© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
29.5.2008
Sigmund Freud
Nghiên cứu phân tâm học
Vũ Đình Lưu dịch
 1   2   3   4   5   6 
 
5. Khuynh hướng nhắc lại làm trở ngại nguồn gốc khoan khoái

Lớp ngoài cùng là điểm đến của những khích động tự bên ngoài hay bên trong đập vào não cân, vì lớp ngoài cùng đó không có phòng tuyến tự vệ chống lại những khích động bên trong cho nên sự tràn lan của những khích động ấy trở nên quan trọng và thường gây ra những xáo trộn về tổ chức và điều động có thể đồng hóa với bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương. Một số lớn nguồn gốc của những khích động bên trong là xu hướng, khuynh hướng, bản năng của thân xác, những ảnh hưởng khác bắt nguồn từ bên trong thân xác rồi lan tràn vào bộ máy tâm thần, những ảnh hưởng ấy là trở ngại quan trọng nhất mà cũng tối tăm khó hiểu nhất cho công việc tìm tòi phân tâm học.

Có lẽ chúng ta không đến nỗi táo bạo nếu chúng ta khẳng định rằng ảnh hưởng của xu hướng và bản năng sẽ phát hiện ra những tiến trình thần kinh không liên kết, nghĩa là những tiến trình được tự do diễn tiến cho đến khi hết tinh lực hoàn toàn. Những điều chúng tôi biết rõ hơn cả về những tiến trình ấy đều thu lượm được khi nghiên cứu sự diễn biến của giấc mơ. Quả vậy, công việc nghiên cứu cho ta biết rằng những tiến trình xảy ra trong các hệ thống tiềm thức khác hẳn những tiến trình xảy ra trong các hệ thống (tiền) ý thức, trong tiềm thức những lượng tinh lực dễ di chuyển, dễ đổi chỗ, dễ đọng lại; tất cả những biến đổi ấy nếu xảy ra trong những vật liệu ý thức sẽ có kết quả lầm lỗi và tồi tệ. Những sự biến đổi ấy là nguyên nhân của những điều quái dị trong giấc mơ hiển hiện, tiềm thức dùng những dấu vết tiền ý thức của những sự việc ban ngày để cấu tạo ra những cái quái dị ấy. Chúng tôi gọi những tiến trình như di chuyển, đổi chỗ, đọng lại, xảy ra trong tiềm thức là "tiến trình nguyên thủy" để phân biệt với tiến trình nhị đẳng xảy ra trong lúc chúng ta thức. Vì xu hướng và bản năng đều thuộc về những hệ thống tiềm thức cho nên chúng ta chẳng biết gì hơn nếu bảo rằng chúng vâng theo những tiến trình nhị đẳng; vàả chăng, chúng ta cũng chả cần phải suy nghĩ nhiều cũng có thể đồng nhất hóa tiến trình tâm thần nguyên thủy với lượng tinh lực tự do, còn tiến trình nhị đẳng thì đồng nhất hóa với những sự biến đổi xảy ra cho lượng tinh lực liên kết hay là tinh lực lộ hình tích của Breuer [1] . Như vậy thì nhiệm vụ của những lớp trên bộ máy tâm thần là liên kết những khích động bản năng theo tiến trình nguyên thủy. Trong trường hợp thất bại thì sẽ xảy ra một số xáo trộn giống như bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương, chỉ khi nào những lớp trên làm đầy đủ nhiệm vụ, nguyên tắc khoan khoái mới có thể làm chủ tình thế hẳn hoi (nguyên tắc thực tại cũng là một hình thức biến đổi của nguyên tắc khoan khoái). Trong khi chờ đợi, bộ máy tâm thần có sứ mạng làm chủ các khích động, liên kết lại với nhau, việc làm của nó không chống lại nguyên tắc khoan khoái, nó chỉ đứng độc lập và phần nào không kể đến nguyên tắc khoan khoái.

