Tủ sách talawas18.1.2006
Nhã Ca
Giải khăn sô cho Huế
Hồi ký (1969) 14 kì
Có lẽ tôi là người xuống hầm chậm nhất. Một tiếng nổ nữa tiếp theo. Mái nhà kêu rạt rạt như muôn ngàn mảnh vụn đang trút xuống trên mái tôn. Thì ra tiếng nổ trong cơn mơ của tôi kéo đổ một thành phố trùng hợp với tiếng nổ giữa đêm nơi làng quê này. Bàn tay ai bên sườn tôi run lập cập. Một tràng súng nhỏ nổi lên khắp nơi. Họ đánh nhau tới nơi rồi. Tôi nắm chặt lấy tay o U. Tay o U cũng run lập cập. Tôi nghĩ tới má tôi, chú tôi và Thái ở bên nhà cậu Giáo. Chắc má tôi cũng đang run lên như chúng tôi ở đây. Giọng Hiền nói nhỏ:
“Chắc đánh nhau rồi.”
Có tiếng đập cửa. Mọi người im lặng, nín thở. O U bỗng càu nhàu: Tổ cha con chó, nó ra sân rồi. Tiếng con chó sủa lên từng hồi, tiếng súng nổ lẻ tẻ rồi tiếng chân chạy khắp vườn. Tôi nằm rạp xuống sát mặt hầm. Họ đi lùng bắt dân làng rồi. Số phận tôi rồi sẽ ra sao? Tôi nhớ tới lời Hiền bảo lúc tối là có mấy thanh niên đã nhìn ra tôi. Không, tôi đã sợ quá rồi nghi ngờ bậy, không thể ai còn đủ sức để hại ai lúc này. Tuy vậy, lòng tôi không xua đuổi hết sự ngờ vực.
Tiếng chân chạy ngang vườn rầm rầm rồi có tiếng hú, tiếng gọi nhau: Khai hỏa rồi. Quới ở đầu non. Lục ở cuối sông. Tiếng hô bắn. Đó là những ám hiệu. Nhưng không biết họ có soát nhà không. Đó là mối quan tâm nhất của tôi lúc này. Tiếng chân dừng lại ở sân. Rồi tiếng chân lại chạy đi. Tiếng hô xa dần rồi im lặng hẳn. Lúc này những tiếng súng lại nổi lên. Tiếng Hiền gắt gỏng một mình:
“Đợi đi hết mới bắn. Thiệt đồ ngu.”
Một lát sau, có tiếng dân vệ la hét ngoài đường: Đuổi theo, anh em ơi. Nhưng chỉ mấy phút sau lại hoàn toàn im lặng. O U bắt chúng tôi ngồi suốt đêm dưới hầm, không cho lên nhà ngủ nữa.
Sáng sớm, tôi chạy sang nhà cậu Giáo trong lúc chưa có một nhà nào hé cửa. Tôi đập cửa thình thịch. Bên trong nghe ngóng một hồi rồi cánh cửa hé ra chỉ vừa một người lách vô rồi gài chặt lại ngay. Mọi người vẫn còn ở trong hầm. Má tôi đưa tay ôm chặt lấy tôi khóc vùi.
Thái thì thầm:
“Đêm qua bác lo cho chị quá, bác khóc cả đêm.”
Tôi ôm chặt má tôi hơn và không biết nói một lời nào để má tôi yên lòng. Chắc má tôi chẳng còn phút nào yên lòng nữa. Thái chỉ cánh cửa sổ bay mất từ bao giờ:
“Túi qua nổ mấy tiếng, mấy cái cửa bay hết rồi.”
Tiếng dì Vạn:
“Thì bom nó rơi đâu sát nhà mình nì. Tao nghe một cái rạt, tưởng cái hầm bay luôn. Tao cứ ôm cái đầu, tưởng cái đầu cũng tiêu luôn rồi.”
Mợ Giáo gắt:
“Dì răng hay noái bậy rứa thê.”
Túc, con trai cậu Giáo, đùa:
“Bay đầu còn hai chưn còn chạy được mà dì.”
“Nói răng mà nói tào lao tứ đế. Ở nơi súng đạn mà cái miệng chạch chạch.”
Một lát sau thấy không có gì lạ và ngoài đường đã có người đi. Cậu Giáo mở cửa. Một mảnh bom nằm chình ình ở trước sân. Mọi người chạy ra coi ngó một hồi. Thái đi ra đường một lúc rồi về cho biết là tối hôm qua Việt cộng đã giật cái cầu vực nơi cống. Nhưng giật luôn hai ba quả mìn mà không sập hẳn, chỉ lủng một lỗ lớn, xe không đi được nhưng đi bộ và xe gắn máy qua được.
Thái nói thêm:
“Túi qua họ về làng nhưng rồi rút đi hết. Chắc họ tưởng cầu sập rồi.”
Ngoài ngõ có tiếng gọi. Chúng tôi nhìn ra. Vợ chồng con cái Bé đang gánh gồng bồng bế nhau đứng ở đó.
Tôi chạy ra:
“Đi mô vậy?”
“Đi xuống Phù Lương, ở đây không yên rồi.”
“Xa không?”
“Xa, người ta đi được mình đi được chớ.”
“Biết ở dưới đó có yên không?”
“Người ta đi rần rần.”
Bé nói:
“Hỏi bác với chị có đi thì đi, không tụi em đi.”
Thái lắc đầu:
“Ở mô cũng rứa, biết mô ra răng mà đi.”
