận: chúng ta là nô lệ, chúng ta chưa là người tự do, chúng ta là người nô lệ, không phải nô lệ da trắng, mà là nô lệ
da vàng. Màu da vàng là màu da chúng ta, là thân phận chúng ta ở cõi đời này, chúng ta chấp nhận và hãnh diện.
Và người nữ chúng ta yêu, người nữ thần tượng, không phải là những người “tóc vàng sợi nhỏ” những Birgitte Bardot, Sharon Tate, Raquel Welch, mà là người con gái Việt Nam:
Người con gái Việt Nam da vàng
yêu quê hương như yêu đồng lúa chín
Người con gái Việt Nam da vàng
yêu quê hương nước mắt lưng dòng…
Em chưa biết quê hương thanh bình
em chưa thấy xưa kia Việt Nam
em chưa hát ca dao một lần
em chỉ có con tim căm hờn
Người con gái một hôm qua làng
Đi trong đêm, đêm vang ầm tiếng súng
người con gái chợt ôm tim mình
trên da thơm vết máu loang dần
Người con gái Việt Nam da vàng
mang giấc mơ quê hương lìa kiếp sống…
(Người con gái Việt Nam, Ca khúc da vàng)
Đã tìm thấy
người nữ của mình, người con gái Việt Nam da vàng, tất nhiên cuộc hành trình phải tiếp tục, ổn cố vững vàng hơn:
người nô lệ da vàng bước đi bước đi
Đi về đầu non
người nô lệ da vàng bước đi
Đi về biển xanh
Đi khâu vá con sông Việt Nam 20 năm liền thịt xương
phơi trên đôi miền
Đi cho thấy quê hương
đi cho thây quê hương
đi cho thấy quê hương…
(Đi tìm quê hương)
Và tới cuối chặng thứ nhất của cuộc hành trình, những người trẻ thấy mình là người Việt Nam màu da vàng, với tất cả những khốn khổ cũng như oai hùng của dòng giống. Nhìn sang bên kia, cũng thấy cùng màu da, cùng Việt Nam. Không thấy sao trắng bên này, không thấy sao đỏ sao vàng bên kia: người trẻ chỉ muốn nhìn thấy màu của mình, màu Việt Nam. Họ chỉ muốn nhìn thấy người Việt da vàng mà thôi. Ngừng ở chặng này của hành trình làm người Việt Nam, nhìn lại miền Nam xem còn có những gì, thì dây là di sản họ đang phải tiếp nhận:
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ ruộng đồng khô khan
Gia tài của mẹ nhà cháy từng hàng
Già tài của mẹ một rừng xương khô
Gia tài của mẹ một núi đầy mồ
Gia tài của mẹ một lũ bội tình…
(Gia tài của mẹ)
Đã gọi là di sản, thì được nhà cao cửa rộng ruộng cả ao liền xã hội thanh bình cả nước hoa đăng… càng tốt. Còn nếu không, gia tài đã là của mẹ, thì dù có là ruộng đồng khô khan, nhà cháy từng hàng, một rừng xương khô, một núi đầy mồ… cũng xin giơ hai tay mà đón nhận. Không phải nhận để rồi mà khóc than thương cho phận mình. Nhân đây là để làm cho khá hơn, trồng cây trên núi, trồng lại lúa trên vùng khai hoang – dù rằng muốn làm thế có phải làm từ đầu là dạy dỗ lại nhau từ đầu:
Dạy cho con tiếng nói thật thà
Mẹ mong con chớ quên màu da
Con chớ quên màu da nước Việt xưa
Mẹ trông con mau bước về nhà
Mẹ mong con lũ con đường xa
Ôi lũ con cùng cha
Quên hận thù
(Gia tài của mẹ)
Đã ý thức được phân phận mình như thế, đã tiếp nhận gia tài như thế, bây giờ nhìn vào chiến tranh, nhiều người trẻ đã thấy đây không phải là cuộc chiến của họ: bất quá đây chỉ là đấu trường tỉ thí cho hai ý thực hệ ngoại lai (ý thức hệ cộng sản và ý thực hệ tư bản), bất quá người Việt hai miền chỉ là những con tốt thí cho hai đế quốc trắng, đỏ… Như vậy, không có lý do gì để họ cầm súng chiến đấu cả – dù là MI, M16 hay AK50, B40.
