Chương hai
Ý thức tuyệt vọng-Triết lý bi đát của Clément Rosset trong tác phẩm của Ernest Hemingway.
Không… không còn gì để nói
Hemingway (trang cuối của A Farewell to Arms)
1.
Clément Rosset là triết gia Pháp thuộc thế hệ “đợt sóng mới”; lúc cho xuất bản quyển cảo luận về triết lý Bi đát (Philosophie tragique), Clément Rosset mới hai mươi tuổi.
Hemingway đã viết những tác phẩm quan trọng của ông trước khi Clément Rosset ra đời; nhưng toàn thể tác phẩm Hemingway đều chứa đựng ý thức bi đát mãnh liệt hơn cả triết lý bi đát của Clément Rosset. Ý thức bi đát được thể hiện mãnh liệt nhứt trong quyển The sun also rises, truyện “The snows of Kilimandjaro”, những truyện In our time và quyển For whom the bell tolls, nhưng đến quyển The old man and the sea thì ý thức bi đát hoàn toàn trở thành bi tráng.
Trong chương này, tôi sẽ dùng triết lý bi đát của Clément Rosset để soi rọi vài khía cạnh của quyển A Farewell to Arms (Adieu aux armes), quyển tiểu thuyết tượng trưng nhứt và đặc sắc nhứt của Hemingway.
Chương này đã đăng trên tạp chí Mai số 47 vào năm 1962.
(Có một vài độc giả viết thư cho tôi, tỏ vẻ thắc mắc về vài ba trang trong quyển tiểu thuyết Yêu của ông Chu Tử; ông ấy có cho nhân vật bàn về triết lý bi đát của Clément Rosset và quyển A Farewell to Arms của Hemingway; vị độc giả trên tỏ vẻ thắc mắc tại sao trong quyển Yêu (khi bàn về triết lý bi đát của Clément Rosset và Hemingway) thì ông Chu Tử đã viết giống hệt như tôi viết trong tạp chí Mai vào năm 1962. Xin trả lời vắn tắt: ông Chu Tử đã chép lại bài tôi viết trong Mai, và vì lý do nào đó mà ông không ghi xuất xứ. Sở dĩ ông Chu Tử không ghi xuất xứ là vì điều đó có lẽ không cần thiết đối với loại văn tiểu thuyết chăng?) (xin đọc Yêu của ông Chu Tử, trang 197-199, nhà x.b. Đường Sáng, 1963).
2.
Xin dịch chữ “tragique” (trong Philosophie tragique của Clément Rosset) là “bi đát” vì chữ “đát” có mang ý nghĩa về kinh ngạc, ăn khớp với định nghĩa của Clément Rosset: “Le surprenant par essence”. Còn chữ “tragique” trong tư tưởng Nietzsche thì phải dịch là “bi tráng”. Chữ “bi tráng” này cũng dùng để dịch chữ “tragique” trong tư tưởng bi tráng kịch của cổ Hy Lạp như kịch của Eschyle, Sophocle, vân vân. Có người hiểu sai chữ “tragique” (như một bài của ông Trần hương Tử trong tạp chí Bách Khoa).
“Tragique” không có nghĩa là “kinh khủng” (terrible) và “thê thảm” (triste), mà “tragique” lại có nghĩa là cái gì chống lại sự kinh khủng và thê thảm; “tragique” là ngây ngất say sưa chinh phục và vượt lên trên tất cả những điều kinh khủng và thê thảm ở đời. “Tragique” là nghịch nghĩa của chữ “triste” và “terrible”. Nếu không hiểu được như thế thì chẳng nắm được căn bản suy tư và chẳng bao giờ bước vào được ngưỡng cửa tư tưởng Nietzsche, Eschyle, Sophocle và nhất là ngưỡng cửa triết lý của Clément Rosset.
3.
Cuối hè năm ấy, chúng tôi sống ở một căn nhà trong một thôn làng, nằm hướng về rặng núi, ngang qua dòng sông và bình nguyên [1] .
Quyển A Farewell to Arms của Hemingway mở đầu bằng những giòng chữ lặng lẽ như trên. Cuối hè năm ấy… In the late summer of that year… Vâng, cuối hè năm ấy… cuối đông năm ấy. Cuối thu năm ấy. Cuối xuân năm ấy… Tất cả câu chuyện đời đều mở đầu bằng giọng điệu như vậy. Qua lời mở đầu lặng lẽ trên, ta có thể đoán mơ hồ rằng có cái gì khủng khiếp mù mờ đang nằm ẩn sau bầu không khí tĩnh mịch kia: phải chăng một tấn bi kịch chua xót sắp dàn bày trước đôi mắt hồn nhiên của ta.
Rặng núi. Giòng sông và bình nguyên. Khói và bụi vây phủ núi và đồng. Vài ba xác người lững lờ trôi theo dòng nước.