“Anh xuống dưới nớ, anh tìm đồn lính trình diện luôn. Tức quá.”
Thái làm thinh một lúc, suy nghĩ rồi hỏi:
“Anh có tin tức chi không?”
“Nghe nói thằng đồn trưởng của mi bị cắt cổ rồi. Cô cán bộ chạy về nói lại.”
Thấy Thái yên lặng, Bé tiếp:
“Mi ở đây răng họ cũng về lùng họ bắt. Họ biết là nhiều người tản cư về đây rồi.”
Má tôi đã ra tới nơi. Chú tôi đòi đi theo vợ chồng Bé. Thế là gia đình tôi lại chia thêm một lần nữa. Thái đứng nhìn vợ chồng Bé đi khuất khỏi cầu vực, thở dài:
“Mình vô đi bác.”
“Thái nhất định ở đây?”
Thái mím môi:
“Ở đây.”
Má tôi rưng rưng nước mắt:
“Dù răng đi nữa, ở nơi ni cũng gần An Cựu. Không biết trên ra răng rồi...”
Tôi biết má tôi đang nhớ tới căn nhà, tới bàn thờ ba tôi và ngôi mộ mới trên núi Tam Thái. Hôm đi tản cư xuống Thủy Dương Hạ, ngang qua đồng, má tôi nhìn lên phía núi hoài. Nhưng cũng như tôi, má tôi không thể phân biệt được mộ nào là mộ ba tôi. Nơi sườn núi là khu vực của người chết, và ngôi mộ nào cũng giống nhau như hệt.
Mấy ngày đầu ở Thủy Dương Hạ thật yên ổn. Nhưng từ hôm bắt đầu có tiếng nổ ở cầu vực thì ban đêm đại bác lại câu tới làng này. Tối nào chúng tôi cũng chui vào hầm thật sớm. Qua đêm thứ hai thì mấy tiếng nổ tiếp nữa, cầu vực hư hại hoàn toàn. Ban ngày Mỹ lên làm cầu, nhưng ban đêm thì họ rút về hết, nhường phần cho mấy anh giải phóng. Đến ngày sau nữa thì trong làng đã có vài nhà bị trúng đạn đại bác. Sáng nào cũng nghe người ta bàn tán xôn xao về những trái đại bác bắn ra ngoài sông, rơi vào nhà dân cư. Một hai nhà đã bị trọn. Ban đêm các anh giải phóng về lục soát bắt dân. Phía cầu vực đã bị chận lại, lính canh gác không cho dân đi về Phù Lương nữa. Chúng tôi bị kẹt ở Thủy Dương Hạ và lại chờ đợi sự rủi may.
Một vài người trên Huế tản cư về cho biết là ở An Cựu đã được giải tỏa. Quân Mỹ và lính quốc gia đã chiếm đóng, làm chủ hoàn toàn. Vài người trở lên để chở của nhưng họ trở về khóc lóc thảm thiết. Nhà cửa nào không bị sập thì cửa đã bị mở tan hoang và đồ đạc không còn gì hết. Cầu An Cựu đã bị giật sập ngay khoảng giữa, sự qua lại hết sức khó khăn. Má tôi hỏi thăm kỹ càng lắm, họ cho biết tuy đã giải tỏa được, nhưng lính quốc gia và Mỹ chỉ lên có ban ngày, ban đêm rút trở lại Phú Bài hết. Trong làng lại có tin giặc sắp tới đây, ở trên phố thua, thế nào họ cũng rút về quê. Người ta sửa soạn để tản cư. Má tôi và Thái quyết định trở lại An Cựu.
Mấy ngày liền, tôi nhìn thấy những đoàn xe chở đầy xác chết và binh sĩ bị thương chạy trở về, qua làng. Nhưng người ta vẫn ùn ùn kéo nhau trở lại Huế.
Nhưng đồng thời, cũng có đoàn người ùn ùn từ Huế kéo về. Kẻ chạy lên, người chạy xuống. Má tôi cho Thái đi dò đường trước. Nó đi khoảng chừng nửa buổi thì trở về:
“Nhiều người về An Cựu rồi bác. Mình về đi.”
Vậy là chúng tôi sửa soạn lên An Cựu. Má tôi dặn dò cậu Giáo nếu ở đây đại bác dữ quá thì lên trên đó. Mợ Giáo chia thêm cho má tôi ít gạo: Dù răng đi nữa ở dưới ni cũng còn có thóc, giã ra mà ăn, trên nớ kẹt là chết đói. Mợ Giáo, cậu Giáo và cả nhà đưa chúng tôi ra một khoảng đường rồi mới trở lui. Thấy nhiều đoàn người gồng gánh kéo nhau về Phù Lương, má tôi lại do dự. Thái phải nói mãi má tôi mới thở dài: Thì thôi cũng đành. Thái nói ở lại Thủy Dương Hạ hết sức nguy hiểm, nó nghe phong thanh: đêm, Việt cộng đã vô xóm bắt những thanh niên đi.
Tôi thấy hơi yên tâm khi thấy có nhiều người đi trở lên, họ mang theo những thúng, gióng không. Tôi hỏi, họ cho biết là quân Quốc gia đã chiếm An Cựu họ đang kiểm soát trên đó, lên xem còn chi thì chở đi không bị trộm cắp lấy hết.
Tiếng đại bác vẫn nổ ình ình nơi phía thành Huế. Mặt má tôi tái xanh, môi bà run rẩy:
“Mần răng chừ, trên đó còn bắn nhau.”
