4.
Marx không phải là người đầu tiên cho rằng nền kinh tế tương lai sẽ là nền kinh tế kế hoạch hoá. Nhưng ông là người đầu tiên hoặc một trong những người đầu tiên nhận thấy rằng nền kinh tế hiện đại có xu hướng tiến đến kế hoạch hoá vì bên cạnh các nguyên nhân xã hội còn có nguyên nhân nữa: nó dựa trên công nghệ tiên tiến. Các công ty độc quyền chính là các công ty đầu tiên thực hiện kế hoạch hoá trên bình diện quốc gia và quốc tế. Ngày nay kế hoạch hoá là hiện tượng chung, là thành phần quan trọng của chính sách kinh tế của nhiều chính phủ các nước đã phát triển và đang phát triển, dù được thực hiện với những đặc thù khác nhau. Kế hoạch hoá là kết quả của trình độ sản xuất nhất định, của những điều kiện xã hội và quốc tế cũng như những điều kiện khác, không liên quan gì đến một lí thuyết cụ thể nào, đặc biệt là lại càng không liên quan đến chủ nghĩa Mác, vốn được xây dựng trên cơ sở quan hệ kinh tế - xã hội thấp hơn.
Liên Xô, dưới sự lãnh đạo của những người mac-xít, là nước đầu tiên thực hiện kế hoạch hoá trên toàn quốc, những người mac-xít còn đánh đồng Liên Xô với kế hoạch hoá và với chủ nghĩa Marx nữa. Trong thực tế học thuyết của Marx, cơ sở tư tưởng của cuộc cách mạng Nga bị biến thành tấm bình phong che đậy cho những hành động của các lãnh tụ Liên Xô.
Tất cả những nguyên do lịch sử của việc kế hoạch hoá nêu trên sau đó đều được củng cố bằng lí luận mà lí luận của Marx là gần gũi và dễ được chấp nhận nếu tính đến cơ sở xã hội và lịch sử của phong trào cộng sản.
Bên cạnh nguyên lí mac-xit, kế hoạch hoá trong chế độ cộng sản còn dựa trên cơ sở vật chất to lớn và cơ sở tinh thần sâu sắc hơn nhiều. Nếu không có kế hoạch thì làm sao có thể quản lí được nền kinh tế đã hoặc đang chuyển vào tay chỉ một nhóm người? Thiếu kế hoạch thì làm sao có thể đầu tư những khoản tiền to lớn như vậy vào một nền công nghiệp đang phát triển như vũ bão? Trước hết hãy là một nhu cầu rồi sau sẽ trở thành lí tưởng. Kế hoạch hoá của cộng sản diễn ra đúng như thế. Đầu tiên là hướng vào những lĩnh vực có tác dụng củng cố chế độ. Đấy chỉ là nguyên tắc chung vì trong mỗi nước cộng sản, đặc biệt là những nước độc lập với Moskva, đều có những đặc thù và cách làm khác nhau. Nhưng nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các nước.
Dĩ nhiên là phát triển kinh tế nói chung có ý nghĩa sống còn đối với chế độ và sự phát triển của ngành này không thể tách rời với ngành khác. Nhưng trung tâm kế hoạch hoá trong tất cả các nước cộng sản bao giờ cũng nằm trong các lĩnh vực có ý nghĩa quyết định đối với sự ổn định chính trị của chế độ. Và trước hết là các lĩnh vực đảm bảo sức mạnh, vai trò và đặc quyền đặc lợi của giai cấp mới. Chúng đồng thời củng cố chế độ trong lĩnh vực đối ngoại và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. Cho đến nay đấy là các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp quốc phòng. Dĩ nhiên là trong từng nước có thể có những khác biệt. Hiện nay tại Liên Xô ta có thể thấy nền công nghiệp năng lượng nguyên tử đang là lĩnh vực đầu tầu: có thể đấy là do các tính toán về đối ngoại và quân sự mà ra.
Tất cả đều phải phục vụ cho các mục đích do cấp trên quyết định. Vì vậy mà có nhiều lĩnh vực lạc hậu, hoạt động không hiệu quả, mất cân đối, chi phí sản xuất cao và lạm phát định kì là những hiện tượng thường thấy. Theo các số liệu của Andre Philip đầu tư vào công nghiệp nặng của Liên Xô đã tăng từ 53,3% vào năm 1954 lên 60% vào năm 1955. Đầu tư vào công nghiệp năng chiếm 21% GDP trong khi nó chỉ làm tăng có 7,4% GDP trên đầu người, trong đó có đến 6,4% tăng trưởng là do đầu tư mới.
Trong tình hình như thế, mức sống của người dân không làm lãnh đạo phải bận tâm mặc dù theo Marx thì con người là nhân tố sản xuất quan trọng nhất. Theo ông Krankshown, một đảng viên cộng đảng, thì lương 600 rub một tháng phải được coi là không đủ sống, trong khi Harrie Shvars, một nhà báo Mĩ lại cho rằng có đến 8 triệu người chỉ được nhận dưới 300 rub một tháng
[1] . Tribune, một tờ báo của Công đảng, các số liệu tôi dẫn đếu lấy từ báo này, nói thêm: nhiều phụ nữ phải làm các công việc năng nhọc không phải do nhu cầu bình đẳng giới. Việc tăng khoảng 30% lương gần đây ở Liên Xô chính là liên quan đến tầng lớp có thu nhập thấp nói trên.
Đấy là nói về Liên Xô. Các nước cộng sản khác, ngay cả Tiệp Khắc, nơi có cở sở kĩ thuật cao hơn, tình hình cũng tương tự. Nam Tư trước đây từng là nước xuất khẩu nông phẩm thì nay phải nhập. Theo các số liệu thống kê chính thức thì mức sống của công nhân viên chức Nam Tư hiện nay thấp hơn thời trước chiến tranh mặc dù lúc đó nước này được coi là một nước tư bản kém phát triển.