Đầu mùa đông, một cơn mưa liên miên trở về [2] . Núi, đồng và sông. Rồi mưa. A Farewell to Arms mở đầu với một cơn mưa tầm tã. Và cơn mưa tầm tã ấy chấm dứt quyển A Farewell to Arms. Suốt quyển tiểu thuyết này, ta nghe mưa rơi liên miên… Đầu mùa đông, một cơn mưa thường xuyên trở về (trang 8). Ngoài kia sương mù biến thành mưa và trong chốc lát, mưa rơi dầm dề và ta nghe mưa rơi thánh thót trên mái nhà (trang 99). Nhưng ngoài kia mưa vẫn rơi (trang 100). Đêm ấy, trời trở lạnh và ngày hôm sau, mưa rơi…mưa rơi tầm tã (trang 112). Sương biến thành mưa… Trời đã mưa và tôi có thể ngửi đường phố ướt át (trang 119). Mưa rơi trong suốt qua làn ánh sáng của nhà ga (trang 129). Chúng tôi chia tay giã từ, chúng tôi bắt tay nhau và họ rời đi. Cả hai đều cảm thấy đau buồn. Khi xe lửa lên đường, chúng tôi đều đứng ở hành lang xe lửa. Tôi nhìn ánh sáng của nhà ga và sân ga khi tàu chạy. Trời vẫn còn mưa và chẳng bao lâu cửa sổ ướt hết cả, chúng tôi chẳng thấy được gì nữa (trang 126). Mưa đã rơi trên rặng núi (trang 127). Bão suốt ngày. Gió kéo mưa và mọi nơi đều là vũng nước và bùn (trang 144). Mưa rơi không ngừng (trang 146). Mưa lại bắt đầu rơi (trang 147). Mưa đang rơi ngoài kia (trang 149). Ngoài kia, mưa rơi tầm tã (trang 150). Chúng tôi lê bước qua thành phố hoang trống dưới cơn mưa (trang 151). Mưa vẫn còn rơi (trang 152). Mưa rơi suốt đêm (trang 152). Trời lại phủ mây và một cơn mưa nhẹ bắt đầu rơi (trang 163). Mưa lạnh (trang 178). Trời mưa, tôi đứng dưới mái ga cho đến lúc tàu hoả khởi hành (trang 188). Ngoài khung cửa sổ, mưa đang rơi (trang 192). Đêm ấy, một cơn bão nổi dậy, tôi thức giấc nghe mưa đập vào kính cửa (trang 294). Tôi không thể nhìn mặt hồ, chỉ đen tối và trời mưa nhưng mà gió nhẹ thổi hơn (trang 206). Trời đã sáng hẳn và một cơn mưa bụi rơi (trang 214). Mưa bắt đầu rơi ban đêm… Mưa rơi suốt buổi sáng… Mưa rơi trên những đỉnh núi… Ngoài kia, chúng ta có thể nghe mưa rơi (trang 234-235).
Mưa tiếp tục rơi trên trang 236, trang 249, trang 251, trang 252, trang 253… Và quyển truyện chấm dứt với những dòng này:
Sau đó, tôi đi ra ngoài và rời bệnh viện, rồi trở về lữ quán dưới cơn mưa [3] .
Mưa rơi ướt hết mấy trăm trang giấy A Farewell to Arms. Tay ta cầm dở từng trang giấy cũng thấm nước mưa. Mắt ta cũng thấm nước mưa. Và mưa cũng rơi vào cõi lòng khô hạn của ta.
Những giọt mưa này không phải là những giọt mưa dịu hiền, thi vị, thướt tha và xinh đẹp; những giọt mưa của A Farewell to Arms không là những giọt mưa nên thơ của Karel Capek (trong The Gardener’s Year) của Edna St. Vincent Millay (trong Renescence, dòng thơ 119), của Walt Whitman (trong The voice of the Rain), của Frances Shaw (trong Who loves the Rain), Dora Sigerson (trong April, stanza 1), Coates Kinney (trong Rain on the Root, stanza 1)… Những giọt mưa trong A Farewell to Arms là những giọt mưa ờ Pago – Pago trong truyện “Rain” của S. Maugham hay là những giọt mưa của thi hào Edith Sitwell trong “Still talls the Rain” (The Raids, 1940, Night and Dawn).
Mưa vẫn còn rơi
Tối như nhân gian, đen như sự ly tán của chúng ta
Mù như một nghìn chín trăm bốn mươi cây đinh
Đóng vào thập tự giá [4]
Cơn mưa tầm tã ở Pago - Pago đã rơi xuống xác chết của mục sư Davidson. Cơn mưa của Edith Sitwell rơi xuống một thế giới điêu tàn khói lửa. Và cơn mưa liên miên trong A Farewell to Arms đã rơi xuống lúc Frederic Henry rời người yêu để ra trận tuyến, lúc đoàn quân chiến bại của Ý đang triệt thoái, lúc Frederic Henry bị bắt, lúc Catherine từ giã cõi đời…
Ở đây, mưa là hình ảnh của Ly Tán, của Đổ vỡ, của Phân ly, của Phũ phàng, của Cay đắng, của Bi thống, của sự Chết…
“Tại sao em lại sợ mưa?”
“Em không biết”
“Hãy nói cho anh nghe”
“Thôi đừng anh ạ”
“Kể cho anh nghe đi”
“Không”
“Nói đi em”
“Thôi được. Em sợ mưa vì đôi khi em thấy em chết dưới cơn mưa, anh ạ.” [5]
Mưa còn là hình ảnh của Thời gian - bước đi khốc liệt của thời gian.
Một lúc sau, cả hai đứa tôi hoàn toàn im lặng và chúng tôi có thể nghe mưa rơi.
Dưới đường, một chiếc xe bóp còi.
“Sau lưng, ta luôn luôn nghe
Xe thời gian đã đến vội vàng” [6]
Trong A Farewell to Arms, Mưa tượng trưng sự hiện diện của cái gì thảm khốc nhứt, mãnh liệt nhất, bi đát nhất, tuyệt đối nhất mà chúng ta không thể định nghĩa được: thảm khốc, mãnh liệt, bi đát, tuyệt đối chỉ là những tĩnh từ…
“Nhân vật” chính trong A Farewell to Arms là cơn mưa liên miên từ trang đầu tới trang cuối (truyện Rain của Somerset Maugham cũng thế).