Nhưng dù muốn hay không, họ cũng đều phải cầm súng, không trở thành “giải phóng quân” đi “chống Mỹ cứu nước”, thì cũng thành “chiến sĩ bảo vệ tiền đồn” cho cái vẫn thường được gọi là thế giới tự do. Và khi họ gục xuống trong rừng hay ruộng đồng, đô thị, người nữ của họ, nếu không chọn giải pháp thứ nhất như bài ca dao mới đã mô tả:
Giã từ em anh đi trung sĩ
Em ở nhà lấy Mỹ nuôi con,
Bao giờ hết việc nước non
Anh về anh có Mỹ con anh bồng.
thì rất dễ tìm thấy
tình ca của người mất trí, ngơ ngác nhìn đâu cũng thấy nơi người yêu mình đã gục xuống:
Tôi có người yêu chết trận Pleimé
Tôi có người yêu ở chiến khu D, chết trận Đồng Xoài,
chết ngoài Hà Nội, chết vội vàng dọc theo biên giới.
Tôi có người yêu chết trận Chu Prong
Tôi có người yêu bỏ xác trôi sông,
chết người ruộng đồng, chết rừng
mịt mùng chết lạnh lùng, mình cháy như than.
Tôi có người yêu chết trận A Sao
Tôi có người yêu nằm chết cong queo
chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu,
chết nghẹn ngào mình không manh áo.
Tôi có người yêu chết trận Ba Gia
Tôi có người yêu vừa chết đêm qua,
chết thật tình cờ, chết chẳng hẹn hò,
không hận thù, nằm chết như mơ.
(Tình ca của người mất trí)
Bắt đầu từ chặng này cuộc hành trình, những người trẻ đó chỉ còn có thể lên tiếng tuyên bố như trong phần chót của bài ca trên:
Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam
Ngày gió lớn tôi đi môi gọi thầm
Gọi tên anh, tên Việt Nam
Gần nhau trong tiếng nói da vàng
Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam
Ngày mới lớn tai nghe quen đạn mìn
Thừa đôi tay, dư làn môi
Từ nay tôi quên hết tiếng người.
Đó là một lời tuyên ngôn dịu dàng nhất và cũng minh bạch nhất:
Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam, chứ không phải “tôi muốn yêu anh nước bạn đồng minh Hoa Kỳ”, và cũng chẳng phải “tôi muốn yêu anh nước anh em Trung Xô”.
Tôi được nghe bài ca trên khi phụ trách huấn luyện quân sự cho sinh viên Văn khoa Sài Gòn. Suốt nhiều buổi trưa, tôi ngồi trong một quán cà phê gần trường, nghe đi nghe lại bản nhạc xót xa buồn thảm đầy chết chóc đau thương ấy, tôi biết Trịnh Công Sơn đang đi vào tuyệt lộ dẫn tới lao tù, của cả hai chế độ Nam Bắc Việt Nam. Làm sao các cán bộ chính ủy của đảng Lao động chịu nổi một bài ca như thế. Cán binh của họ mà nghe, sẽ xúc động, sẽ ý thức được thân phận tốt thí, sẽ yêu thương người Việt da vàng với nhau, thì còn gì là “chính nghĩa chống Mỹ cứu nước” nữa. Họ mà bắt được Trịnh Công Sơn, hẳn không tiếc gì không cho Sơn một đường mã tấu, tặng anh một cái “chết rừng mịt mùng, chết chẳng hẹn hò, không hận thù nằm chết như mơ”.