Các lí do chính trị và tư tưởng đóng vai trò quan trọng hơn nhu cầu kinh tế và thường là động lực của nền kinh tế kế hoạch hoá cộng sản. Chính các lí do này đóng vai trò chủ đạo mỗi khi chế độ cần lựa chọn giữa sự tiến bộ kinh tế, mức sống của người dân và quyền lợi chính trị của giới cầm quyền.
Kế hoạch hoá và chuyên chính vô sản (toàn trị) bổ sung cho nhau. Chính những tính toán về chính trị đã thúc đẩy những người cộng sản tập trung đầu tư vào những lĩnh vực nhất định nào đó. Tất cả kế hoạch đều tập trung cho những lĩnh vực này. Chính điều đó đã gây ra mất cân đối mà thu nhập cướp được từ việc quốc hữu hoá các nhà tư sản cũng như địa chủ lớn không thể bù đắp được, giai cấp công nhân phải trả giá bắng mức lương chết đói, còn nông dân thị bị cướp bóc bằng lao động cưỡng bức.
Người ta có thể cãi rằng nếu Liên Xô không thực hiện kế hoạch hoá, không đẩy nhanh công nghiệp hoá thì sẽ buộc phải tham gia chiến tranh thế giới thứ II với hai bàn tay không và sẽ là mồi ngon cho nước Đức phát-xít. Nhưng sự thể không hoàn toàn như vậy. Sức mạnh của quốc gia không chỉ tính bằng số xe tăng và đại bác. Nếu Stalin không theo đuổi những mục tiêu đế quốc về đối ngoại và không tạo ra một chế độ đàn áp toàn diện về mặt đối nội thì đã không có tình trạng là nước đó phải một mình trực diện với quân xâm lược.
Nhưng những câu chuyện theo lối trà dư tửu hậu như vậy thì biết nói đến bao giờ cho xong.
Có thể khẳng định một điều: để có thể phát triển công nghiệp quốc phòng không nhất thiết phải sử dụng phương pháp kế hoạch hoá và phát triển kinh tế mang tính chính trị như thế. Những kẻ hữu sản nắm quyền áp dụng phương pháp đó là do nhu cầu không chịu phụ thuộc vào các lực lượng khác ở cả trong và ngoài nước, mà nhu cầu quốc phòng lại là tác nhân bắt buộc phải có. Liên Xô có thể tiến hành kế hoạch hoá theo cách khác mà vẫn có số vũ khí như thế. Trong trường hợp đó nó phải liên kết mật thiết với thị trường bên ngoài, phụ thuộc vào thị trường này và như thế có nghĩa là phải có chính sách đối ngoại khác. Trong điều kiện đan xen một cách chằng chịt các quyền lợi quốc tế như hiện nay, khi chiến tranh mang tính tổng thể như hiện nay, thì dầu mỡ cũng quan trọng chẳng kém gì súng đại bác. Điều này được khẳng định ngay với Liên Xô: sự giúp đở cũa Mĩ về lương thực thực phẩm cũng có ích không khác gì vũ khí.
Như vậy là kế hoạch hoá Xô Viết là một loại kế hoạch hoá đặc biệt. Nó không phải được tạo ra bởi trình độ kĩ thuật và tính tự giác “xã hội chủ nghĩa”, mà được tạo ra bởi các điều kiện lịch sử, bởi một hình thức chính quyền và hình thức sở hữu nhất định. Ngày nay đã là thời đại của các nhân tố khác, nhưng các nhân tố nêu trên vẫn đóng vai trò quan trọng. Phải nắm được điều đó thì mới hiểu được tính chất của kế hoạch hoá và khả năng của nền kinh tế cộng sản.
Kết quả của nền kinh tế và kế hoạch hoá là khác nhau trong các lĩnh vực.
Việc tập trung toàn bộ phương tiện sản xuất vào tay một nhóm người đã tạo điều kiện cho những tiến bộ cực kì nhanh chóng trong một vài lĩnh vực. Thế giới phải ngạc nhiên trước một số thành tích của Liên Xô. Nhưng sự lạc hậu trong những lĩnh vực khác lại làm cho thành tích thành ra không thể biện hộ được về mặt kinh tế.
Nước Nga Sa Hoàng lạc hậu nay đã trở thành nước đứng thứ hai trong nhiều lĩnh vực. Nó đã là nước có lực lượng bộ binh mạnh nhất thế giới. Có giai cấp công nhân đông đảo, một lực lượng cán bộ khoa học kĩ thuật hùng hậu, có cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng mạnh mẽ.
Nhưng nền chuyên chính thì vẫn như xưa và không có cơ sở để nói rằng mức sống đã được nâng lên phù hợp với khả năng kinh tế.
Với quan hệ sở hữu và quyền lực chính trị như thế, kế hoạch chỉ là phương tiện, việc nâng cao mức sống người dân cũng như nới lỏng chuyên chính là điều không thể xảy ra. Sự độc quyền tuyệt đối của một nhóm người cả trong kinh tế và chính trị, kế hoạch hoá chỉ với mục đích củng cố sức mạnh của nhóm đó ở trong và ngoài nước nhất định sẽ dẫn tới sự tăng thêm đặc quyền đặc lợi và sự phình lên của chính nhóm đó; mức sống của người dân cũng như sự hài hoà của nền kinh tế chỉ đóng vai trò thứ yếu. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là sự mất tự do.
Tự do trong chế độ cộng sản trở thành vấn đề kinh tế quan trọng.
5.
Nền kinh tế kế hoạch hoá của cộng sản hàm chứa trong mình nó sự hỗn loạn. Mặc dù có kế hoạch nhưng ta có thể nói một cách dứt khoát rằng đây là một nền kinh tế lãng phí nhất trong lịch sử loài người. Điều đó mới nghe có vẻ kì quặc, nhất là nếu ta thấy sự phát triển nhanh trong một vài lĩnh vực và cả nền kinh tế nói chung. Nhưng khẳng định trên hoàn toàn có căn cứ.