Dưới cơn mưa tầm tã này, một số nhân vật phụ thoáng hiện; ta thấy chàng Frederic Henry và nàng Catherine Barkley, Rinaldi, bá tước Greffi và một số người khác. Tất cả những nhân vật này đều đi lê thê dưới cơn mưa giá buốt. Họ tự nhủ với nhau rằng phải tìm một nơi chốn nào đó để mà về… [7] Họ bơ vơ dưới mưa lạnh. Họ tha thiết muốn tìm về một mái nhà nào đó… Nhưng về đâu?
Tất cả bi kịch thê thảm nhất đời này là con người không biết mình sẽ đi về đâu. Mái nhà tranh vách đất và lũy tre xanh ở phương hướng nào? Chiều mưa… đi về đâu? Không thể đứng ngóng mãi ở Giang đầu vì rừng chiều âm u rét mướt.
A Farewell to Arms dựng lên một bi kịch tượng trưng cho cuộc đời: dưới con mưa phũ phàng, Frederic Henry và Catherine Barkley ôm choàng nhau âu yếm đi tìm một mái nhà nào đó… Nhưng rồi nàng bỗng nhiên chết dưới mưa, bỏ lại một mình chàng bơ vơ đau đớn trong giá buốt; một bóng bên trời, chàng bơ phờ lê bước và không biết đi về đâu… Và mưa vẫn rơi thản nhiên…
Đại ý của A Farewell to Arms là thế… trọn quyển A Farewell to Arms, Hemingway dựng lên hình ảnh của Mưa … và dưới cơn mưa ấy, Hemingway dựng thêm hình ảnh của con người: con người đi dưới mưa.
Giữa lúc khói lửa tơi bời, chàng và nàng gặp nhau: Frederic Henry và Catherine Barkley gặp nhau tại mặt trận 1917 – 1918 ở Ý đại Lợi. Frederic Henry là một chàng thanh niên Mỹ, làm trung úy trong quân đội Ý; chàng làm việc tại bệnh viện chiến địa. Catherine Barkley là một thiếu nữ người Anh, làm nữ cứu thương. Mái tóc nàng vàng hoe, da nàng hung đôi mắt nàng xám và nàng đẹp tuyệt trần (trang 18). Nàng đã từng yêu tha thiết một chàng trai, hai người sắp cưới nhau nhưng rồi chàng ấy chết tại mặt trận Somme và tự độ ấy, nàng sống cô đơn trong bốn vách tường vôi trắng của bệnh viện. Rồi một hôm, có chàng trai trẻ đến nơi này: chàng này không phải người xưa mà là chàng trai khác, tên là Frederic Henry. Frederic và Catherine gặp nhau. Frederic thấy gái đẹp thì vội tán tỉnh ngay. Chàng chỉ muốn đùa cợt. Còn nàng thì không bao giờ nghĩ thế. Nàng yêu chàng với lòng chân thành của một thiếu nữ cô đơn và đau khổ. Lúc tôi ôm nàng bỗng nhiên nàng run lên. Tôi ôm chặt nàng vào tôi và nghe tim nàng máy động. Môi nàng mở ra và đầu nàng xoay trở lại gục vào vai tôi mà khóc. (trang 25). Tôi biết tôi không hề yêu Catherine Barkley và cũng không hề nghĩ đến việc yêu nàng (trang 28). Thế rồi Frederic bị thương ở chiến trận, được đưa về bệnh viện ở Milan, rồi chàng gặp lại Catherine. Lần gặp gỡ này, bỗng nhiên chàng lại cảm thấy nàng đẹp nhất đời và không hiểu sao, vừa mới gặp nàng chàng yêu nàng ngay. Mọi sự bắt đầu đảo lộn bên trong lòng chàng (trang 74). Chàng đã không muốn yêu nàng, nhưng bây giờ chàng đã yêu nàng say đắm, mọi sự đảo lộn trong đầu óc chàng và chàng cảm thấy tuyệt diệu lạ lùng (trang 75). Từ đây, một thiên tình sử thơ mộng bắt đầu… chàng và nàng yêu nhau đắm đuối, chàng và nàng ôm nhau, hôn nhau nồng nàn giữa đường phố, dù là dưới cơn mưa phũ phàng, dù là khói lửa chiến tranh hừng hực vây phủ mười phương. Dù sống giữa điêu tàn tang tóc, dù sống giữa cơn mưa giá buốt của thời đại, họ cũng thấy cuộc đời tươi đẹp và có ý nghĩa. Chúng mình vẫn luôn luôn cảm thấy vui sướng khi chúng mình ở chung nhau (trang 118). Nhưng họ không thể ở chung nhau mãi, vì chàng đã hết bịnh và phải trở ra mặt trận. Trước ngày trở lại trận tuyến, chàng có hỏi rằng nàng định sẽ sanh con ở nơi nào. Nàng khuyên chàng không nên bận tâm. Rồi chàng cũng tạm bỏ qua để mà lên đường. Chiến tranh đã đến giai đoạn quyết liệt và tất cả đều trở nên hỗn độn, đoàn quân Ý ở vùng Udine và Gorizia đang triệt thoái; Frederic Henry có mặt trong đoàn thoái quân. Chàng bị bắt vì tội tháo lui bỏ trốn nhiệm vụ và bị tình nghi gián điệp. Họ vừa sắp đem chàng xử bắn thì chàng tung chạy nhảy xuống sông mà trốn thoát. Từ đây chàng không muốn dính líu gì với chiến tranh nữa. Chàng tìm gặp lại Catherine. Đêm ấy, chàng và nàng trốn bỏ nước Ý mà chèo thuyền qua Thụy Sĩ để không ai có thể tập nã chàng. Họ từ bỏ chiến tranh và đi tìm thanh bình riêng rẽ cho lứa đôi (Separate Peace). Từ đây, ở Thụy Sĩ, miền tuyết trắng chập chùng, chàng sẽ cố gắng quên chiến tranh để sống cùng Catherine trong thiên đàng của Ân ái. Ôi, hạnh phúc triền miên… Hai đứa tôi sống một cuộc đời tuyệt diệu. Tháng giêng và tháng hai trôi qua nhẹ nhàng và mùa đông đẹp lắm; chúng tôi hạnh phúc vô cùng (trang 234). Đầu mùa xuân năm ấy, một buổi sáng, Frederic thức dậy vào khoảng ba giờ, chàng nghe Catherine vặn mình trên giường, chàng đưa nàng vào nhà thương vì ngày sanh hạ của nàng đã đến rồi. Mưa rơi lả tả… vì sanh hạ quá khó khăn, nàng kiệt lực và tắt thở vào tối hôm ấy. Catherine chết. Đứa nhỏ cũng chết. Chàng không thể hiểu được gì cả. Tần ngần và bơ thờ, chàng lê bước trong đêm tối giá lạnh. Mưa vẫn thản nhiên rơi lả tả. Một bóng bên trời…
4.