Thái quả quyết:
“An Cựu về phía ta rồi, đại bác bắn lên miệt Bến Ngự, Từ Đàm.”
Quả đúng như lời Thái nói, lên tới Mù U, tôi nhìn thấy bóng những quân nhân thấp thoáng. Họ vác súng đi thành từng hàng, hoặc lẻ tẻ đứng gác ở hai bên đường. Lên tới đồn Trường Bia thì tôi càng vững lòng hơn nữa. Lính ở trong đồn rất nhiều. Phía ngoài, họ đứng gác cẩn thận lắm. Khi chúng tôi đi ngang qua, bắt gặp những tia mắt họ nhìn, tôi muốn cười mà không cười nổi. Tôi chắc họ cũng thế, những đôi mắt nhìn chúng tôi cho tới khi chúng tôi đi xa. Một vài nhà hai bên đường hé cửa. Vài người thò đầu ra hỏi:
“Về lại hả?”
Má tôi gật gật đầu, hỏi lại:
“Yên chưa?”
“Ồ, được rồi. Đào hầm trốn đạn. May rủi biết mô bác ơi.”
Một tiếng nổ lớn như xé rách màng tai. Chúng tôi vội vã nằm dạt xuống đường.
Một tiếng nói trong sân nhà nào nói vọng ra:
“Đạn mình bắn đó. Sau đồn Trường Bia bắn đi mà.”
Tôi đứng dậy, ngượng nghịu phủi đất rồi kéo má tôi đứng dậy theo. Bà nhìn quanh nhìn quất:
“Vắng quá, chưa có mấy người về.”
Rồi bà hỏi một đầu người trong một cửa nhà vừa ló ra:
“Mới về?”
“Không, tui ở nơi ni từ mấy bữa ni.”
“Không can chi hả?”
Người đàn bà thò đầu ra nhiều hơn, giơ hai ngón tay rồi chỉ về phía góc sân:
“Chết hai người.”
Tôi nhìn theo tay người đàn bà chỉ. Hai nấm mộ đất đắp sơ sài nơi góc sân lạnh lẽo không có một que hương. Tôi kéo chặt hai vạt áo măng tô rồi quay mặt đi nơi khác. Người đàn bà vẻ mặt choắt lại, không biết sự khắc khổ từ lâu hay mới biến đổi khuôn mặt bà ta. Nhưng bà không có vẻ gì bi thảm hết. Tôi rùng mình, mười mấy ngày rồi, họ chừng như đã quen với máu, với sự chết chóc bi thương.
Gần đến nhà, chân tay tôi run rẩy quá. Tôi vừa mừng vừa sợ. Tôi tỏ ý lo lắng ngôi nhà đã đổ nát, không còn toàn vẹn nữa. Hôm đi xuống Thủy Dương tránh nạn, ngang qua đường cái, tôi đã cố nhìn vào ngôi nhà, nhưng đạn đằng sau lưng như xô tôi chạy tới, và những hàng cây loáng thoáng che khuất khu vườn. Trong những ngày ở Thủy Dương, biết đâu ngôi nhà đã sập. Người ta chả đồn đãi vài câu chuyện hết sức thương tâm và khôi hài là gì. Đoàn quân Mỹ lên An Cựu thấy ngôi nhà nào còn nguyên lành hoặc tình nghi là bắn bừa vào, bất kể bên trong có người hay không. Hoặc họ tràn vào nhà, đứng ở miệng hầm mà bắn tràn vào hầm. Họ sợ Việt cộng núp trong đó. Càng gần nhà, chân tôi càng bước mau hơn. Thái và má tôi cũng thế. Khi đi thì gia đình tôi thật đông, khi về chỉ còn má tôi, tôi với Thái. Dì Vạn với cô con gái đang sửa soạn, nói sẽ lên sau. Vợ chồng Bé về Phù Lương rồi. Thu cũng bỏ đi theo.
Khi sắp bước vô ngõ, khu vườn của chúng tôi khuất ở đằng sau một khu nhà khác và con ngõ đi vào dẫn tới cổng trồng hoa cẩn và chè tàu, tôi bỗng nghe tiếng gọi đằng sau. Thì ra chú tôi đang tất tả đi theo. Vợ chồng Bé bàn tính như thế nào mà bỏ ông ở lại. Tôi đẩy cánh cổng sắt khép hờ. Ngôi nhà bỗng bừng sáng lên như chào mừng chúng tôi với những dấu hiệu mới mẻ. Mái ngói bị trụt hoặc lủng lỗ vì đạn rốc két, vì bom chơm. Trước nhà, bức tường nứt một khoảng lớn và những cánh cửa sổ bị sức dội của bom đạn mở toang hoang. Tuy vậy, hai cánh cửa chính vẫn đóng. Thái nhảy lên thềm trước tiên. Nó đặt bao gạo xuống, quay lại nhìn má tôi rồi móc túi lấy chìa khóa. Tôi thấy tay nó run rẩy và mặt nó tái đi. Cánh cửa mở, ánh sáng tràn vào căn nhà. Những đèn nến thắp dở, những liễn đối, những bông hoa cườm đập vào mắt tôi. Tôi chạy ào vào nhà, gục đầu nơi bàn thờ ba tôi. Má tôi ngồi bệt xuống đất cất tiếng khóc. Và Thái, tuy đã theo công giáo và rửa tội từ lâu, nó vẫn tìm hương thắp lên bàn thờ ba tôi ở gian trên, rồi cầm nắm hương còn lại thắp các lư hương ông bà, những người thân đã chết. Tôi nhìn lên bàn thờ ba tôi, tấm ảnh phủ vải đỏ cùng tất cả lư trầm, bàn nến đều phủ một lớp bụi dày. Mắt tôi chợt bắt gặp những lỗ thủng trên mái nhà và má tôi đang gọi Thái, tay cầm một mảnh bom hay đạn gì đó, sần sùi, xám ngoét màu kẽm.