Ngay cả trong trường hợp mà nhóm người nắm quyền không lãnh đạo tất, kể cả lãnh vực kinh tế, chỉ trên cơ sở những tính toán về tư tưởng và sở hữu hạn hẹp của mình, thì cũng không thể nào tránh được những mất mát khủng khiếp, những mất mát không thống kê nổi.
Liệu những người ấy, ngay cả khi họ không nhìn mọi sự từ đỉnh cao quyền lực của mình, có thể quản lí một cách tiết kiệm và hữu hiệu nền kinh tế hiện đại phức tạp, dù với những kế hoạch hoàn thiện nhất, nhưng vẫn luôn luôn xuất hiện những xu hướng đối nghịch nhau hay không?
Việc thiếu không những sự phê phán mà thiếu ngay những “gợi ý” từ bên ngoài nhất định sẽ dẫn tới trì trệ và tổn thất không thể chấp nhận được.
Đấy là những tổn thất không thể tránh được, dù có muốn. Do thái độ của những người cộng sản đối với nông dân nên cả một dân tộc đã coi thường nông nghiệp và đầu tư quá mức vào công nghiệp nặng thì hậu quả sẽ như thế nào? Bao nhiêu đồng vốn đã đầu tư một cách lãng phí vào những ngành kém hiệu quả? Việc coi thường nhu cầu giao thông sẽ đưa đến đâu? Tiền lương thấp dẫn đến lãn công và sản phẩm hỏng, kém chất lượng. Không có cách và không một kế toán viên nào có thể tính được tất cả các khoản đó.
Coi thường ngay cả lí thuyết của chính mình, không có lĩnh vực nào mà các lãnh tụ cộng sản lại có thái độ chủ quan như đối với lĩnh vực kinh tế. Thái độ duy ý chí gây ra nhiều tai hoạ nhất trong lĩnh vực này. Những nhà lãnh đạo cộng sản dù có muốn (nhỡ chuyện ấy xảy ra thì sao?) cũng không thể tính toán được hết các lợi ích khách quan của toàn bộ nền kinh tế. Vì những toan tính chính trị, lúc nào họ cũng sẵn sàng tuyên bố một vấn đề nào đó là “quan trọng sống còn”, “có ý nghĩa quyết định” (đối với họ có thể là như thế thật), nhưng đồng thời không gì có thể cản trở họ thực hiện những điều đã định vì họ đâu có sợ mất quyền lực và quyền sở hữu.
Những khi công việc quá trì trệ hoặc có những tổn thất rõ ràng thì họ lại làm cái việc gọi là phê bình và tự phê bình, rút kinh nghiệm. Khrushchev phê phán chính sách nông nghiệp của Stalin, Tito phê bình chế độ của mình vì đầu tư sai và lãng phí hàng tỉ đồng. Nhưng bản chất thì vẫn thế. Vẫn những người đó, vẫn những phương pháp đó và vẫn hệ thống đó; vấn đề chỉ còn là lúc nào thì lại xuất hiện các “lệch lạc” mà thôi. Không thể nào tìm lại tài sản đã mất, nhưng đảng và chế độ lại chẳng phải chịu trách nhiệm gì. Họ đã “rút kinh nghiệm” và “hứa sửa chữa”. Tóm lại, “hãy nhìn việc họ làm, chớ nghe lời họ nói”...
Không một lãnh tụ cộng sản nào từng bị trừng phạt vì lãng phí những nguồn tài sản khổng lồ, song có rất nhiều người đã bị lật vì “lệch lạc” về tư tưởng.
Ăn cắp và lãng phí khối tài sản khổng lồ trong các chế độ cộng sản là việc không thể nào tránh được. Mọi người đều được phép thò tay vào khối tài sản này không phải vì nhu cầu mà đơn giản nó gần như là tài sản vô chủ. Giá trị dường như không còn là giá trị nữa và đấy chính là điều kiện thuận lợi cho việc ăn cắp và lãng phí. Ở Nam Tư năm 1954 đã phát hiện 20 ngàn trường hợp ăn cắp “tài sản xã hội”. Các lãnh tụ cộng sản nắm giữ tài sản quốc gia như tiền của mình nhưng đồng thời lại phung phí nó như tiền chùa vậy. Bản chất của sở hữu, của quyền lực trong chế độ cộng sản là như thế đấy.
6.
Nhưng việc lãng phí lớn nhất chính là lãng phí lao động.
Hàng triệu người làm việc một cách uể oải, không hề quan tâm đến kết quả lao động của mình, sự cấm đoán những hoạt động bị dán nhãn “phi xã hội chủ nghĩa” ngay cả khi đó không phải là lao động bóc lột là những lãng phí không thể thống kê nhưng vô cùng lớn mà không một chế độ cộng sản nào có thể tránh được. Học thuyết của Smith, được Marx chấp nhận, coi lao động sống là cội nguồn của mọi giá trị, nhưng các lãnh tụ cộng sản lại ít quan tâm đến lao động sống nhất, họ lãng phí nó như một vật chẳng có giá trị gì, hoặc coi như nguồn lực lúc nào cũng có thể bổ sung được.
Nỗi hoảng loạn của những người cộng sản trước viễn cảnh “phục hồi chủ nghĩa tư bản”, các biện pháp kinh tế mang màu sắc chính trị và quyền lợi giai cấp hẹp hòi đã gây ra những mất mát khủng khiếp cho các dân tộc, kìm hãm sự phát triển của các quốc gia nằm dưới quyền thống trị của họ.
Bao nhiêu ngành nghề đã chết vì nhà nước không thể bao cấp được cho hoạt động của những ngành này; chỉ “quốc doanh” mới được coi là xã hội chủ nghĩa. Đúng như câu châm ngôn: “Chó già giữ xương”.
Dân tộc làm sao chịu đựng và có thể chịu đựng điều đó đến bao giờ? Liệu đã tới lúc khi mà chính nền công nghiệp - ban đầu nó đã dựa vào những người cộng sản để phát triển - sẽ có khả năng giúp thủ tiêu cả quyền lực, cả hình thức sở hữu này?