Clément Rosset là một triết gia rất trẻ (hai mươi tuổi) thuộc thế hệ mới ở Pháp. Có người gọi ông là triết gia của đợt sống mới. Ông đưa ra một thái độ mới trước cuộc đời. Ông đặt tên triết lý của ông là triết lý bi đát (Philosophie tragique), ông mặc một màu sắc mới, một định nghĩa mới cho chữ Tragique. Theo ông, Tragique chỉ là một tiếng để gọi một cái gì mà ta không thể giải thích được, nous pourrions donner comme première définition du Tragique la révélation d’un soudain refus radical de toute idée d’interprétation (La Philosophie tragique, trang 7); Tragique là một huyền nhiệm, nous considérons le tragique comme un mystère que l’on ne peut constater (op. cit. trang 19).
Tragique là cái bất chợt#, bỡ ngỡ tự bản chất (le surprenant par essence, cf. trang 18-20). Con người bi đát (l’homme tragique) luôn luôn cảm thấy bỡ ngỡ, ngạc nhiên như một đứa trẻ, khi nào họ không bỡ ngỡ, ngơ ngác, ngạc nhiên, họ không còn là con người bi đát nữa. L’homme tragique se découvre soudain sans amour, sans grandeur et sans vie: et voilà la situation dont il ne pourra jamais donner d’interprétation, devant laquelle il aura perpétuellement l’étonnement, la surprise de l’enfant à qui, pour la première fois, on a refusé un jouet. Si sa stupéfaction cesse, il n’est plus tragique (trang 20).
Con người bỗng nhiên bỡ ngỡ không hiểu gì cả. Hai người bạn cùng đang đi chơi chung với nhau, bỗng nhiên một người bị xe đụng chết. Người còn sống bỡ ngỡ, kinh ngạc. L’homme tragique s’étonne au plus haut degré, et ne peut jamais cesser de s’étonner (trang 21). Hôm qua, đang thấy cô còn ngồi học trong lớp, bỗng nhiên hôm nay, đến lớp dạy thì nghe cô đã tự tử. Tôi ngạc nhiên vô cùng. Le tragique est sera toujours le surprenant par essence (trang 18).
Tôi đã từng tin tưởng vào Tự do, Dân chủ, Bình đẳng, Lẽ phải v.v..: Bỗng một hôm, tôi thấy những danh từ thiêng liêng này hoàn toàn trống rỗng, vô nghĩa và không hơn gì một đống phân.
Ta ngạc nhiên vô cùng. Cái buổi ban đầu xa xưa ấy, ta đã dâng trọn vẹn tâm hồn mình cho ai, ta đứng bao nhiêu giờ để được thoáng nhìn ai đi học về; bao nhiêu đêm, ta nhìn trăng không ngủ và nằm trăn trở thao thức suốt đêm. Thế rồi một hôm ta lặng lờ nghẹn thở và ngạc nhiên sửng sốt vì gió đã ngừng thổi trong lòng. L’homme tragique se découvre soudain sans amour, sans valeur et sans vie: voilà le bilan tragique, et voilà notre surprise éternelle (trang 22).
Trước sự bi đát (Le tragique hay le surprenant par essence), trước sự mặc khải bi đát ấy (révélation tragique), ta ăn nói làm sao để đáp trả? Ba ý niệm cụ thể hoá sự phản ứng tất nhiên của con người trước sự mặc khải bi đát (révélation tragique hay surprise éternelle).
Ba ý niệm ấy là: “không thể hoà giải được” (l’irréconciliable) “không trách nhiệm” (l‘irresponsable) và “cần thiết” (l‘indispensable). Ý niệm “ngạc nhiên bỡ ngỡ” chứa đựng ý niệm “không thể hoà giải được”, bởi vì nếu ta hòa giải được với sự kinh ngạc thì nó không còn kinh ngạc nữa. Ý niệm “không thể hoà giải được” hàm chứa ý niệm “không trách nhiệm” bởi vì nếu có một sự trách nhiệm thì chính sự trách nhiệm giải thích điều ngạc nhiên mà điều ngạc nhiên có thể giải thích được thì nó không còn là ngạc nhiên nữa (trang 37) và chính sự ngạc nhiên đó rất cần thiết cho ta, nó tạo ra cho ta một niềm vui trọn vẹn và đời trở nên đáng sống. Je n’ai jamais été si grand, si digne, si confiant en moi même, si heureux de vivre (trang 63-64).
Từ những nhận định trên, Rosset làm một sự tẩy uế triết học (purification philosophie); ông từ khước tất cả những triết thuyết từ trước đến bây giờ, từ Socrate đến Sartre, Camus; ông chỉ trích ý niệm Hạnh phúc (Bonheur), Vô phúc (Malheur); ông chỉ trích Luân lý (Morale). Ý niệm Bonheur khước từ ý niệm irréconciliable và irresponsable; ý niệm Malheur chỉ là biến thể của ý niệm Bonheur. Morale khước từ Tragique.