Còn đối với miền Nam, anh còn dễ nguy hơn. Bởi vì ở miền Nam có một thành phần rất sợ hoà bình – bất cứ hoà bình kiểu gì và bất kể từ đâu tới! Lý do bởi vì quyền lợi và danh vọng hiện tại của họ xây dựng trên căn bản là trục lợi chiến tranh, đấu thầu cuộc chiến. Kêu gọi tới tình tự dân tộc, tới hoà bình, kể như lay động tới nền tảng quyền lợi của họ rồi. Chính thành phần này đã bao năm hô hào chiến đấu chống cộng bằng mồm (hô hào mọi người bằng mồm thôi, còn thân họ thì không bao giờ dám đưa ra gần nơi lửa đạn, và con cái họ đều được trốn lính hợp pháp để du học bên Mỹ, bên Âu), chính những người này bao giờ cũng muốn chính quyền bắt bỏ tù, cho đi hải đảo bất cứ ai khơi dậy, đề cao tình tự làm người Việt Nam…
Và tất nhiên Trịnh Công Sơn không thoát được số phận của mình. Các biện pháp nặng nhẹ đủ loại đã được đưa ra áp dụng cho con người hiền lành dễ thương nhất của Tuyệt Tình cốc, nhưng không đưa được anh tới lao tù đày ải: quá nhiều người Việt đã lên đường vào cuộc hành trình làm người Việt Nam, và không ai nỡ để con người thư sinh giản dị, tối ôm đàn đi hát, khuya về ngủ trên ghế bố của căn nhà gỗ Hội Hoạ sĩ trẻ trên thầm Khám Lớn xưa, phải chịu đoạ đày hay thủ tiêu từ từ trong chuồng cọp.
Vẫn được tự do dù là thứ tự do hạn chế, anh vẫn làm nhạc: cuộc hành trình vẫn tiếp tục. Lần cuối cùng gặp nhau trước khi Trịnh Công Sơn trở về Huế, trong căn gác xép mưa dột đầy một góc, ngồi trên chiếu rách, anh có hỏi tôi: Khi đất nước thanh bình, bạn bè hai bên trở về, sẽ ra sao nhỉ? Tôi không thể trả lời câu hỏi ấy, nhưng tôi biết khi thanh bình, tôi sẽ làm gì. Tôi sẽ ra Huế, kiếm Trịnh Công Sơn, và sẽ rủ anh làm như trong một bản nhạc anh đã đặt tên
Tôi sẽ đi thăm.
Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm
Tôi sẽ đi thăm một phố đầy hầm,
Đi thăm một con đường nhiều hố.
Khi đất nước tôi thanh bình
Tôi sẽ đi thăm cầu gãy vì mìn,
đi thăm hầm chông và mã tấu
Khi đất nước tôi không còn giết nhau
trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường.
Khi đất nước tôi thanh bình
Tôi sẽ đi không ngừng,
Sài Gòn ra Trung, Hà Nội vô Nam
Tôi đi chung cuộc mừng và mong sẽ quên chuyện non nước mình
Đi chung cuộc mừng và mong sẽ quên chuyện non nước mình…
Tới đây có lẽ mới là tận cùng của cuộc hành trình làm người Việt Nam, và có lẽ cũng tới đây Sơn và tôi mới hy vọng sẽ chỉ còn một việc là: làm tình ca và viết chuyện tình rất viễn mơ. Dĩ nhiên là với điều kiện lúc đó phải quên được:
“Khi đất nước tôi không còn chiến tranh
Bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ…”
Tình ca ranh giới sống - chết
Cuối năm mùa mưa năm ngoái, tôi và Thi trở về Đà Lạt thăm mẹ sau một thời gian xa cách. Chiếc xe ca của hãng hàng không thả hai đứa xuống ga xe là vào buổi trưa, trời có nắng, thành phố miền núi này vẫn quen thuộc, êm ái vỗ về. Và như thói quen thiết lập kể từ khi nhà ga thành phố biến thành trạm đi đến cho đường hàng không, hai đứa sang hàng phở ngay kế bên, ăn bát phở trong không khí lạnh đã lâu lắm mới được hưởng. Tôi không vội vã đi đâu, về đâu cả. Một người bạn văn tôi mới in xong một tập truyện có nói sẽ xách một cái jeep tới đón tại nơi này – cả anh lẫn xe đều không thấy đâu. Nhưng tôi không có ý chờ đợi, cả anh bạn ấy hay bất cứ ai. Thành phố này là nơi yên nghỉ của tôi, không gian thích hợp để tôi thu mình vào: làm nhà văn viết văn là mở rộng mình ra với thiên hạ, tổ chức tranh đấu này nọ là một cách thức mang thân mình ra đánh một trò chơi lớn với cuộc đời, còn là mở rộng mình ra hơn nữa. Ngoài trời, nắng vẫn đẹp và trong trên lớp đá lót đường, bên trong tôi đã uống cạn ly cà phê, không ngon gì nhưng thích thú. Một chuyến đến vừa ý, như hai đứa tôi dự trù sẽ sống ở thành phố này: không chương trình thăm viếng bất cứ thác nào, không tiết mục họ hàng thân thuộc, và một người bạn thân hiếm có ở nơi này, thì trưa mai sáng ngày kia sẽ gặp, vào lúc nào chẳng được. Cứ từ từ, tuỳ hứng mà buông thả mình vào những con đường cỏ mọc cao hai bên; những cây thông nâu, không khí lạnh. Con người tôi sẽ thu dần lại được, giản dị như thế.