Biết bao tiền của đã bị lãng phí vì sự cô lập của các nền kinh tế cộng sản.
Tất cả các nền kinh tế cộng sản về thực chất đều là tự cấp tự túc. Nguyên nhân cũng là vì tính chất của quyền lực và hình thức sở hữu của chúng. Không có nhà nước cộng sản nào, kể cả Nam Tư, do mâu thuẫn với Moskva mà buộc phải mở rộng quan hệ với các nước phi cộng sản, vượt qua được trao đổi hàng hoá truyền thống trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Kế hoạch hoá cộng sản khởi kì thuỷ không hề quan tâm đến nhu cầu của thị trường thế giới và quá trình sản xuất ở các nước khác. Một phần vì lí do đó và cũng vì những lí do chính trị mà các nhà lãnh đạo cộng sản không hề quan tâm đến việc tạo điều kiện thuận lợi tự nhiên cho việc phát triển sản xuất. Các xí nghiệp thường thiếu cơ sở nguyên vật liệu, người ta không bao giờ quan tâm tới giá và giá thành của từng sản phẩm trên thị trường thế giới. Một sản phẩm nào đó có thể đắt gấp mấy lần giá trên thị trường quốc tế vẫn được đầu tư sản xuất, trong khi lĩnh vực khác có hiệu quả cao hơn, có khả năng cạnh tranh thì lại bị bỏ bê. Có những ngành mới được thành lập mặc dù trên thị trường quốc tế sản phẩm trong lĩnh vực này đã tràn ngập từ lâu. Nhân dân phải trả giá hết: các nhà lãnh đạo chỉ cần độc lập mà thôi.
Đấy là một phần vấn đề phải nói là chung cho mọi chế độ cộng sản.
Vấn đề khác, cuộc chạy đua của nước xã hội chủ nghĩa mạnh nhất, tức là Liên Xô, với các nước tư bản phát triển khác để nhằm “đuổi kịp” và “vượt” họ. Cái giá phải trả là bao nhiêu? Và điều đó sẽ dẫn đến đâu?
Có thể Liên Xô sẽ đuổi kịp các nước tư bản phát triển trong một hoặc một số lĩnh vực nào đó. Cái giá phải trả là sự hao phí sản xuất cực kì khủng khiếp, đồng lương công nhân thấp và sự tụt hậu của những ngành khác. Biết bao nhiêu hi sinh và cố gắng, về mặt kinh tế có đáng giá hay không lại là một câu hỏi khác.
Các kế hoạch như vậy tự chúng đã có tính chất gây hấn. Phía bên kia sẽ nghĩ gì: trong khi mức sống nhân dân còn thấp, chính phủ Liên Xô muốn dẫn đầu thế giới về sản xuất than và dầu khí để làm gì? Cùng tồn tại hoà bình và hợp tác hữu nghị sẽ như thế nào nếu đấy là kết quả của cuộc chạy đua về công nghiệp nặng trong khi trao đổi hàng hoá lại rất nghèo nàn? Làm thế nào để hợp tác nếu các nền kinh tế cộng sản đều đóng kín trong khi trên trường quốc tế họ chỉ tranh chấp về lĩnh vực tư tưởng?
Các kiểu kế hoạch và quan hệ như thế, sức lao động và các nguồn lợi khác của nước mình và các nước khác bị phí phạm như thế không thể biện minh được dù đứng trên quan điểm nào, ngoại trừ quan điểm của những thủ lĩnh cộng sản. Sự tiến bộ về mặt kĩ thuật và nhu cầu luôn luôn thay đổi của đời sống sẽ đẩy khi thì lĩnh vực này, khi thì lĩnh vực khác thành ra lĩnh vực quan trọng không chỉ trên bình diện quốc gia mà trên bình diện quốc tế nữa. Nếu 50 năm nữa thép và dầu không còn là những lĩnh vực quan trọng nhất thì sao? Chuyện này và nhiều chuyện khác nữa không phải là mối bận tâm của các lãnh tụ cộng sản.
Mức độ tương tác của các nền kinh tế cộng sản, trước hết là Liên Xô, với thế giới bên ngoài, ước muốn làm sâu sắc thêm các mối quan hệ đó tụt hậu rất xa so với các khả năng, kể cả khả năng về kĩ thuật. Ngay trình độ hiện thời đã cho phép một sự hợp tác rộng lớn hơn rất nhiều.
Không sử dụng các điều kiện hiện có để hợp tác với các nước khác trong khi lại đẩy mạnh các quan hệ với thế giới bên ngoài dưới góc độ tư tưởng là hậu quả tất yếu của sự độc quyền của những người cộng sản trong lĩnh vực kinh tế và ước muốn duy trì quyền lực của họ. Bản chất hệ thống của họ là như thế.
Lenin đã đúng khi cho rằng chính trị là “kinh tế cô đặc”. Trong chế độ cộng sản mọi thứ dường như đều lộn ngược: kinh tế trở thành chính trị, chính trị đóng vai trò quyết định trong kinh tế.
Cô lập với thị trường quốc tế, bảo vệ một cách mù quáng khái niệm “hệ thống thị trường quốc tế xã hội chủ nghĩa” mà thực chất vẫn là tự cấp tự túc của khối xã hội chủ nghĩa, là một trong những nguyên nhân, nếu không nói nguyên nhân quan trọng nhất của tình trạng căng thẳng quốc tế cũng như lãng phí các nguồn tài nguyên trên bình diện quốc tế.
Độc quyền về sở hữu, các phương pháp sản xuất lạc hậu, ai sở hữu hay phương pháp nào không quan trọng, quan trọng là điều đó mâu thuẫn với nhu cầu của nền kinh tế quốc tế. Tự do và quyền sở hữu đã trở thành vấn đề quốc tế.