Pour nous, tous ceux qui considèrent que l’homme est inconnu au tragique, tous ceux qui ont le sentiment d‘inconnu face au tragique, tous ceux – là sont réputés moralistes (trang 151).
Con người muốn sống cho ra hồn, muốn cho cuộc đời mình có ý nghĩa thì phải nhìn thẳng vào Tragique. Si nous voulons retrouver la joie, il faut commencer par retrouver le tragique (trang 164).
Trốn bỏ, khước từ, phủ nhận Tragique là trốn bỏ ý nghĩa thực sự của cuộc đời.
5.
Trong A Farewell to Arms, Mưa biểu hiệu “sự có mặt” của Bi đát (la “présence” tragique). Mưa không phải là Bi đát mà chỉ dùng để biểu hiện sự có mặt của Bi đát. Nếu nhìn theo thị quan của Clément Rosset, ta sẽ thấy trong A Farewell to Arms tiềm tàng “triết lý bi đát” (“la philosophie tragique”).
Theo Clément Rosset Tragique là gì? Không thể giải thích, định nghĩa được. Tự tra hỏi về tragique là phủ nhận tragique.
Je ne peux mieux exprimer ma conception qu’en disant que s’interroger sur le tragique, c’est nier le tragique, qui est ce sur quoi on ne peut s’interroger, la seule question qu’il soit impossible à l’homme de poser (La Philosophie tragique, trang 19).
Tragique mà được biện minh, tragique mà được giải thích thì không còn là tragique nữa.
Tragique justifié, tragique interprété, ne voiton pas que ce n’est plus le tragique? (trang 19).
Tragique là gì? Qu’est – ce que le tragique? Tragique là cái gì mà chúng ta không thể giải thích được và định nghĩa được. D’abord donc, se garder d’interpréter (trang 7).
Bởi ta không thể định nghĩa Tragique, bởi Tragique không thể nào định nghĩa được, nên ta có thể gọi Tragique là sự khải thị về một sự từ khước triệt để và đột nhiên trước tất cả ý niệm giải thích (la révélation d’un soudain refus radical de toute idée d’interprétation).
Ta nhớ đến Frederic Henry. Trong gian phòng lạnh lẽo, ngồi chờ đợi bàng hoàng, Frederic Henry đã nghĩ gì?
Ta chết. Ta chẳng hiểu được gì cả. Ta chẳng có giờ để biết, để học. Họ ném ta vào đó và bảo cho ta biết kỷ luật, luật lệ và vừa thoạt sơ suất, họ đã giết ta. Hay là họ giết ta không lý do như Aymo hay là làm cho ta bị bệnh giang mai như Rinaldi. Dù sao, sau cùng, họ cũng giết ta. Không thể ngờ gì nữa. Hãy chờ và sẽ đến lượt ta [8] .
Ta chẳng hiểu gì cả. You did not know what it was about. On ne comprend rien. Đó là tragique. Ta không thể giải thích và định nghĩa Tragique, nhưng ta có thể diễn tả (faire une décription) bằng cách phân tích tâm lý như sau: không có situations tragique mà chỉ có mécanisme tragique, nghĩa là ý niệm tragique nằm gọn trong tương quan giữa hai thế (dans un rapport entre deux situations), nghĩa là ý niệm tragique là sự diễn bày về sau của sự lướt qua từ một trạng thái này đến một trạng thái khác (la représentation ultérieure du passage d’un état à un autre). Xin dở lại trang đầu của chương nhứt trong quyển Philosophie tragique của Clément Rosset (Presses universitaire, 1960): il faut bien préciser que le tragique n’apparait que lorsque nous nous représentons – après coup - le mécanisme tragique, et non pas lorsque nous le vivons (trang 7-8).
Chẳng hạn như lúc Frederic Henry bị bắt và nhìn thấy những sĩ quan đào ngũ bị xử tử hình. Chúng tôi đứng dưới mưa và bị đem ra cật vấn từng người một, rồi bị bắn (trang 175).
Trong trường hợp trên, Frederic Henry là một người lãnh hội được cái “bi đát” của sự chết (le tragique de la mort), không phải bởi vì chàng đã thấy xác chết, mà bởi vì chàng đã thấy những người mà chỉ trong một thoáng giây họ đã sống, rồi thì chết, bởi vì sự bi đát (le tragique) đã dàn bày trước mắt chàng như là mécanisme chứ không phải là situation – Bi đát không phải là những xác chết của những người sĩ quan đào ngũ, bi đát là đống thịt đầy máu kia cũng chính là đồng thịt của những người sĩ quan bị xử tử khi còn sống; nghĩa là ý niệm của sự lướt qua từ trạng thái sống cho đến trạng thái chết mà sau đó chàng đã gợi tưởng lại rằng họ đã chết: “sự diễn bày về sau của sự lướt qua từ một trạng thái này đến trạng thái khác” (la représentation ultérieur du passage d’un état à un auire ). Đó là mécanisme tragique.
Frederic Henry đã nhìn thấy cái bi đát của sự chết một cách thuần túy và trọn vẹn nhất, bởi vì chàng không quen biết những người sĩ quan đào ngũ này, bởi vì chàng chỉ biết họ trong lúc họ chết. Ta thấy rằng cái mécanisme tragique trên chỉ làm ta rùng mình bởi vì ta hình dung nó như một thực thể đông lại (une entité figée) ở ngoài thời gian. Nous découvrons que la vision du mécanisme tragique ne nous fait horreur que parce que nous nous le représentons comme une entité figée, en dehors du temps (trang 11).