Bởi vậy, tôi quả thật không vui khi biết nhà văn có cuốn sách mới xuất bản kia dự trù một buổi sinh hoạt tại hiệu sách Nhân Văn để “ra mắt” cuốn sách của anh với bạn bè nơi này. Và dĩ nhiên là tôi bắt buộc phải có mặt, ít nhất với tư cách của người xuất bản… Mà lúc này, tôi đang muốn tôi không là cái gì hết ngoài tôi.
Làm nhà văn, làm xuất bản, làm lính, làm người tranh đấu lăng quăng hay nghiêm chỉnh, làm cái gì đó cũng là một hoàn cảnh nó làm đông đặc, sững tôi lại trong một vóc dáng nào đó, vai trò nào đó – những người chung quanh tôi đòi hỏi, xã hội của con người đòi hỏi và tôi phải đáp ứng tối thiểu, nếu không muốn bị thiên hạ tưởng tôi là đến lúc cần lên an dưỡng ở dưỡng trí viện. Tôi không thể khước từ lời mời tham dự phiên họp văn nghệ ấy của người bạn, và điều đó có nghĩa là tôi phải
làm nhà văn. Nhưng có một buổi tối thôi, thì cũng được. Tôi còn dư thời gian để chẳng là cái gì khác ngoài một đôi trai gái lang thang trên các con đường dốc, lê la các quán ăn, quán cà phên xứ này.
Vì thời gian gấp rút – hình như người bạn sắp phải đi công tác xa thì phải – hai đứa tôi ngồi luôn trên xe jeep trong khi anh bạn đi mời bạn bè tham dự buổi sinh hoạt. Xe chạy tới địa điểm này địa điểm kia, anh bạn cứ vào mời, còn tôi cứ đứng dựa vào mũi xe hút thuốc ngắm cảnh chung quanh: tôi chưa hề biết rõ thành phố này bao giờ và góc cạnh nào của nó, dù chỉ một cây hoa cánh bướm mọc lẻ loi cạnh một bức tường vôi, cũng làm tôi thích thú. Vào một lúc nào đó, anh bạn nói với tôi: “Bây giờ đi mời vợ chồng Lê Uyên Phương, cặp đó hát hay lắm!”. Tôi nghe một cách lơ đãng bởi vì đã từng tham dự quá nhiều buổi văn nghệ ở tỉnh xa, cái tên xinh xắn Lê Uyên Phương không làm tôi nghĩ tới điều gì khác hơn là một đôi vợ chồng trẻ, chồng làm giáo sư hay quân nhân cấp uý phục vụ ở tiểu khu, vợ là một nữ sinh Bùi Thị Xuân hay Đồng Khánh. Cả hai cùng hay hát khi còn đi học và bây giờ còn hát tài tử cho bạn bè nghe trong những dịp họp mặt. Đại khái không là gì khác hơn một giọng ca ngoan, hơi rụt rè với thoáng hồng trên má. Tôi đã nghĩ như thế trước khi xe ngừng ven một con đường nhỏ dẫn lên Viện Đại học, trước căn nhà của đôi vợ chồng sau này được gọi tên ngộ nghĩnh là Lê Uyên và Phương, một căn nhà gỗ làm theo kiểu thông dụng khá dễ thương ở miền núi này với vài ba cây mận rải rác trên sân đất đỏ. Hai vợ chồng đã về Sài Gòn và buổi sinh hoạt buổi tối đã diễn ra như tôi nghĩ: một bầu không khí hơi quá nghiêm chỉnh để có thể gọi là vui và tôi cũng ráng
làm cho xong vai trò người xuất bản trong những giọng ca ngoan, hơi rụt rè của người nữ sinh Bùi Thị Xuân. Xong phần tối thiểu, tôi kéo Thi, hai em gái và T. Lãng, mượn luôn chiếc xe jeep của người bạn lái đi lang thang. Định đi ăn bánh cuốn nhưng chưa ai đói, Lãng kéo luôn tới một quán mới mở ở đường HD do chính đương sự lãnh phần trang trí. Trời hơi mưa bên ngoài, trong căn phòng dài nhạc ồn ào, tôi nhấp nháp một ly rượu pha, nghe một cô ca sĩ mà bọn tôi thường gọi đùa là cố Hủy Thể hát bài “lắc lư con tàu đi” và những bài tình ca khác nữa, những cung điệu quen thuộc, ổn cố.