Không nghi ngờ gì rằng việc xoá bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa trong các nước cộng sản lạc hậu đã tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, dù là sự phát triển mất cân đối. Đã xuất hiện những nhà nước mạnh, có sức chịu đựng cao, đầy sinh lực. Các nhà nước đó được một giai cấp tự tin và cuồng tín, một giai cấp vừa được nếm vị ngọt của quyền lực và quyền sở hữu dẫn dắt. Nhưng điều đó đã không giải quyết (và với hình thức sở hữu và chính quyền hiện nay thì không thể giải quyết) được những vấn đề mà phong trào xã hội chủ nghĩa thế kỉ XIX hoặc Lenin đặt ra, nó cũng không thể đảm bảo được sự phát triển kinh tế một cách bình thường, không bị những khó khăn và chao đảo.
Nhưng đây là vấn đề cần thảo luận riêng.
Hệ thống kinh tế cộng sản có sức mạnh vì được tập trung vào tay một nhóm người, hấp dẫn vì có tính mới mẻ và đạt được những thành tựu, dù là thiếu cân đối, trong một thời gian ngắn. Nhưng đồng thời nó cũng cho thấy những vết rạn nứt và mặt tiêu cực ngay từ khi hình thái kinh tế này bao trùm lên toàn xã hội. Mặc dù vẫn giữ được một số tiềm năng cũ, hệ thống kinh tế đã bắt đầu có vấn đề. Tương lai của nó rất mù mờ, muốn sống còn nó sẽ phải chiến đấu một cách quyết liệt với cả kẻ thù bên trong lẫn bên ngoài.
Khủng bố về mặt tinh thần
1.
Sau khi giành được chính quyền, những người cộng sản đã thực hiện việc khủng bố về mặt tinh thần với một sự khéo léo đến trơ trẽn. Chủ nghĩa duy vật cộng sản có thể là thế giới quan bất dung nhất từ trước tới nay, chỉ điều này cũng đủ để có thể buộc các tín đồ của nó tiến hành những cuộc khủng bố “những quan điểm không phù hợp”. Nhưng nếu thế giới quan ấy không liên kết với những hình thức quyền lực và sở hữu nhất định thì người ta cũng không thể nào dùng nó để biện hộ cho tính chất quái gở của việc đàn áp và tiêu diệt tư duy của con người như đã từng xảy ra.
Mọi hệ tư tưởng cũng như mọi quan điểm đều cố gắng làm ra vẻ như là quan điểm duy nhất đúng, duy nhất không có tì vết nào. Bản chất tư duy của con người là như thế.
Ý định của Marx và Engels trong việc coi học thuyết của mình là đặc biệt không chỉ được thể hiện trong tư tưởng của họ mà còn thể hiện rõ trong cách mà tư tưởng đó được khẳng định. Chính họ đã phủ nhận mọi đóng góp về mặt khoa học và giá trị “xã hội - tiến bộ” của những người cùng thời với mình. Thay vì thảo luận và phân tích thì họ gán cho ý kiến của những người đó cái nhãn “khoa học tư sản”.
Gót chân Achilles của chủ nghĩa Marx, sự hẹp hòi của Marx và Engels (đây chính là môi trường sinh sống cho thái độ bất dung của chủ nghĩa cộng sản về sau) thể hiện rõ nhất trong việc họ không chịu tách thái độ chính trị của những nhà khoa học, nhà tư tưởng đương thời khỏi giá trị khoa học và đạo đức của những trước tác của họ. Họ đã áp dụng thái độ: “ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng” với các nhà tư tưởng đương thời.
“Bóng ma của chủ nghĩa cộng sản” đã gặp sự phản đối mạnh mẽ ngay từ đầu là vì thế.
Quan điểm bất dung thái quá của các “tổ sư” cộng sản xuất phát từ cội nguồn học thuyết của họ: tin rằng không có ngôi sao nào trên bầu trời triết học nữa, hơn nữa họ còn cho rằng nếu có điều gì đó đáng giá xuất hiện thì nó nhất định phải dựa trên cơ sở học thuyết của họ. Tinh thần thượng tôn khoa học của thời đại cũng như nhu cầu của phong trào xã hội chủ nghĩa lúc đó làm cho Marx và Engels coi mọi hiện tượng "không quan trọng” đối với họ (không thúc đẩy phong trào) đều là thiếu khách quan và ít ý nghĩa.
Quá quan tâm đến việc định rõ danh giới “có tính nguyên tắc” trong đội ngũ của mình, trong thực tế họ đã bỏ quên đóng góp của những nhà tư tưởng lớn đương thời.
Trong các trước tác của mình, họ không hề nhắc đến, thí dụ, nhà triết học lớn như Schopenhuaer, hay nhà mĩ học Tan hoặc các nhà văn và hoạ sĩ lớn cùng thời. Ngay những người say mê tư tưởng và tương lai do họ vẽ ra cũng ít được nói tới. Marx và Engels sử dụng một phương pháp đầy bất dung và tìm cách “thanh toán” những kẻ thù của phong trào xã hội chủ nghĩa, hệt như các nhà cách mạng trước đây đã từng dùng với những kẻ thù của mình. Có thể phản bác đóng góp của Proudhon cho khoa xã hội học, nhưng không ai có thể nghi ngờ giá trị những việc ông đã làm cho sự phát triển của phong trào xã hội chủ nghĩa và cuộc đấu tranh xã hội, nhất là ở Pháp. Ta có thể nói tương tự như vậy về Bakunin. Trong cuốn S
ự khốn cùng của triết học, Marx không chỉ tranh cãi với Proudhon mà còn coi ông này chẳng có tí giá trị gì. Marx và Engels cũng có hành động tương tự với Lassalle và những người đối lập khác trong phong trào của mình.