Quan sát những hoạt động đầu tiên của tâm thần trẻ em và kinh nghiệm trị bệnh đã cho chúng tôi biết rằng những phát hiện của khuynh hướng nhắc lại có sắc thái bản năng rất cao độ, và khi nào thì chúng có sắc thái ma trêu quỷ ám. Đối với trò chơi trẻ em chúng tôi cho rằng đứa trẻ tái tạo và nhắc lại một sự tình khó chịu là để có thể hành động, là để làm chủ một ấn tượng mạnh mẽ mà nó đã trải qua, nếu chỉ có thái độ thụ động thì nó chỉ có thể hứng chịu ấn tượng đó. Mỗi lần nó nhắc lại hầu như nó xác định quyền chủ động của nó; cả đến những sự tình khó chịu nó cũng nhắc lại và tái tạo cho thật đúng hoàn toàn với ấn tượng. Sau này nét tính tình ấy sẽ biến mất. Một câu khôi hài lý thú nghe đến lần thứ hai đã chán rồi, một vở kịch xem lại lần thứ hai không cho ta cảm tưởng như lần thứ nhất. Hơn thế: khó lòng mà bảo một người đọc lại cuốn sách họ vừa mới đọc xong mặc dù họ lấy làm thích thú. Đối với người lớn thì sự mới lạ bao giờ cũng là điều kiện để thưởng thức. Trái lại, đứa trẻ không cho là chán khi bắt người lớn nhắc lại mãi trò chơi đã chỉ cho nó và chơi với nó; khi đã kể cho nó nghe một truyện hay, nó chỉ muốn nghe lại mà không muốn nghe truyện nào khác, nó để ý xem người kể có nhắc lại đúng từng chữ không, nêu ra từng điểm nói khác lần trước không. Như thế không có gì là đối lập với nguyên tắc khoan khoái, bởi vì sự nhắc lại, sự tìm thấy tính cách đồng nhất trong việc tái tạo tình trạng cũ đối với nó là một nguồn khoan khoái rồi. Trái lại trong trường hợp người bệnh đến cho ông thầy phân tích thì hẳn là khuynh hướng tái tạo những biến cố trong thời kỳ thơ ấu đứng độc lập đối với nguyên tắc khoan khoái dưới đủ mọi phương diện, có thể nói là vượt qua nguyên tắc ấy. Lúc ấy người bệnh xử sự y như đứa con nít, điều đó chỉ cho ta thấy rằng những dấu vết bảo thức năng bị dồn nén và liên quan đến những kinh nghiệm tâm thần đầu tiên của họ đều không có ở trạng thái liên kết, và trong một phạm vi nào đó cũng không thích hợp với những tiến trình nhị đẳng. Cũng vẫn khuynh hướng nhắc lại xuất hiện trước mắt ông thầy như một trở ngại cho việc trị bệnh, khi hết thời kỳ chữa chạy, ông thầy muốn cho người bệnh thôi hẳn không cần đến mình nữa; ta có thể giả thiết rằng khuynh hướng ấy xác nhận vì người bệnh lo lắng lờ mờ, lo sợ như những người không quen với tâm phân nghiệm sợ rằng ông thầy đánh thức giấc những cái mà họ cho là cứ để chúng ngủ yên có lẽ lại hơn.

Nhưng bản chất những liên lạc giữa xác định bản năng và khuynh hướng nhắc lại thế nào? Chúng ta có thể nghĩ rằng đây là một vết tích, một đặc tính chung của khuynh hướng, mà có lẽ của đời sống thể chất, nhưng chúng ta không biết lắm hay ít ra chưa diễn thành lời. Một bản năng chỉ có thể là nét vẻ của một khuynh hướng mật thiết với một thân thể sinh sống và thúc đẩy nó tái tạo một trạng thái cũ mà nó bị bắt buộc phải lìa bỏ vì ảnh hưởng bên ngoài gây xáo trộn; hay có thể nói là nét vẻ của một thứ co rgiãn thể chất, của nọa tính đời sống thể chất [2] .