“Những bản tình ca, những cung điệu quen thuộc, ổn cố…”, tiện câu văn thì tôi viết như vậy thôi. Thực ra, chỉ có những bản tình ca của mỗi thời kỳ, những cung điệu quen thuộc cho từng cá nhân. Những bản tình ca của người trên tôi một thế hệ hay hơn có thể là
Trương Chi,
Thiên thai của Văn Cao,
Biệt ly hay
Tạ từ, nhưng chắc khó mà có thể là tình ca cho người cùng lứa cho tôi, dù nghe vẫn thấy đó là những bản nhạc hay. Chìm đắm trong khói thuốc, men rượu, tôi lắng nghe các lời ca điệu nhạc, tôi nghĩ rằng có lẽ tình ca bây giờ là tình ca Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Từ Công Phụng, Vũ Thành An… Và tôi tưởng rằng những người làm nhạc ấy có lẽ đã khai triển và đưa ra âm thanh tình yêu của thế hệ hiện chiến một cách gần đầy đủ – trừ một thứ tình yêu nào đó.
Đó là thứ tình yêu của những người tiếp giáp với cái chết, thường trực ở ranh giới của sự sống và sự chết. Với cuộc chiến tranh này, bao nhiêu người đã và còn đang ở vị trí ranh giới – người ta yêu nhau trong an bình và ổn cố, hẳn không thể giống thứ yêu nhau khi người đàn ông biết rằng sáng mai khi mặt trời lại mọc, mình sẽ trở lại chiến trường. Nghĩa là vào vị trí ranh giới đó. Còn người đàn bà, khỏi cần viết nhiều cũng có thể biết một buông thả hiến dâng với tương lai vững chắc khác hẳn một dâng hiến cho người tình rời mình vào lúc bình minh có thể là rời vĩnh viễn. Làm nhà văn, tôi đã dùng chữ và giấy diễn tả nhiều lần thứ tình yêu trong vị trí ranh giới ấy, nhưng chỉ là những diễn tả bằng ký hiệu, cách bức… Thơ đỡ cách bức hơn, nhưng chỉ đỡ hơn thôi. Chỉ có âm nhạc, qua các âm thanh sắp xếp, mới chuyển được tình cảm đi trực tiếp hơn. Thế mà đã từng nghe hầu hết các tình ca hiện đại, tôi không thấy tình ca nào diễn tả thứ tình yêu ranh giới sống chết ấy – trừ một vài bài vài đoạn trong nhạc của Trịnh Công Sơn làm tôi thấy thấp thoáng ít nhiều…
Tôi không ngạc nhiên về tình trạng này. Phải lâm vào, phải ở trong hoàn cảnh ranh giới, ít nhất trong một thời gian với toàn thể tâm hồn thể xác mình, mới biết được ý thức được – giai đoạn đầu tiên và cũng là tối cần cho sự diễn tả trình bày về sau. Những người làm tình ca bây giờ, những Vũ Thành An, Từ Công Phụng và cả đến Trịnh Công Sơn, chưa có ai sống qua một khoảng đời mình trong vị trí bấp bênh sống chết ấy. Làm sao mà đưa vào âm thanh, vào tình ca.