Mặt khác họ lại có khả năng đánh giá chính xác các sự kiện lớn của thời đại: thí dụ họ là những người đầu tiên đồng ý với Darwin, họ nắm vững các giá trị vĩnh hằng của quá khứ Cổ đại và Phục hưng vốn là cội nguồn của văn hoá châu Âu. Về mặt xã hội học, họ dựa vào kinh tế chính trị học (Smith, Ricardo), về triết học họ dựa vào triết học cổ điển Đức (Kant, Hegel), về lí thuyết phát triển xã hội họ dựa vào chủ nghĩa xã hội Pháp, đúng hơn là các xu hướng diễn ra sau cách mạng Pháp. Đấy đều là những đỉnh cao của tư tưởng khoa học, xã hội học của châu Âu dân chủ và tiến bộ và của cả loài người nói chung.
Nếu so sánh với Lenin thì ta thấy Marx là một nhà khoa học lớn, có thái độ khách quan hơn. Lenin trước hết là một nhà cách mạng vĩ đại, được tôi luyện trong chế độ chuyên chế, tư bản nửa thuộc địa của nước Nga và cuộc đấu tranh giành thị trường của các tập đoàn độc quyền thế giới.
Dựa vào tư tưởng của Marx, Lenin đã đi đến kết luận rằng chủ nghĩa duy vật, nếu nhìn qua lăng kính lịch sử thế giới, là tiến bộ, còn chủ nghĩa duy tâm là phản động. Phải nói rằng kết luận này không những là phiến diện, nghĩa là thiếu chính xác, mà còn làm cho lí thuyết của Marx vốn đã độc tôn còn độc tôn hơn. Cũng cần phải nói rằng nguyên nhân đầu tiên chính là sự thiếu hiểu biết về lịch sử triết học của chính Lenin. Vào năm 1908, khi viết cuốn
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Lenin chưa thật sự hiểu các nhà triết học cổ đại cũng như đương đại. Muốn mau chóng đập tan các kẻ thù tư tưởng, những người cản trở sự phát triển của phong trào, ông đã bỏ qua một bên tất cả những gì không phù hợp với quan điểm cách mạng của Marx. Tất cả những gì trái ngược với chủ nghĩa Marx đều bị ông coi là sai, là vô nghĩa và vô giá trị.
Có thể coi các trước tác của Lenin là khuôn mẫu của giáo điều, rất lôgic và có sức thuyết phục.
Cảm thấy rằng trong lịch sử, chủ nghĩa duy vật luôn luôn là hệ tư tưởng của các phong trào cách mạng, phong trào bạo loạn, Lenin rút ra kết luận phiến diện rằng về nguyên tắc (kể cả áp dụng cho việc nghiên cứu các qui luật phát triển của tư duy) chủ nghĩa duy vật là tiến bộ còn duy tâm là phản động. Đi xa hơn, Lenin đã trộn lẫn hình thức và phương pháp với nội dung và tính khoa học của mọi phát minh khoa học. Đối với Lenin chỉ cần một người có quan điểm duy tâm thì ngay lập tức các đóng góp thực tế cũng như vai trò của người đó trong khoa học đều là “đồ bỏ” hết. Ông đã mở rộng thái độ bất dung về chính trị đối với kẻ thù của mình thành thái độ bất dung đối với toàn bộ lịch sử tư tưởng thế giới.
Triết gia người Anh, ông Bertrand Russell, người có cảm tình với Cách mạng tháng Mười ngay từ năm 1920 đã phát hiện được bản chất của của chủ nghĩa giáo điều của Lenin, cũng có nghĩa là cả chủ nghĩa cộng sản như sau:
“Tôi có những bất đồng về mặt nguyên tắc với một vài khía cạnh của chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản, đấy không chỉ là một học thuyết chính trị, nó còn là một tôn giáo với một giáo lí hoàn chỉnh và những cuốn kinh thánh. Định chứng minh một điều gì đó, chỉ cần có cơ hội, là bao giờ Lenin cũng trích dẫn Marx và Engels. Người cộng sản chân chính không chỉ là người thừa nhận quan điểm rằng đất đai và tư bản phải là của chung mà còn phải công nhận rằng tất cả sản phẩm làm ra phải được chia một cách công bằng nhất. Đấy còn là người chấp nhận một số định đề giáo điều có sẵn (thí dụ như chủ nghĩa duy vật), các định đề có thể phù hợp với chân lí nhưng về mặt khoa học thì không thể chứng minh một cách không chối cãi được rằng đấy chính là chân lí... Tôi tin tưởng rằng phương pháp khoa học là đặc biệt quan trọng đối với nhân loại. Nếu một hệ thống kinh tế công bằng hơn nào đó có thể được xây dựng với cái giá phải trả là không được tự do nghiên cứu nữa và trở về với thời kì đen tối Trung cổ thì tôi cho rằng giá đó là quá cao. Nhưng cũng phải công nhận rằng trong một khoảng thời gian ngắn nào đó chủ nghĩa giáo điều có thể có lợi cho cuộc đấu tranh”
Thời Lenin đã là như thế.
Tuy không có kiến thức sâu sắc và chiều sâu tư tưởng như Lenin, Stalin tiếp tục “phát triển” lí luận của ông này.
Ta có thể thấy rằng con người cho đến nay vẫn được Khrushchev coi là “nhà lí luận mac-xit số một” thực ra chưa hề đọc
Tư bản, tác phẩm quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx. Một người cực kì thực tế và giáo điều đã tự tạo ra “học thuyết về xây chủ nghĩa xã hội” mà không cần đọc các tác phẩm về kinh tế của Marx ! Ông cũng không nghiên cứu bất kì một nhà triết học nào, Hegel thì bị coi là “con chó già” và là “phản ứng của chủ nghĩa chuyên chế Phổ đối với cách mạng Pháp”.
Đồng thời ông lại hiểu rõ Lenin, thường trích dẫn Lenin hơn cả Lenin trích dẫn Marx. Các tác gia khác cũng được Stalin trích dẫn theo Lenin. Điều duy nhất mà ông nắm vững là lịch sử chính trị, đặc biệt là lịch sử Nga, phải nói thêm rằng ông có một trí nhớ siêu quần.