Một lát, chúng tôi đi lục soát xem có mất mát gì không. May quá, những thứ chúng tôi bỏ lại đều còn nguyên, chỉ những thứ đem đi mới mất. Thái quả quyết là chưa ai vô nhà. Kể ra cũng chả ai thèm vào ngôi nhà này làm gì, ba tôi vừa mới chết xong, khu nhà lại bỏ hoang không người ở từ lâu, hôm đám ba tôi xong, liễn đen trắng hoa cườm, vàng hương đầy nhà, trông vào như một khu nhà mồ. Nếu ai lạc vào khung cảnh tang tóc, tiêu điều thế này, chắc cũng hoảng lắm. Nhưng vì đây là nhà chúng tôi, nơi kia là bàn thờ tổ tiên, nơi nọ là bàn thờ vừa thiết riêng cho ba tôi, tôi mới có được cảm giác ấm cúng và bình yên như thế này.
Má tôi bảo đóng bớt cửa sổ lại, cửa lớn cứ khóa bên ngoài trừ khi có việc gì cần đi ra ngoài, để họ lầm tưởng là nhà bỏ không. Tôi nhìn ra cửa sổ quan sát xung quanh hàng xóm. Bên khuôn tịnh độ Nam An thật vắng vẻ, những nhà xung quanh đó cũng thật vắng vẻ. Nhưng một lát, tôi thấy một ông già đi ra trước sân, dừng lại nơi cột cờ thường treo cờ Phật giáo khi lễ lạc, ông đứng ngó ra con đường vắng vẻ, hai tay chắp sau lưng. Tôi muốn gọi ông già hỏi chuyện nhưng má tôi đã kéo tôi trở vào. Thái nói:
“Mình phải làm hầm lại. Hầm này có chắc chi mô.”
Hai chị em tôi cùng với ông chú phụ nhau sửa lại hầm. Ngay chiều hôm đó, Túc và Lài từ dưới Thủy Dương Hạ lên. Túc cho biết dưới đó không yên và lên đây ở tạm. Một lát Hiền cũng đi xe Honda vào. May thay, chúng tôi vừa bỏ Thủy Dương đúng lúc. Cũng trong chiều hôm đó vợ chồng Bé trở lại nữa. Đi giữa đường chúng nó đã bị chặn lại, nghe đâu dưới xa kia có xe bị bắn và tấn công, đoàn xe Mỹ bị kẹt lại, đêm nay chưa chắc đã về dưới Phú Bài được. Nhờ đông người, chúng tôi mở cửa bếp. Dưới bếp, hồi trước ba tôi có cho một ông giáo viên thuê. Hôm Tết, vợ chồng con cái về quê ăn Tết và khóa cửa lại. Dưới bếp có sẵn một cái hầm nổi bằng bao cát, chúng tôi khuân tạm lên nhà làm một cái hầm nổi ở phía sau bàn thờ. Thái vừa làm vừa hỏi tôi có thấy chi lạ không. Tôi nói không. Thái nói khi hồi đi vô nhà, ngay qua cổng nhà đằng trước xây mặt ra hẻm vô nhà chúng tôi, Thái thấy nơi nhà đằng trước có một ngôi mộ trước sân. Trên mộ có nén hương và một nải chuối xanh. Tôi nhớ lại nhà hàng xóm đằng trước đã bị đạn và bốc cháy ngay sáng mồng hai, có mấy người bị thương chắc một người đã chết. Thái nói nhỏ:
“Bác gái đằng trước chết chôn ở đó. Họ đi mô hết rồi, nhà bỏ không.”
“Còn mấy người bị thương nữa mà.”
Thái lắc đầu nói: Em chịu. Thái cũng như tôi, làm sao biết thêm gì hơn nữa. Chúng tôi lại lăng xăng làm hầm. Ở trước khuôn có hiệu đồ mộc, Thái ra khiêng được mấy tấm ván khá tốt, đem vào kê hầm.
Chiếc hầm coi cũng tạm được, nó chia làm hai ngăn. Ngăn trong dành cho má tôi và mấy chị em. Ngăn ngoài dành cho đàn ông. May thay, nhà tôi vừa xong đám ma, có rất nhiều đèn cầy, thắp tới mấy tháng chắc cũng không hết. Thái lại tìm ra một thùng dầu hỏa. Ba tôi dạo còn sống vẫn ưa tích trữ đồ, ông sắp về hưu và định dùng khu vườn cùng nhà thờ họ này làm nơi an dưỡng tuổi già.
Chiều tối hôm đó, chúng tôi ăn cơm rất ngon. Cơm gạo giã tay, ăn với thịt kho mặn. Món ăn này do mợ Giáo đài thọ từ lúc còn ở dưới Thủy Dương. Chúng tôi ăn thật nhiều cơm. Vì làm việc mệt và đói nữa, chắc má tôi phải nhường mất một nửa phần của bà.