Từ những phân tích trên, ta có thể kết luận rằng Bi đát là một cái gì không thể giải thích được. Bi đát là “cái bắt chợt tự bản chất” (le surprenant par essence). Đứng trước le surprenant par essence, tất cả những giá trị đều bị phá hủy. Sau khi khám phá ra bi đát, tất cả những giá trị đều bị xét lại. Après la découverte du tragique, toutes les valeurs sont à reconsidérer (trang 20). Cuối quyển A Farewell to Arms, ta thấy Frederic Henry đi dưới mưa lạnh: chàng cảm nghĩ những gì? Không, tình người không còn, sự vĩ đại của con người không còn, cuộc đời không còn. Tất cả đều không còn nữa. Non, l’amour humain n’ est pas, la grandeur humaine n’est pas, la vie – entendons la vie telle que nous ne pouvons manquer de l’imaginer lorsque nous sommes joyeux, la vie toujour existante et toujours jeune – la vie n’est pas (La Philosophie tragique, trang 20).
Frederic Henry kinh ngạc vô cùng. Chàng mở đôi mắt bỡ ngỡ, bỡ ngỡ… Aymo chết. Rinaldi bị bệnh giang mai. Catherine chết. Rồi mình sẽ chết. Chàng kinh ngạc vô cùng. Chàng không biết gì cả. You did not know what it was about.
Chàng không kịp biết. You never had time to learn (A Farewell to Arms, trang 252). On
n’apprend pas le tragique (Philosophie tragique, trang 21-22) có ai học được chữ ngờ? You never had time to learn. On n’apprend pas le tragique…
6.
Con người bi đát (L’homme tragique) bỗng nhiên cảm thấy sững sờ kinh ngạc. Trước cuộc đời, từ đây Frederic Henry mở đôi mắt bỡ ngỡ, ngơ ngác, sửng sốt, kinh ngạc… Surprise éternelle (Clément Rosset, trang 22). Chàng ăn nói làm sao đây trong niềm kinh ngạc vô biên kia? Phản ứng của chàng? Từ đây, lòng chàng đã xao xuyến, chàng biết chắc không bao giờ quên được bao nhiêu hình ảnh chua xót kia. Từ đây, trước cuộc đời miên man kia, lòng chàng không còn được gió thổi vi vu như dạo nào. Chàng không thể giải hoà với cuộc đời này nữa. Irréconciliable… Ý niệm Irréconciliable là đặc tính siêu hình đầu tiên của Bi đát. Thế nào là Irréconciliable?
Ba giai đoạn dẫn đến ý niệm Irréconciliable. Đầu tiên, ta thấy tính chất “không vượt nổi” (insurmontable), nghĩa là đứng trước nghịch cảnh, lần đầu tiên, ta tự cảm thấy không thể nào giải quyết được, không thể nào thắng được nghịch cảnh sừng sửng ấy, lần đầu tiên, ta phải dừng chân lại, không thể nào bước đi nữa, lần đầu tiên, ta phải nhìn lại, xét lại quãng đường. Mộng tưởng mênh mang của tuổi trẻ, hoài vọng hiên ngang của hoa niên đã dừng sững lại trước thực tại bi đát kia. Nous nous révélons pour la première fois absolument incapables de trouver une solution, de vaincre l‘obstacle qui s’ est dressé devant nous. Pour la première fois, nous sommes arrêtés, nous ne pouvons parvenir à continuer dans la voie sur laquelle nous étions engagés, pour la première fois nous sommes amenés à reconsidérer notre route. Tel est le premier degré du tragique, et l ‘on voit, je pense, toute sa gravité: il s‘agit de la remise en question de toute une croyance, la croyance à la victoire, l’espoir que toujours, dans la voie royale de la jeunesse que nous nous étions tracée, nous surmonterions les traitres obstacles qu’on placerait sur notre chemin; la découverte première de l’échec: ici, on ne passe pas (Clément Rosset, La Philosophie tragique, trang 25).
Từ tính chất “không thể vượt nổi” (insurmontable), ta đi đến tính chất “không chữa được” (irrémédiable). Ta đã sa bẫy, chẳng những ta không thể vượt nổi nghịch cảnh, ta lại còn thấy không còn đường lối nào để đi nữa. Ta bó tay bó gối vì không thể động đậy gì được cả. Ta đã bị hãm vào đường cụt một chiều duy nhất. Lúc trước, đứng trước nghịch cảnh không thể vượt nổi, ta tưởng là rồi đây sẽ còn có lối khác, nào ngờ bây giờ hết phương rồi, parce qu’il nexiste pas de remède à ce que nous prenions tout d ‘abord pour une insuffisance passagère (trang 25-26).
Giai đoạn thứ ba và cuối cùng là sự khám phá ra ý niệm “irréconciliable” (không thể hoà được). Sau lần thất bại, ta đã biết rằng không thể vượt nổi (insurmontable), và không thể chữa nổi (irrémédiable) nhưng bây giờ ta lại rõ thêm rằng sự thất bại “không thể vượt nổi” và “không thể chữa nổi” kia lại cũng là sự thất bại phổ quát và toàn bộ (cet échec insurmontable et irrémédiable signifie pour nous l’ échec universel et total), Một lần bại, một lần lỡ bước sa chân, thì về sau, dù thế nào đi nữa, ta cũng không thể mỉm cười trọn vẹn như xưa. Trót vì tay đã nhuốm chàm… Cet échec-là nous a marqués d ‘une façon indélébile: telle la clef de Barbe-Bleue, il résistera à toutes les tentatives auxquelles nous le soumettrons pour tenter d‘effacer enfin la trace de mort qu‘il a imprimée dans notre âme (Philosophie tragique, trang 26-27).