Để đóng vai của mình, Stalin chỉ cần có thế. Tất cả những gì không phù hợp với ước muốn và sự hiểu biết của ông đều bị ông coi là “thù địch” và cấm tiệt.
Ba người, Marx, Lenin, Stalin không chỉ khác nhau như những cá nhân mà khác nhau cả cách hành văn nữa.
Ở Marx, người ta thấy hình ảnh một nhà cách mạng, một giáo sư với văn phong sống động, tự do và cực kì sắc bén. Lenin là hiện thân của cách mạng, văn phong của ông có lửa, chặt chẽ và sắc sảo. Stalin tự coi mình là hiện thân của những khát vọng của nhân dân, còn tư tưởng của mình là đỉnh cao của trí tuệ loài người. Văn phong của Stalin đơn điệu, thiếu sức sống; nhưng chính nhờ tính chất lôgic và giáo điều mà nó lại có tính thuyết phục đối với nhiều người. Sự đơn giản này rất giống với giọng văn cô đọng của các thày tu, điều đó không chỉ là do thời trai trẻ Stalin đã từng theo học trong trường dòng và mà còn phản ánh chính xác tư duy giáo điều của những người cộng sản.
Không ai trong số những người kế tục Stalin có được sự hài hoà nội tại nghiêm khắc của “lãnh tụ vĩ đại”, niềm tin và sức cuốn hút giáo điều như ông. Là những người tầm thường trong mọi lĩnh vực nhưng họ lại là những người rất thực tế. Không có khả năng tạo dựng những hệ thống mới, không thể đưa ra được những ý tưởng hay ho nhưng họ lại có thể (nhờ khả năng nắm bắt được hiện thực) ngăn chặn được những cái mới hoặc bóp chết mọi sáng kiến từ trong trứng nước.
Chủ nghĩa giáo điều trong tư tưởng cộng sản đã phát triển như thế đấy. “Sự phát triển của chủ nghĩa Marx” cùng với việc củng cố giai cấp cầm quyền mới như vậy là đã dẫn tới không chỉ sự độc quyền của một sơ đồ tư tưởng duy nhất mà còn tạo ra sự bao cấp về tư tưởng của một người hoặc một nhóm người và như vậy kết quả nhất định sẽ là sự trì trệ về tinh thần và sự nghèo nàn của chính hệ tư tưởng kia. Đồng thời thái độ bất dung đối với mọi quan điểm khác, đối với tư duy nói chung lại ngày một tăng thêm. Lực tác động cũng như sức sống của hệ tư tưởng này tỉ lệ nghịch với “sức khoẻ” của những người đại diện cho nó.
Trở thành “một chiều” và bất dung hơn, chủ nghĩa cộng sản hiện đại càng ngày càng sản sinh ra thêm nhiều những “nửa” sự thật hoặc là dùng những nửa sự thật như thế để che đậy hành tung của mình. Mới nhìn thì một vài khía cạnh của nó có vẻ giống y như thật. Nhưng chính nó lại chứa đầy dối trá. Khi toàn bộ đời sống xã hội bị đặt dưới quyền kiểm soát của các lãnh tụ cộng sản thì những nửa sự thật kia, thậm chí cả lí thuyết cộng sản càng ngày càng mất khả năng vận động và chìm dần vào dối trá.
2.
Việc áp dụng luận điểm cho rằng chủ nghĩa Marx là phương pháp toàn năng mà người cộng sản phải luôn luôn sử dụng nhất định sẽ dẫn đến sự khủng bố đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống tinh thần.
Nhà vật lí sẽ làm thế nào nếu các nguyên tử không chịu tuân theo nguyên lí thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập của Hegel và Marx? Nhà thiên văn học sẽ làm thế nào nếu vũ trụ không tuân theo biện chứng pháp cộng sản? Nhà sinh vật học sẽ phải hành động ra sao nếu cây cối không chịu theo lí luận của Stalin và Lưshenko về sự hợp tác giữa các giai cấp trong “xã hội xã hội chủ nghĩa”? Không thế nói dối “một cách chân thành” các nhà khoa học đành phải trả giá vì “tà thuyết” của mình. Các phát minh của họ chỉ có thể được công nhận nếu chúng “khẳng định” các công thức macxit- lêninit. Các nhà khoa học cứ phải thường xuyên tìm cách lái các kết quả hoặc phát minh của họ sao cho không trái ngược với giáo điều chính thống. Khoa học bị buộc phải trở thành cơ hội và thoả hiệp. Các lĩnh vực lao động trí óc khác cũng có số phận tương tự.
Sự bất dung của phong trào cộng sản hiện đại làm người ta nhớ đến các giáo phái thời Trung cổ.
Trong chủ nghĩa cộng sản hiện đại người ta có thể thấy sự bất dung giáo điều của những người Thanh giáo thời Cromwell và chính sách không khoan nhượng của phái Jacobin. Dù sao vẫn có một khác biệt, nhưng đấy không phải là vì những người Thanh giáo tin tưởng tuyệt đối vào Kinh thánh còn cộng sản thì tin vào khoa học hay quyền lực của cộng sản thì bao trùm hơn Jacobin. Sự khác biệt nằm trong khả năng: không một tôn giáo hay một nền chuyên chế nào từng có một sức mạnh vô giới hạn và toàn diện như các chế độ cộng sản.
Vị trị của họ càng được củng cố thì các lãnh tụ cộng sản càng thêm tin rằng họ đã chọn được con đường duy nhất đúng để đi tới hạnh phúc và xã hội “lí tưởng”. Đã có một câu chuyện tiếu lâm rằng các lãnh tụ cộng sản xây dựng chủ nghĩa cộng sản cho chính mình. Nhưng các lãnh tụ đã không đùa khi đồng nhất mình với xã hội, với khát vọng của mọi người dân. Chế độ chuyên chế cực quyền song hành với niềm tin không lay chuyển vào hạnh phúc tối cao của nhân loại, còn sự vạn năng của phương pháp và bao trùm của thế giới quan thì song hành với sự bao trùm và vạn năng của áp bức.