Đêm đến, trước khi gài cửa ngõ cẩn thận và chui vào hầm, dì Vạn đốt hương trên bàn thờ ba tôi, lâm râm khấn nguyện. Rồi đi ra sân thắp hương vái bốn phương. Cây mai nơi bể nước vẫn còn lơ thơ mấy bông, dì đem hương cắm ở gốc cây mai đó. Chúng tôi nằm đất, lèn sát nhau mà vẫn không đủ chỗ. Lài với Túc không chịu nằm hầm, trải chiếu nằm ngoài nhà. Má tôi lo lắng bàn tính chuyện những ngày sắp đến. Dì Vạn càu nhàu nói, dù sao đi xuống dưới Phù Lương vẫn yên hơn là ở đây. Nhưng má tôi nói chạy đông chạy tây đã hết rồi, giờ về đây có chết cũng không còn tiếc chi nữa. Ở đây còn mong được biết tin con cháu.
Vợ chồng Bé và chú tôi thì lên nhà của họ phía trên đường rầy từ chiều. Bé cho biết trên đó người ta về cũng đông lắm rồi. Nhiều gia đình khi chạy còn nguyên lành, khi về thiếu mất vài mạng. Họ đã chết dọc đường. Má tôi dặn: ban đêm ai gọi cửa đừng mở. Thái khôn khéo ra ngoài khóa cửa lại rồi leo cửa sổ mà vào. Nó nghĩ rằng làm như thế có ai gọi họ tưởng là nhà bỏ không. Mà đúng như vậy, nửa đêm có nhiều tiếng súng nổ nhỏ, rồi tiếng chân đi ngoài vườn. Tiếng chân đi mạnh bạo không thèm dấu diếm gì hết. Tiếng chân dừng lại ở trước cửa nhà rồi có tiếng gõ cửa. Tiếng đàn ông nói:
“Có ai không. Mở cửa. Mở cửa.”
Có tiếng khác gắt:
“Đồng chí chỉ hoài công, tối nào cũng gõ. Họ bỏ nhà hoang mà.”
“Khu vực này người ta về đông lắm rồi. Biết đâu chủ nhà đã về.”
“Nhưng nhà này có tên trong danh sách không đã chớ?”
“Có tên, nhưng ông già làm công chức đó đã chết rồi.”
“Vậy thì thôi. Con cháu họ ở kệ họ. Tôi đoán chắc chưa có ai về đâu. Nhà này ai mà dám ở.”
Tiếng chân xa dần. Có tiếng chó sủa trong xóm ra. Một lát có tiếng đại bác nổ gần. Lài chui tọt vào hầm. Chúng tôi phải ngồi dậy mới đủ chỗ. Tiếng đại bác rơi đều đều, xa có, gần có. Có tiếng quá gần, dội tức ngực làm chúng tôi co rúm người lại. Lài nắm tay tôi hỏi: Vân ngồi mô. Đây nì. Ở nơi ni dễ sợ rứa hỉ. Tiếng dì Vạn nói:
“Im đi, đừng có rì rào.”
Xa xa tiếng súng lại nổ ran. Đánh nhau ở đâu có vẻ lớn lắm. Chúng tôi thao thức lo lắng một vài giờ rồi cũng mệt quá ngủ thiếp đi.
Sáng ngày, dì Vạn dậy trước nhất. Dì ngóng ở cửa nghe động tĩnh rồi mới mở hé cửa. Ngoài đường vắng ngắt, nhìn nhà nào cũng hoang vắng đến dễ sợ. Thái chui ra sân trước tiên, rồi tới tôi, tới Lài. Buổi sáng trời vẫn lất phất mưa và lá cây trong vườn xanh một cách kỳ lạ. Qua những đám mây lam sà thấp, tôi bỗng hình dung được phía sau một bầu trời xanh lơ và ánh mặt trời rực rỡ. Má tôi, dì Vạn cũng chạy ra: Nam mô A Di Đà Phật, một đêm yên ổn đã qua. Dì Vạn chấp tay vái bốn phương trời. Chúng tôi nhìn nhau, mừng mừng tủi tủi. Lâu nay chúng tôi vẫn sát nhau kề cận bên những nguy hiểm mà không nhìn thấy nhau hay sao mà bây giờ, đứng trước sân lại mừng tủi như sau bao ngày gian nguy mới gặp nhau, thấy nhau vẫn còn lành lặn.
Nhưng cơn mừng tủi chưa dứt, ngoài quốc lộ, một đoàn xe Mỹ chạy từ Phú Bài lên, súng bắn rát vào hai bên ruộng. Chúng tôi không ai bảo ai đều chạy vào nhà đóng chặt cửa. Đoàn xe Mỹ qua một lúc thì Thái lại nói:
“Có lính mình lên.”
Nó đứng bên cánh cửa sổ hé mở và nhìn ra ngoài. Má tôi nói:
“Phải sửa lại cái hầm. Thằng Thái nhớ đào thêm đất đổ lên cho dày nghe.”
Mặc dù cố gắng hy vọng nhưng chúng tôi chưa thấy dấu hiệu gì chứng tỏ mình là người sẽ sống sót trong thành phố này, sau biến cố.
Đêm thứ nhất trở lại thành phố, mặc dù có tiếng đại bác, có tiếng súng nổ ran ở xa xa, chúng tôi vẫn còn được ngủ yên được mấy tiếng đồng hồ trong chiếc hầm chật hẹp.