Cũng vì suy nghĩ như thế nên ít lâu sau, một buổi tối trong Hầm Gió, một quán cà phê tôi và Thi hay lui tới, tôi chú ý tới vợ chồng Lê Uyên Phương ngồi ở cuối quán khi người bạn nan y không biết sống chết thế nào, và như thế từ nhiều năm rồi. Nhưng chú ý vậy thôi, không nhiều lắm và buổi trình diễn đầu tiên của hai vợ chồng đó, cũng tại quán này, tôi và Thi đã quên đi không tới… Một thời gian sau, một buổi tối người bạn chủ quán để lại tape nhạc ghi lại vài bài của Lê Uyên Phương trong buổi trình diễn ấy.
Ngay từ những đoạn âm thanh đầu tiên cất lên, chẳng biết là bài nào, tôi đã ngạc nhiên và xúc động. Những tình tự chất liệu nguyên, hoang sơ như một đám cỏ tranh trên đồi, những xúc động nguyên thủy của nam nữ, tất cả qua một giọng ca của một người nữ như còn run rẩy trong cơn làm tình và tê dại toàn thân trong đau đớn vì tình yêu đã bay đi. Và thích thú hơn, hình như tôi đã nghe thấy cảm thấy thứ tình yêu ranh giới sống chết ấy.
Khi Lê Uyên và Phương trình diễn trước công chúng hỗn tạp Sài Gòn lần đầu ở Queen Bee, dĩ nhiên tôi và Thi tới – dù cả hai đứa đều ít ưa thích các phòng trà loại này. Uống cạn chai bia đầu tiên, tôi chán ngán nghe những bản nhạc quá nhàm chán, diễn tả bởi những ca sĩ chuyên nghiệp, có điêu luyện nhưng hát như máy. Ngay cả khi Khánh Ly xuất hiện hát ba bài liên tiếp; tôi cũng không thấy thú vị gì hơn – nàng du ca đi chân không mà hát đã đi vào quá khứ, chỉ còn nàng ca sĩ Khánh Ly, rất nghiêm chỉnh và trịnh trọng từ y phục tới các thế trình diễn. Tôi quả chưa đủ già để thích cô Khánh Ly mới này…
Tối đó, tôi và Thi đã lắng nghe Lê Uyên và Phương và nhiều khi hai đứa đã xúc động ghi nhận khi thấy có người đã qua nhạc và lời ca trình bày được thứ tình yêu ranh giới mà hai đứa đã từng phải trải qua. Quả thực Phương đã đưa ra một thứ tình ca mới tôi chưa từng thấy trong âm nhạc Việt Nam bao giờ.
Đây không phải là thứ tình ca
như mọi người,
cho mọi người. Đó là tình ca
của hai người, tình yêu thật đặc thù của một người nam và một người nữ yêu nhau, không phải như bất cứ người nam vô danh người nữ vô danh nào khác, mà của
một người nam và
một người nữ. Một thứ tình duyên tạm bợ vì cái chết chắc chắn bay bổng trên cao đe doạ – khi nào đám mây đen đó chụp xuống? Một sự phơi bày tình yêu riêng tư trần truồng nhất, không một e thẹn nào. Và cũng không phải thứ tình yêu trình bày phiến diện, nghĩa là chỉ nói chỉ diễn tả những trạng thái tâm hồn, xúc động tình cảm của yêu đương. Đây là thứ tình yêu đủ, tình yêu tròn, trọn vẹn, nghĩa là sự rung động của xác thịt, của thân xác được đưa lên, nâng lên đúng vị trí của nó trong cuộc đời của con người. Trong
Vũng lầy của chúng ta, Phương đã không làm gì khác hơn là ghi lại, diễn tả cuộc làm tình của hai người với tất cả giai đoạn chính của nó.
theo em xuống phố trưa mai
đang còn nhức mỏi đôi vai
theo em bước xuống cơn đau
bên ngoài nắng đã lên mau
Đó là giai đoạn chót của cuộc làm tình, người đàn ông rã rời nhưng không được yên nghỉ vì nắng đã lên, hai người phải trở về với cuộc đời thường nhật sau khi đã hiến dâng cho nhau, đam mê nhau với tất cả con người mình:
cho nhau hết cả mê say
cho nhau hết cả chua cay
cho nhau chắt hết thơ ngây
trên cánh môi say
trên những cánh tay…
Sự trở về của người nam và người nữ sau đó dĩ nhiên chỉ có thể là
“…bước về tình buồn”. Nhưng trưa nay, tối nay, ngày mai, hai người lại hoà thân xác vào nhau, xông vào nhau để tìm một sự trở thành MỘT NGƯỜI.