Bây giờ xin trở lại A Farewell to Arms, ta thấy Frederic Henry đã đi qua ba chặng liên tiếp: “không thể vượt” (l’insurmontable), “không thể chữa” (l’irrémédiable) và “không thể hoà” (l‘irréconciliable).
Đứng trước cái chết của Aymo, của những người sĩ quan đào ngũ, cũng như của bao nhiêu người lính khác, tóm lại là đứng trước chiến tranh tàn khốc, Frederic Henry cảm thấy tần ngần, ngơ ngác trước bao nhiêu tang tóc bất ngờ, chàng nhìn thấy người chết; chàng sững người ra vì chàng biết rằng kẻ ấy mới sống đây mà bây giờ bỗng nhiên phải chết, không còn sống nữa; đứng trước cảnh chết ấy, chàng đã cảm thấy đó là một cái gì mà “không thể vượt được” (insurmontable). Chàng chưa hiểu cái chết (la mort) là gì; nhưng bỗng nhiên chàng đứng trước một người chết (un mort). Cái chết, đối với chàng, chỉ mới là thảm hoạ đối với cá nhân, chứ chưa là thảm hoạ chung. Nous nous représentons la mort comme une catastrophe pour l’individu, non encore comme la catastrophe (Philosophie tragique, trang 27).
Đứng trước một nghịch cảnh, mặc dù không thể nào vượt được, nhưng chàng chưa thấy đó là một sự thất bại đối với riêng chàng. Nous découvrons un obstacle, insurmontable certes, mais non encore un échec (op. cit. trang 27).
Nhìn thấy những người sĩ quan kia bị xử bắn, chàng chỉ mới sửng người và thấy cái chết là điều “không thể vượt được”, nhưng đến lúc họ sắp đem xử bắn chàng, chàng mới vùng vẫy bỏ chạy và nhảy xuống sông mà trốn thoát. Chàng trốn thoát được và trở về với Catherine Barkley. Từ đây, chàng và Catherine Barkley từ bỏ chiến tranh, trốn chiến tranh. Đối với chàng nàng, mặc dù chiến tranh là một mối chướng ngại không thể nào vượt qua được, nhưng cũng chưa hẳn là không phương cứu chữa, un obstacle, insurmontable certes, mais non encore un échec, cf. trang 27). Bởi vì từ nay chàng và nàng sẽ trốn sang Thụy Sĩ, quê hương của rừng núi chập chùng; chàng và nàng sẽ gây dựng Thanh bình riêng biệt (Separate Peace) của hai đứa đầu xanh ở riêng một cõi trời phiêu bạt.
Chàng và nàng cảm thấy hạnh phúc muôn vàn. Đã xa rồi bao nhiêu thảm khốc của chiến tranh, đã xa rồi bao nhiêu bi thương của thời đại. Lúc nhảy xuống sông để trốn thoát, Frederic Henry đã được giòng sông lạnh kia gột rửa bao oán hờn và lúc đi trốn thoát trên xe lửa, chàng đã nghĩ rằng giờ đây chàng hết trách nhiệm. Tôi đã tự do. Tôi xin chúc họ được tất cả may mắn. Họ xứng đáng lắm, họ là những kẻ tốt, những kẻ anh hùng, những kẻ bình tĩnh và những kẻ tế nhị thông minh [9] . Tôi không phải sinh ra để nghĩ ngợi, để suy nghĩ. Tôi sanh ra để ăn. Trời, vâng. Ăn, uống và ngủ với Catherine. Có lẽ đêm nay. Không, không thể đâu. Nhưng tối mai… và một bữa cơm ngon và những tấm trải giường… và không bao giờ phải lên đường nữa… chỉ trừ hai đứa chung nhau [10] .
Dù ở trong trường hợp nào, Frederic Henry cũng cố gắng quên chiến tranh. Chiến tranh đã xa rồi. Có lẽ không có chiến tranh. Không có chiến tranh ở đây. Tôi biết rằng chiến tranh đã xong rồi đối với tôi. Nhưng tôi không có cảm giác rằng nó đã hoàn toàn xong. Tôi có cảm giác của một đứa con trai trốn học đang nghĩ đến những gì đang xảy ra vào một giờ nào đó ở trường [11] .
Anh không muốn nghĩ đến chiến tranh nữa. Nó đã xong rồi đối với anh (trang 223).
Dù chàng hết sức cố gắng quên chiến tranh, dù chàng có quên đi nữa, trận mưa phũ phàng kia vẫn liên miên theo đuổi hình bóng chàng.
Hai đứa tôi đã sống một đời tuyệt diệu. Chúng tôi sống bên nhau trọn tháng giêng và tháng hai. Mùa đông tuyệt vời quá và chúng tôi hạnh phúc vô cùng… Một đêm trời bỗng bắt đầu mưa. Trời mưa suốt buổi sáng và làm tuyết thành bùn và triền núi trở nên thê lương buồn thảm. Mây bay lênh đênh trên hồ và trên thung lũng. Mưa rơi bên đỉnh núi. Hai đứa tôi có thể nghe mưa rơi ngoài kia… [12]
Hai đứa tôi sống một cuộc đời tuyệt diệu… Một đêm, trời bỗng bắt đầu mưa… Thế rồi bỗng mưa… Nàng đau. Chàng đưa nàng đi nhà thương để sanh hạ đứa con đầu lòng. Thế rồi nàng chết vì sanh đẻ quá khó khăn. Thế rồi nàng chết. Trời mưa. Nàng chết. Chàng bỡ ngỡ ngơ ngác không hiểu gì cả. Nàng chết. Chàng đứng lặng người. Nàng chết. Chàng nói giã từ với một bức tượng. Rồi chàng bước trở về lữ quán dưới cơn mưa [13] .