Không may cho chúng tôi, chiếc hầm được sửa sang mới ba bốn hôm thì người thuê căn nhà bếp là một giáo viên tiểu học dạy trường An Cựu trở về.
Thấy cửa bếp bị mở tung, ông có vẻ không bằng lòng. Ông vội vàng bỏ hết đồ đạc vào mấy cái giỏ lớn, ngỏ ý đòi mấy bao cát lại để xây hầm đưa vợ con về tạm trú, xong ông ta lại lên xe Honda đi mất. Sáng sớm hôm sau chúng tôi lại dỡ hầm, mang bao cát xuống bếp trả lại, rồi cùng nhau làm tạm một cái hầm mới không lấy gì làm kiên cố lắm. Người thuê căn nhà bếp trở về sửa sang lại cái hầm, nhưng ông chỉ đưa vợ con về có một hôm để lo thu dọn chở đồ đi nơi khác. Chiếc hầm dưới bếp bỏ không, Thái lại mò xuống lấy thêm bao cát lên chất cho dày.
Mấy ngày sau, quốc lộ một nối vào An Cựu có vẻ tấp nập hơn trước, người tản cư đi, người hồi cư về có vẻ đông đúc hơn. Một vài gia đình tạm trú lại một buổi hoặc một ngày nơi sạp mộc, rồi họ lại tiếp tục đi về Phù Lương, Phú Bài.
Mỗi ngày, vợ chồng Bé xuống cho chúng tôi ít tin tức. Nào đêm qua Việt cộng về đầy ở ngoẹo Hàng Xay. Nào sáng nay quân mình đi gỡ cờ treo trước đồn vận tải. Hoặc: Bác ơi, sắp đánh tới nơi rồi. Họ sắp đánh chiếm lại An Cựu.
Tôi không thể nào hiểu được việc gì sẽ xảy ra nữa. Nhưng khu vực An Cựu thì có vẻ bình yên hơn. Một hai ngày đầu, chúng tôi không thấy gì lạ, nhưng vợ chồng Lài thì đêm nào cũng nghe tiếng chân đi qua vườn. Vài ba hôm, Hiền, Lài và Túc về dưới Phù Lương. Nhiều gia đình tản cư về dưới đó vì nghe dưới Phù Lương, Phú Bài có lập trại tỵ nạn. Vợ chồng Bé gan lì ở lại cho tới một hôm có mấy quả đại bác không hiểu vì tính sai tọa độ hay cố ý rơi trúng vùng An Cựu vào đêm khuya. Lúc đó chúng tôi đang nằm trong hầm, mỗi người đều bị dội bật lên và túm chặt lấy nhau. Hai ba tiếng nổ liên tiếp thật gần rồi im lặng hẳn. Sáng ra Thái đi ngóng tình hình, thấy ngoài đường người ta khiêng mấy người bị thương đặt bên đường, tìm cách đưa đi bệnh viện Mỹ. Gần chín giờ sáng, một đoàn xe lính đi lên, nhưng không chiếc nào dừng lại. Rồi tới mười giờ, những người lính biệt động quân, nhảy dù, từ dưới Phú Bài đi bộ lên. Không có phương tiện nào nữa, mấy người bị thương đã chết. Hai căn nhà hoàn toàn hư hại, mái tôn của nhà trúng đạn văng tuốt ra tận sau đường rầy. Rồi đêm hôm sau lại nổ nữa, lần này xa hơn một chút, và sáng hôm sau, vợ chồng Bé hớt hơ hớt hải bế bồng nhau xuống nhà chúng tôi:
“Không ở được rồi. Lính mình ở Sài Gòn ra, đánh lớn lắm. Đang chiếm lại nhà bưu điện. Dân dồn về hết nơi trường kiểu mẫu. Đêm qua bom chơm rơi trên xóm con, mấy cái nhà nữa bị sập.”
Má tôi thở dài. Thái lo lắng:
“Có ai bị thương không?”
“Không, may người ta đều ở hầm hết. Đêm qua anh tưởng nguy rồi chớ.”
Và không đợi hỏi ý kiến ai, vợ chồng Bé, Thu cùng mấy đứa nhỏ gồng gánh, bồng bế đưa nhau về Phù Lương.
Má tôi thấy tình hình gay go quá, nửa muốn đi nửa muốn không. Má tôi vẫn ngóng đợi tin tức ở Nam Giao, Từ Đàm. Nhưng có được chút tin tức nào thì chỉ toàn là những tin tức làm chúng tôi thêm tuyệt vọng.
Trong những ngày trước, dân chúng Huế chết vì đại bác, vì bom máy bay, vì bị đấu tố, điểm chỉ. Chúng tôi ở An Cựu, coi như giáp với ngoại ô thành phố, có chạy loạn thì cũng chạy vì sợ bị Việt cộng bắt, hoặc bị trúng đạn chết oan. Nhưng lần này, ác chiến đã diễn ra khắp cùng thành phố. Một vài nơi quân quốc gia đã chiếm lại được, những lá cờ giải phóng đã được gỡ xuống. Ở đồn Trường Bia đã thấy thấp thoáng lính ra vào, nhưng ở đồn vận tải vẫn bỏ không. Cầu An Cựu ban ngày được Mỹ lên canh gác và sửa chữa. Phải nối xong mấy cái cầu, quân đội mới dàn qua bên phố được. Phía bên hữu ngạn mới chỉ yên ổn có mấy vùng. Tin tức đưa về thành nội, phố Trần Hưng Đạo vẫn do họ chiếm giữ. Ở Nam Giao, Bến Ngự, Từ Đàm vẫn là nơi họ đóng quân.