Lưỡng nghi cố tìm đường trở thành
Thái cực, nhưng đó là một sự thất bại biết trước. Âm và Dương, như trong biểu tượng mà Đông phương đã trình bày, chuyển động xoay tròn xoắn vào nhau, nhưng không bao giờ hoà vào nhau được – bởi vì có đạt được như thế chăng, thì sẽ là ngưng mọi chuyển động, là thái cực hiểu theo nghĩa phương Đông, là cái chết, là chấm dứt sự sống. Nhưng mỗi lần có thêm một đôi lứa yêu nhau trên thế gian, dù cả hai cùng đạt tới khoái lạc cực điểm cùng một giây, cả hai có cố mở mắt thật lớn để nhìn vào nhau, thì đúng vào giây đó, chỉ còn cách MỘT NGƯỜI tưởng như một khoảng rất nhỏ nữa thôi, hai người liền bùng lên tan biến, tan biến cả hai: tôi không còn hiện hữu và người tôi yêu cũng không còn hiện hữu. Để rồi sau đó chỉ còn là
“…tình buồn chồng chất lê thê”. Nhưng cuộc hành trình thất bại từ trước khi khởi hành ấy lại phải bắt đầu lại – trừ phi đã hết yêu nhau. Và như vậy thì:
ta sống trong vũng lầy, một ngày vùi dần
còn vùi sâu, còn vùi sâu
trong ngao ngán không dứt cơn ê chề…
Cuộc đời của đôi lứa nam nữ như một thứ “đam mê vô ích” ấy vẫn tiếp tục mãi mãi dưới ánh sáng mặt trời, cho tới vĩnh viễn. Tôi hiểu Phương, tôi hiểu tâm trạng ấy: cái chết đang đe doạ và người yêu thì còn kia. Phản ứng của người nam trong hoàn cảnh ấy là muốn tìm qua sự hiện hữu của người phối ngẫu kia sự trường tồn, sự sống của chính mình. Tôi nghĩ và hiểu như thế vì đã hơn một lần, tôi ôm người yêu trong tay, nhìn qua khung cửa nhìn chân trời đã hửng sáng mà lo ngại bởi vì nắng mà lên đã cao, tôi sẽ theo quân vào rừng. Có thể hiểu như thế là hiểu sai chăng, nhưng điều đó không quan trọng bởi vì nghe nhạc, thường là nghe chính quá khứ và bằng quá khứ của chính mình.
Một điều đặc biệt nữa tôi nhận thấy ở tình ca Lê Uyên Phương: đó là sự vắng bóng của sự ổn cố và tin tưởng. Nghe tình ca của những người khác, từ Phạm Duy cho tới Trịnh Công Sơn, tôi thấy có sự tin tưởng ở tình yêu như một yếu tố chắc chắn có đấy, một thực thể ổn cố. Có thể buồn, nhớ thương, đau đớn, khắc khoải, nhưng tình yêu
là có. Đến Phương, tình yêu chỉ còn là những khoảnh khắc nào đó nhất định.
hãy ngồi xuống đây hôn nhau lần này
hãy ngồi xuống đây cho nhau lần này
hãy ngồi xuống đây chia tay lần này
Hôn nhau, hiến dâng cho nhau một lần này, chính là chia tay nhau thêm một lần. Thật giản dị và cũng là sự thật. Hai thân thể, hai tâm hồn cố hoà vào nhau nhưng để rồi lại thất bại, hai thân xác rã rời buông nhau và hai tâm hồn rời xa, mỗi người trở lại với nỗi cô đơn làm người của chính mình. Nếu có điều nào an ủi cho con người khi biết yêu, đó là sự cô đơn cùng nhau với nhau.