Một quan niệm về bản năng như thế có vẻ kỳ dị, bởi vì chúng ta đã quen thói coi bản năng là một yếu tố thay đổi và phát triển chứ không phải cái gì trái lại, nghĩa là yếu tố bảo tồn. Vả chăng, đời sống động vật cho ta biết những sự kiện hầu như xác định sự tất định lịch sử của bản năng. Trong mùa sinh sản, một vài loại cá bơi đi rất xa để đẻ trứng ở những nơi nhất định cách biệt nơi sinh sống thường nhật xa lắm, theo một vài nhà sinh vật học thì chúng tìm đến những nơi ở cũ đã phải bỏ để đến ở những nơi mới. Cả những loại chim có lệ di trú đi xa cũng vậy, nhưng có thể khỏi tìm những thí dụ khác, chúng ta chỉ cần nhớ lại những hiện tượng di truyền, và những sự kiện phôi thai học (embryologie), đó là những bằng chứng ý nghĩa về khuynh hướng nhắc lại của thân thể. Chúng ta biết rằng mầm non (germe) của con vật sinh sống trong thời gian triển khai cần phải tái tạo – dù nhanh chóng qua loa – tất cả những cơ cấu hình thức của tổ tiên nó, đáng lẽ nên chọn con đường ngắn nhất đi đến hình dáng hiện thời. Đó là một tiến trình chỉ có một phần nhỏ có thể đứng về phương diện vật chất mà cắt nghĩa trong những tiến trình ấy yếu tố lịch sử đóng một vai trò không phải không đáng kể. Khả năng tái tạo đã đi rất xa đối với loài động vật, thí dụ như trong trường hợp một cơ quan bị phá hủy, con vật tạo ra một cơ quan khác y như cơ quan đã mất.

Nhưng người ta sẽ nói rằng không có gì cản trở chúng ta chấp nhận rằng trong thân thể con vật cũng còn những khuynh hướng bảo tồn thúc gịuc nó nhắc lại những khuynh hướng mà tác động phát hiện ra sự cấu tạo mới và sự tiến hóa dần dần. Sự chỉ trích ấy đáng quan tâm, chúng tôi sẽ chú trọng đến nó sau này. Nhưng trước hết chúng tôi thử suy diễn giả thuyết của chúng tôi xem nó đưa đến những hậuệ quả nào, chúng tôi đặt giả thuyết rằng các bản năng đều phát hiện ra khuynh hướng tái tạo cái gì đã có trước. Người ta có thể chỉ trích những kết luận của chúng tôi xa xôi quá và nhuốm vẻ huyền bí: sự chỉ trích ấy khó lòng lay chuyển được chúng tôi vì chúng tôi chỉ có chủ tâm tìm những kết quả tích cực hay chỉ chú trọng đến những quan điểm xây dựng trên những kết quả ấy và chúng tôi cố gắng tìm sự phối kiểm để làm cho những quan điểm ấy càng chắc chắn càng hay.