Chúng tôi về lại thành phố đúng lúc phe quốc gia cố giành lại từng tấc đất thật là một trò đùa nguy hiểm. Nhưng chạy thoát thân một mình để một nửa gia đình bị kẹt lại, quả trong lòng chúng tôi không ai muốn thế.
Giữa lúc chúng tôi được trú ngụ ở một phần đất tương đối ít nguy hiểm thì thành phố Huế rơi vào lúc ngập súng đạn, máu đổ. Và nhờ có một người thoát từ phố về, chúng tôi biết được những tin tức kinh hoàng bên kia sông Hương.
Một buổi sáng, Thái thấy một đoàn xe đi lên, tới cầu rẽ lên phía Phú Cam, rồi rất nhiều đoàn lính dù, biệt động quân đi bộ từ dưới Phú Bài lên. Một lúc sau lại thấy Mỹ tới sửa tiếp cầu An Cựu. Thái kêu tôi ra đường:
“Người ta đi lại nhiều rồi chị.”
Má tôi dặn:
“Đừng có ra đường nghe tụi bây. Quân mình lên là sắp đánh nhau lớn rồi đó.”
Quả như lời má tôi đoán. Chỉ chừng nửa tiếng đồng hồ sau khi đoàn lính đi qua, là tiếng súng lớn nhỏ nổi lên ở miệt Phú Cam, Bến Ngự. Và một số dân chúng bồng bế nhau chạy loạn về An Cựu để xuống Phù Lương.
“Đánh nhau lớn rồi.”
Má tôi kêu chúng tôi chui vào hầm hết. Nhưng gần tới trưa chúng tôi mới nhớ ra là nhà chưa có gì ăn, chỉ còn ít gạo.
Thái nói:
“Hồi nãy con thấy dưới Mù U có bán thịt heo. Dưới đó với chỗ mình ở yên rồi, thuộc vùng quốc gia rồi.”
Má tôi làm thinh. Thái lại nói:
“Để con với chị Vân đi mua thịt. Họ bắn nhau ở trên Bến Ngự lận mà bác.”
Tôi cũng muốn ra đường coi tình hình nên nói vô giúp Thái:
“Con với nó chạy ra mua một chút về liền mà má.”
Má tôi thở dài:
“Ừ, mà đi mau nghe.”
Tôi theo Thái chui ra khỏi hầm. Má tôi dặn:
“Tránh đạn mà đi nghe con.”
Câu nói của má tôi làm tôi vừa thương vừa buồn cười. Làm sao tránh đạn được. Nhưng tôi cứ dạ cho má tôi yên lòng. Tôi với Thái không đi xuống Mù U mà rủ nhau đi ra thẳng phía cầu An Cựu.
Thiệt chúng tôi đã gan cùng mình. Ngoài đường không có một người đi, lính Mỹ lính Việt xuôi ngược tíu tít chuyển quân.
Họ chả buồn chú ý tới chúng tôi nữa. Chúng tôi ra tới cầu An Cựu, thấy cầu nổi đang được công binh Mỹ làm gần xong, chúng tôi không dám đi đường cái mà vòng lối sau đi theo con đường nhỏ sau ruộng mà về nhà. Nhiều hố bom đào những hầm lớn, trời mưa, nước đọng thành từng vũng. Ngang qua một khu vườn bỏ không, chúng tôi nghe thấy tiếng động sau một bụi tre.
Thái kéo tôi:
“Đi nhanh chị.”
Tôi tò mò ngoái lại nhìn qua những nhánh tre thưa, tôi nhìn thấy những ngôi mộ đất đắp vội vàng, ở trên mộ cắm thẻ kiểm tra và cạnh đó, một chiếc hầm cá nhân, một xác lính Bắc Việt đang nằm vắt nửa trên nửa dưới miệng hầm, không biết bị thương hay đã chết, cạnh đó một hố bom và những cành cây khô, những nhánh tre ngã gãy tả tơi. Qua mấy ngôi vườn bỏ hoang, chúng tôi tới một thửa ruộng nhỏ vuông vắn, ruộng bỏ không và nước lúp xúp. Tôi không biết đường nên cứ đi sau Thái. Có tiếng máy bay tới gần, Thái kéo tôi nằm mẹp xuống đường, đợi cho máy bay khuất mới tiếp tục đứng lên đi lần về nhà. Khi tôi đứng dậy, tôi bỗng nghe tiếng rên rỉ. Tôi dừng lại thì Thái đã kéo tay tôi: Đi chị. Thái nói nhỏ:
“Bọn họ bị thương, không khéo họ bắn mình. Đi ngả tắt ni thiệt dại hết sức.”
Thái cầm chặt tay tôi và lôi tôi đi theo nó. Nhưng tiếng rên một lúc một rõ và một van nài hơn. Cứu tôi với. Cứu tôi với. Cứu tôi với. Tôi không thể làm ngơ được, rõ ràng là tiếng người sắp chết. Tôi nhìn quanh quất và chợt nhận ra một thanh niên đang gục bên một chiếc hố nông, hình như người ta đào rồi bỏ dở nửa chừng, hay một miếng bom nào cày lên cũng nên. Thanh niên mặc một chiếc áo măng tô màu xám, dính đầy máu. Thái nhìn thấy và nó biết không phải quân giải phóng. Tôi kéo Thái lại gần:
“Chắc là sinh viên hay học sinh chi đây.”