Một hôm nào thoát chết, trên đường đi đến Stresa để tìm gặp em Catherine Barkley, chàng đã nghĩ rằng chàng sẽ quên chiến tranh. Chàng đã làm Thanh bình riêng biệt. I had made a separate peace (trang 88). Chàng đã gặp nàng, chàng và nàng cùng nhau chạy trốn sang Thụy Sĩ để tận hưởng Thanh bình riêng biệt. Hai đứa yêu nhau say đắm. Từ đây, khói lửa có mù trời, chiến tranh có mù đất, cũng không hề gì bởi vì hai đứa mình đã yêu nhau, bởi vì anh cùng em đã làm Thanh bình riêng biệt (Separate Peace). Thế rồi nàng chết. Chàng đã lầm. Hết thanh bình riêng biệt. Hết phương cứu chữa. (Irrémédiable). Trốn chướng ngại này để rồi gặp chướng ngại khác. Trốn chiến tranh, nhưng rồi lại gặp sự ly tán của mối tình kia. Nàng chết. Thế là hết. Cuộc đời là thế.
Đời chàng từ đây trở đi không còn được trọn vẹn như xưa. Nụ cười chàng sẽ mang chua xót, đôi mắt chàng từ đây sẽ vĩnh viễn đọng lại buồn đau vô hạn… Trước cuộc đời, từ nay, không thể nào làm hoà lại được (irréconciliable). Maintenant nous n’en sommes plus à nous demander si l’obstacle que nous avons rencontré est irrémédiable et définitif, mais nous nous apercevons qu’il signifie la perte dans tous les domaines de la vie humaine: que toutes les tentatives que feront les diverses joies pour nous réconcilier à la joie sont condamnées d’avance à l’échec (Philosophie tragique, trang 28-29). Quyển A Farewell to Arms chấm dứt lúc Catherine Barkley chết và chàng bơ phờ trở về lữ quán dưới cơn mưa.
Thử nhìn theo thị quan của Clément Rosset, ta sẽ thấy những nhân vật trong tác phẩm chính của Hemingway mang những thái độ trước Bi đát như sau: không thể hoà (irréconciliable) trong A Farewell to Arms ; không trách nhiệm (irresponsable) trong The Sun Also Rises; cần thiết (indispensable) trong The Old Man and the Sea.
Tôi đã mượn vài khía cạnh của Triết lý Bi đát Clément Rosset để phân tích tác phẩm A Farewell to Arms. Đây chỉ là một cách trong muôn ngàn cách để nhìn một tác phẩm… A Farewell to Arms là một văn phẩm vĩ đại. Muốn nhìn trọn tầm vóc của A Farewell to Arms, tôi phải nhìn bằng muôn ngàn cách hợp lại, chứ không chỉ có một cách như trên. Có tham vọng thu gọn tầm vóc của A Farewell to Arms trong một cách nhìn như tôi đã làm ở trên thì thực là điều vô lý. Đem một hệ thống triết lý để nhìn vào một văn phẩm vĩ đại là nhốt tù văn phẩm ấy và là một công việc hoàn toàn vô giá trị.
[1]In the late summer of that year we lived in a house in a village that looked across the river and the plain to the moutains (E. Hemingway, A Farewell to Arms, chương 1, trang 7).
[2]At the start of the winter came the permanent rain (A Farewell to Arms, chương 1 trang 8).
[3]After a while I went out and left the hospital and walked back to the hotel in the rain (A Farewell to Arms, chương 41, trang 256, Penguin Books, 1935).
[4]Edith Sitwell: Still falls the Rain.
Dark as the World of man, black as our loss.
Blind as the nineteen hundred and forty nails.
Upon the cross
[5]“Why are you afraid of it?”
“I don’t know”
“Tell me”
“Don’t make me”.
“Tell me”,
“No”.
“Tell me”.
“All right. I’m afraid of the rain because sometimes I see me dead in it”.
(A Farewell to Arms, trang 100)
[6]After a while we were very still and we could hear the rain. Down below on the street a motor car honked.
“And always at my back I hear.
Time’s winged chariot hurrying near.”
(A Farewell to Arms, chương 23, trang 122)
[7]Everybody ought to have some place to go (trang 116)
Let’s go some place (trang 118).
[8]You died. You did not know what it was about.You never had time to learn. They threw you in and told you the rules and the first time they caught you off base they killed you. Or they killed gratuitously like Aymo. Or gave you the syphilis like Rinaldi. But they killed you in the end. You could count on that, stay around and they would kill you.(A Farewell to Arms, trang 252)
[9] Anger was washed away in the river along with any obligation (…). I was through. I wished them all the luck. They were the good ones, and the brave ones and the calm ones and the sensible ones and they deserved it (A Farewell to Arms, trang 181)
[10]I was not made to think. I was made to eat. My God, yes. Eat and drink and sleep with Catherine tonight maybe. No that was impossible, But tomorrow night and a good meal and sheets and never going away again except together. (A Farewell to Arms, trang 181 - 182)
[11]The war was a long way. Maybe there wasn’t any war. There was no war here, Then I realized it was over for me. But I did not have the feeling that it was really over. I had the feeling of a boy who thinks of what is happening at a certain hour at the school house from which he has played truant (trang 189 – 190).
[12]We had a fine life. We lived through the months of January and February and the Winter was very fine and we were happy (…) In the night it started raining. It rains on all morning and turned the snows to slush and made the mountain side dismal. There were clouds over the lake and over the valley. It was raining high up the mountain (…) outside we could heard the rain.(A Farewell to Arms, trang 234-235)
[13]It was like saying goodbye to a statue. After a while I went out and left the hospital and walked back to the hotel in the rain (trang 256).