Chính quá trình phát triển đã biến các ông trùm cộng sản thành các cai ngục của lương tâm con người, sự bao cấp về tư tưởng tăng lên theo đà phát triển của sức mạnh và “sự thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Nam Tư cũng không tránh khỏi qui luật đó. Ở đây các lãnh tụ thường xuyên nhấn mạnh “tính tự giác cao của nhân dân ta” trong thời kì cách mạng, nghĩa là khi nhân dân, đúng hơn là một bộ phận nhân dân đã tích cực ủng hộ họ. Ngày nay, cũng theo lời các lãnh tụ này, ý thức tự giác “của nhân dân” rất thấp cho nên không thể có dân chủ ngay được. Các lãnh tụ cộng sản Nam Tư tuyên bố công khai rằng khi tính tự giác xã hội chủ nghĩa phát triển cao, họ tin rằng ngày đó sẽ tới cùng với việc hoàn thành công nghiệp hoá, thì họ sẽ mở cánh cửa dân chủ. Khi ngày đó chưa tới thì họ lại tin tưởng tuyệt đối rằng họ có quyền, nhân danh tự do và hạnh phúc trong tương lai, dày xéo lên mọi mầm mống của những tư tưởng và quan điểm đối nghịch với họ.
Các lãnh tụ Xô Viết không cần phải dùng thủ đoạn giả dối như thế. Họ tin tưởng và tuyên bố rằng đất nước đã có dân chủ rồi. Nhưng phải nói rằng chính họ cũng thấy con thuyền đang chao đảo. Họ cũng thường xuyên phải “nâng cao” ý thức của nhân dân, nghĩa là bắt dân chúng phải học thuộc lòng các công thức Marx-Lenin và các chỉ thị của lãnh đạo. Tệ hơn nữa, họ còn bắt buộc dân chúng phải thề nguyền trung thành với chủ nghĩa xã hội, trung thành với tổ quốc và tin vào sự lãnh đạo và những lời hứa suông của họ.
Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Giống như thời Trung cổ khi người ta luôn luôn phải chứng tỏ rằng mình là người trung thành với nhà thờ.
Bắt đầu ngay từ nhà trường, với hệ thống giáo dục và sau đó là tất cả mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần cũng như đời sống xã hội đều nhằm mục đích đó. Đảng cầm quyền quan tâm đến tính tự giác, lương tâm và sự “phát triển” của con người từ khi sinh ra cho đến tận lúc chết. Các nhà báo, các nhà tư tưởng, các văn nô, các trường học chuyên biệt, một hệ tư tưởng chủ đạo duy nhất, một khối lượng tài sản khổng lồ được chi ra cho công việc đó. Để cho bức tranh được toàn vẹn phải kể thêm số lượng khổng lồ các loại sách, loại báo, báo in, báo nói, báo hình và các loại tuyên truyền khác.
Mặc dù vậy, thành tích thu được thật là khiêm tốn và không tương xứng với chi phí cũng như biện pháp tiến hành (ngoại trừ đối với chính giai cấp mới, dĩ nhiên là họ luôn luôn tuân thủ đường lối do chính họ lựa chọn)
Nhưng họ chỉ giành được kết quả khi tiến hành đàn áp các sáng kiến không phù hợp với hệ tư tưởng chính thống cũng như cố tình tiêu diệt mọi tư tưởng đối nghịch.
Trong chế độ cộng sản người ta không thể tư duy mà không có hướng dẫn. Hơn nữa người ta lại thường suy nghĩ khác với chỉ đạo. Xuất hiện tư duy nước đôi: cách nghĩ ngầm, cho mình, và có một cách nữa là để trưng ra, theo tiêu chuẩn chung. Đánh giá các sự kiện cũng theo kiểu nước đôi như vậy.
Điều đó phản ánh, một mặt là kinh nghiệm của quần chúng và mặt khác là sức mạnh của những người cộng sản.
Con người dưới chế độ cộng sản không những bị ngu dân vì sự tuyên truyền mà còn đau khổ vì không thể nhận chân được sự thật, không vươn tới được các ý tưởng mới. Trong lĩnh vực này thì sự tha hoá, thối nát nhiều hơn là “thành tích”.
Các lãnh tụ cộng sản, những kẻ bao cấp về tinh thần, luôn luôn tiến hành theo dõi để tư tưởng của dân chúng không “đi lạc vào khu vực chống cộng”, họ chỉ chuyên cung cấp cho dân chúng hàng tiêu dùng loại hai (những tư tưởng cũ rích, đã hoá đá và không có khả năng thay đổi), chính họ đã đầu độc, giết chết đời sống tinh thần của dân tộc mình. Họ đã nghĩ ra một hình thức giết người vô tiền khoáng hậu - giết chết tư tưởng và hành xử với con người cũng như tư duy của con người không khác gì người ta hành xử với búi cỏ trên sa mạc. Khi giết chết tư tưởng của người khác, không cho tư tưởng người khác được tự do bay bổng thì chính họ cũng trở thành một bọn người nhạt nhẽo, trống rỗng, một bọn người không hề biết đến những phút giây hạnh phúc của tư duy trầm mặc thâm sâu. Cả xã hội giống như một nhà hát không khán giả. Họ tư duy theo kiểu nhai lại: khi có nhu cầu là đầu óc bắt đầu xào xáo những ý cũ rích. Công việc của những cố-đạo-cảnh-sát-viên, đồng thời là chủ nhân ông không những của các phương tiện hoạt động trong lĩnh vực tinh thần như nhà in, đài phát thanh,... mà còn là chủ nhân của các phương tiện vật chất liên quan đến đời sống của từng con người như nhà ở và bánh mì, là như thế đấy.
Như vậy thì chủ nghĩa cộng sản hiện đại có khác gì một giáo phái?
© 2005 talawas
[1]Đây là mức lương trước vụ đổi tiền năm 1961. Sau này tương ứng là 60 và 30 rub.