Chúng tôi đã đứng bên cạnh. Hình như nhận ra tiếng chân người, khuôn mặt bê bết đất ngẩng lên, một giòng máu rỉ chảy bên mép. Thanh niên đưa tay ôm ngực và muốn gục xuống. Thái vội nhảy xuống hố đỡ thanh niên dậy:
“Tôi chết mất,” người thanh niên rên rỉ.
“Anh ở mô tới?”
Thái cúi tai sát người thanh niên. Anh ta cố gắng đưa tay chỉ về phía, phía trước là những vườn cây. Tôi không hiểu. Thái hỏi:
“Anh ở bên phố thoát sang?”
Thanh niên gật đầu.
Vừa lúc đó lại có tiếng máy bay tới gần. Lần này hình như tới mấy chiếc và bay liệng ngay trên đầu chúng tôi. Người thanh niên ra dấu chúng tôi nên lánh đi và cho biết Việt cộng còn ẩn núp trong nhiều khu vườn nơi này nên Thái đưa tay ra dấu cho tôi đi trước rồi dìu thanh niên đứng lên. Tiếng máy bay như sắp hạ xuống trên đầu, Thái hét lớn:
“Chạy vô nhà trước mặt.”
Tôi chạy thẳng vào chiếc ngõ mở sẵn, Thái đã tới sát lưng. Chúng tôi bước qua mấy bực thềm là vào nhà. Căn nhà bỏ không, có một hầm cát nhưng Thái vừa nhìn vào đã bụm miệng lùi lại:
“Có người chết.”
Tôi định chạy ra nhưng bên ngoài đã có tiếng súng nổ. Một loạt đạn trên máy bay bắn xuống. Tiếng rốc két như rơi ngay trên đỉnh đầu. Thái đành kéo tôi chạy xuống bếp, ở đây có chiếc bể cạn. Thái đặt thanh niên ngồi dựa nơi bể nước rồi kéo tôi bắt nằm sấp xuống đất.
“Đừng có ngẩng đầu lên. Có đạn ngoài vườn đó.”
Tôi nằm sát xuống đất, hai tay ôm lấy đầu. Thái bình tĩnh hơn, nó xé áo lau vết thương cho thanh niên và băng bó lại. Người thanh niên đã bớt sợ và tỉnh táo hơn. Anh cho biết anh ta tên là Khâm, ở trong thành nội. Anh đã thoát được bằng cách giả làm đàn bà, chạy theo đoàn người tràn ra cửa thành và vét hết tiền đem theo để thuê một chuyến đò qua sông. Anh mở hé chiếc áo măng tô ra, bên trong là vạt áo dài màu xanh nhuộm đầy máu. Chiếc khăn trùm trên đầu đã rơi mất tự bao giờ.
Tiếng máy bay vẫn lượn vòng, mặc tiếng đạn từ dưới đất bắn lên như mưa, và cứ mỗi vòng tròn lượn trở lại là những loạt rốc két bắn xuống xối xả. Tim chúng tôi đập liên hồi. Chắc giờ này má tôi ở nhà lo lắng lắm, theo phương hướng thì tôi đoán ở phía nhà tôi không việc gì, mé này gần Phủ Cam. Nằm ở nơi đây tôi thấy bấp bênh quá, có thể trúng đạn bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ tới chiếc hầm ở trên nhà nhưng Thái cho biết là có người chết. Tôi tò mò hỏi Thái:
“Em thấy gì trong hầm vậy?”
“Có một người chết ở trong đó. Dễ sợ lắm, em nhìn vô thấy một người nằm ngửa, tay chân khô queo, hai mắt như còn mở và hướng về miệng hầm. Bên cạnh đó có những vũng máu đặc, em nhìn thấy mấy con chuột đang chạy lui chạy tới lăng xăng, có con đang ngậm vào đầu ngón tay ngón chân của xác chết.”
Tôi rùng mình, muốn bỏ ngôi nhà chạy ra ngay. Nhưng bên ngoài lúc này đầy rẫy sự nguy hiểm. Tiếng súng dưới đất nhỏ dần rồi rút về miệt xa hơn. Hình như họ đã bỏ những hố cá nhân để chạy thoát khi tiếng máy bay còn lượn vòng. Và khi tiếng máy bay quành trở lại thì không còn nghe tiếng bắn trả ở xung quanh nơi chúng tôi núp nữa. Khâm có vẻ tỉnh táo hơn, anh đã tựa được lưng vào thành bể cạn, Thái lấy cái lon múc nước ở bể cạn cho Khâm uống nhấp nháp. Anh ta mất máu nhiều quá, khuôn mặt xanh lè và hai mắt sâu, chứng tỏ nhiều đêm mất ngủ. Mặc dù tiếng đạn dưới đất không còn bắn lên nữa, nhưng máy bay vẫn lượn vòng trên đầu, chúng tôi biết là chưa thể thoát ra khỏi ngôi nhà này được. Khâm nói, giọng yếu ớt:
“Mấy ngày trước chỉ sợ bị giải phóng bắt, xử tử. Chỉ sợ chết bom. Nhưng lúc này sao tự nhiên tôi chẳng sợ gì nữa. Tan nát hết rồi.”
Và Khâm bắt đầu kể cho chúng tôi nghe về cuộc chạy trốn của Khâm. Chuyện của những người kẹt ở bên kia dòng sông Hương.