Vậy thời, nếu những bản năng thể xác là những yếu tố bảo tồn sở đắc qua thời gian, và nếu chúng hướng về sự thoái lui, về sự tái tạo một trạng thái cũ, thì chúng tôi chỉ có thể cho rằng thể xác tiến hóa như thế, nghĩa là tiệm tiến, ấy là vì ảnh hưởng của những yếu tố ở ngoài làm xáo trộn thể xác và làm cho nó không theo khuynh hướng ngưng đọng nữa. Con vật sinh sống đơn sơ hẳn là sẽ mãi mãi như vậy kể từ lúc mới hiện hữu, nó không muốn đòi hỏi gì hơn là giữa được một lối sống đều đặn trong những điều kiện không thay đổi. Nhưng phân tích đến cùng thì có lẽ sự tiến triển của trái đất và sự liên lạc của trái đất với mặt trời đã có vang dội đến sự tiến hóa của thân xác con vật. Những bản năng thân xác bảo tồn đều hấp thụ những biến cải của đời sống mà nó bắt buộc phải chấp nhận, nó giữ lấy để nhắc lại; chính vì thế mà chúng ta có cảm tưởng sai lầm rằng đó là những lực lượng hướng về sự thay đổi và sự tiến hóa, nhưng thực ra chúng chỉ tìm cách thực hiện một mục tiêu cũ theo những đường lối có thể mới mà cũng có thể cũ. Vả chăng chúng ta có thể đoán được rằng tất cả cái gì là thân xác sẽ hướng về cứu cánh nào. Có lẽ đời sống chống lại tính bảo tồn của bản năng nếu mục tiêu mà đời sống muốn đạt là một trạng thái hoàn toàn xa lạ với nó. Mục tiêu ấy sẽ được đại diện bằng một trạng thái cũ, một trạng thái khởi sự mà đời sống đã bỏ từ lâu nhưng vẫn tìm cách quay về đó bằng những lối ngoắt ngoéo của sự tiến triển. Nhân danh một sự kiện thực nghiệm không có ngoại lệ, nếu chúng ta chấp nhận rằng tất cả cái gì sinh sống đều trở lại trạng thái vô sinh cơ, đều chết vì những lý do nội tại, thì chúng ta có thể nói rằng đời sống nào cũng hướng về sự chết; và ngược lại: cái không sinh sống có trước cái sinh sống.

Vào một lúc nào đó, một sức lực mà chúng ta chưa thể biết được đã thức tỉnh những đặc tính của đời sống trong vật chất vô hồn. Có lẽ có một tiến trình kiểu mẫu tương tự, sau này làm phát sinh cái gọi là lương tâm trong một lớp nào đó của chất sinh sống. Sự mất thăng bằng xảy ra trong vật chất vô hồn đã gây ra khuynh hướng xóa bỏ trạng thái áp bức mà nó đang phải chịu, đó là khuynh hướng đầu tiên trở về trạng thái vô hồn. Vào giai đoạn đầu chất sinh sống rất dễ chết; con đường sống quyết định bởi cơ cấu hóa chất của đời sống hẳn là không lâu la gì. Trong một thời gian lâu, hẳn là chất sinh sống sinh ra, tái sinh và chết đi dễ dàng, cho đến khi những yếu tố quyết định bên ngoài đã biến đổi để có thể làm cho chất sinh sống sống sót được phải đi khác con đường sinh sống nguyên thủy, phải bước vào những ngách quanh co mới đến được mức cuối cùng tức là sự chết. Đời sống đi đến sự chết bằng những chặng quanh co theo rất đúng bản năng bảo tồn, chính những chặng quanh co ấy là cái gì ngày nay xác nhận dưới mắt chúng ta như một toàn đồ của những hiện tượng sống. Người ta chỉ có thể tiến gần nguồn gốc và mục tiêu của đời sống bằng những giả thuyết ấy mà thôi, nếu gán cho bản năng một tư cách bảo thủ thuần túy và duy nhất.

Những cách diễn dịch để giải thích những nhóm lớn bản năng mà chúng ta cho là nền tảng những hiện tượng sinh sống của thân thể cũng không kém vẻ lạ lùng. Khi chủ trương sự hiện hữu của những bản năng bảo tồn mà chúng ta gán cho tất cả các vật sinh sống, chúng ta có vẻ như đứng đối lập với giả thuyết rằng đời sống theo bản năng muốn lôi kéo con vật sinh sống về cõi chết. Quả vậy, bản năng bảo tồn, bản năng tạo uy thế, bản năng tự xác định, sẽ không còn ý nghĩa lý thuyết nếu người ta áp dụng giả thuyết trên; đó là những bản năng bán phần mà thân thể sử dụng làm phương tiện duy nhất để trở về cõi chết, để tránh khỏi những hướng đi khác, ngoài hướng đi nội tại của nó là trở về cõi chết. Còn như khuynh hướng bí hiểm của thân thể là khuynh hướng tự xác định bất kể cái gì và chống lại bất cứ cái gì, khuynh hướng ấy tiêu tan đi vì không hợp với một mục đích phổ quát hơn, bao quát hơn. Thân thể chỉ muốn chết theo cách chết của nó; những tên lính bảo vệ sự sống là bản năng, thuở ban đầu chỉ là những thuộc hạ của sự chết. Và chúng ta đứng trước một tình trạng nghịch thường là thân thể sinh sống hết sức chống lại những ảnh hưởng (nguy hiểm) có thể giúp nó đặt mục đích bằng những đường lối ngắn hơn, đó là một thái độ đặc biệt của những khuynh hướng bản năng đứng đối lập với những khuynh hướng trí tuệ [3] .