Tình yêu đến đây quả đang đi đến chặng chót của cuộc hành trình của nó. Trong cuộc chiến kéo dài, trong một xã hội đang tan rã đến giai đoạn chót, người trẻ tuổi chỉ còn tin được vào tình yêu của chính mình. Phạm Duy còn tin, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Trịnh Công Sơn còn tin. Đến Phương, tin tưởng chẳng còn bao nhiêu, hoạ chăng là những khoảnh khắc, thế thôi. Nhưng có là
khoảnh khắc thì vẫn còn là có. Và chính là vì khoảnh khắc, nên lại cần lao vào hối hả. Những đôi lứa yêu đương bây giờ, không còn biết làm gì hơn là rủ rê nhau
“Hãy ngồi xuống đây”. Để làm gì? Sung sướng thay các cụ chúng ta. Các cụ khi còn trẻ có
rủ nhau ngồi xuống đây thì thường cùng là để ngắm trăng sao, thề non hẹn biển và nếu có đi xa hơn chỉ là một sự “lôi cuốn ngoài ý muốn của các đương sự”. Còn bây giờ:
hãy ngồi xuống đây
như loài thú hoang yêu nhau ngoài đồng
dưới nắng ban mai phô thân trần truồng kiếp sống hoang sơ…
hãy ngồi xuống đây vai kề sát vai cho da thịt này đốt cháy thương đau cho cơn buồn này
rót nóng truy hoan cho thiên đường này…
Thật cả là một lời hô hào yêu đương. Thật dữ dội, thật ngây thơ và cũng thật tội nghiệp. Đêm vừa qua, sinh nhật của Thi, hai đứa khá muộn mới tới Hầm Gió và tới chai bia thứ ba, tôi ngửng lên mới thấy ở vị trí mà trong các gia đình cổ kính mới một thế hệ trước đây còn treo hoành phi trịnh trọng, chủ quán đã cho treo một bức hoành phi như tục lệ, duy chỉ có điều khác là bên trong không đề chữ Hán mà chỉ để có mỗi một chữ LOVE. Tôi vừa buồn cười vừa thấy thương.
Lý do vì tôi đoán biết người đề xướng ra bức “hoành phi” này có lẽ muốn đề tiêu ngữ đang phổ thông của sinh viên Hoa Kỳ:
Make love not war. Nhưng sợ đề như vậy là bị ghép vào tội “phản chiến” chăng… Dám ra Toà án Mặt trận và 5 năm cấm cố như người làm nhạc trẻ Miên Đức Thắng.
Đêm vào khuya hơn nữa, tôi chợt nghĩ tới hai hình ảnh, hai hoạt cảnh mà tôi tham dự cả hai trong thời gian gần đây. Hoạt cảnh thứ nhất: từng đoàn sinh viên lao mình trong đám hơi cay, la hét tranh đấu, một cô bé nữ sinh Gia Long quần áo trắng đơn sơ, mắt còn trong veo bị ba bốn cảnh sát dã chiến túm lấy ném lên xe jeep, xe rú còi inh hỏi phóng đi như bay, nhưng tôi còn trông thấy, qua hai chân dạng và chiếc dùi cui lủng lẳng của người cảnh sát cô bé đó đang đưa vạt áo lên lau nước mắt. Hoạt cảnh hai: những người con trai con gái mặc quần áo hippy, sang trọng, đông đảo quây quần nhảy soul với nhau, vui chơi một cách ngây thơ và cố tình không biết đến chiến tranh đủ loại đang diễn ra không xa, ngoài kia… Từ hai hoạt cảnh ấy, tôi chợt nghĩ tới một điều: những người trẻ lao mình trong đám hơi cay kia là những người sung sướng hơn, bởi vì họ còn tin tưởng ở một cái gì khác hơn là thứ tin tưởng của những người trẻ lao mình trong điệu soul kia. Bởi vì ở cuối cuộc hành trình của những lớp người sau, chẳng còn gì hơn là những
khoảnh khắc như tôi đã nói, những khoảnh khắc của Lê Uyên Phương, những khoảnh khắc mỗi ngày sẽ một khó kiếm khi tuổi trẻ qua dần, những khoảnh khắc có thể nói là không thể kiếm nổi cho những người nào không sao yêu được ai, hay bất cứ cái gì.