Nhưng thực sự nó như vậy chăng? Chúng tôi xét định những khuynh hướng dục tính dưới một nhỡn quan khác và chúng tôi dành cho lý thuyết bệnh suy nhược thần kinh một chỗ đứng riêng. Không phải con vật nào cũng có một động lực thúc đẩy nó tiến tới và quyết định sự tiến triển của nó. Cho đến ngày nay nhiều con vật còn giữ nguyên giai đoạn tối sơ của chúng, ngày nay người ta còn thấy có nhiều con vật không đại diện cho cái gì là nguồn gốc của động vật và thảo mộc thượng đẳng. Trong số những cơ thể đơn sơ họp thành thân thể một con vật thượng đẳng cũng thế, có những cơ thể không hoàn thành cuộc tiến triển đưa đến sự chết tự nhiên. Chính vì thế mà chúng tôi có lý do để cho rằng những tế bào mầm giống (cellules germinales) giữa được cơ cấu nguyên thủy của chất sống và đến lúc nào đó thì rời khỏi thân thể, chúng giữ nguyên vẹn đặc tính di truyền và mới sở đắc; có lẽ nhờ hai tính di truyền và mới sở đắc mà những tế bào mầm giống có khả năng sống độc lập. Đặt vào chỗ có điều kiện thuận lợi tế bào giống lại bắt đầu phát triển, nghĩa là diễn lại tiến trình nhờ đó mà nó sinh ra, sau đó một phần chất của nó theo đuổi sự phát triển đến đầu đến đũa, còn phần kia trở thành một phần mầm giống còn lại, sẽ tái khởi sự tiến triển từ điểm nguồn cội. Chính vì thế mà những tế bào giống chống lại sự chết của chất sống và hình như làm cho chất sống có một cái mà chúng tôi gọi là bất tử tiềm thế, tuy rằng đây có lẽ chỉ là sự kéo dài con đường đưa đến cõi chết. Điều có ý nghĩa đặc biệt đối với chúng tôi là tế bào giống muốn hoàn thành sứ mạng phải hòa lẫn với một tế bào giống khác vừa giống nó lại vừa khác nó, hay ít ra được nó tăng sức hay thúc đẩy.

Nhóm bản năng dục tính gồm những bản năng chỉ đạo số phận của những tế bào giống sống sót lại sau khi con vật chết, bảo vệ sự an toàn và sự thuần khiết của tế bào giống khỏi ảnh hưởng của thế giới bên ngoài, bảo vệ sự kết hợp của chúng với những tế bào giống khác. Những bản năng dục tính cũng bảo thủ như các bản năng khác trong phạm vi chúng tái tạo những trạng thái cũ của chất sinh sống, nhưng chúng tỏ ra bảo thủ cao độ hơn nhờ chúng có khả năng chống cự ảnh hưởng bên ngoài mạnh hơn và giữ được sự sống trong một thời gian khá lâu [4] . Đó là những bản năng sinh sống theo đúng nghĩa của danh từ; chúng hoạt động chống lại khuynh hướng của những bản năng khác, những bản năng khác đưa cơ thể đến cõi chết, chúng đứng vào cái thế đối lập với những bản năng khác, phân tâm học đã hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng từ lâu. Đời sống diễn ra một nhịp luân phiên như sau: một nhóm bản năng hấp tấp tiến tới hầu đạt được mục đích tối hậu của đời sống càng sớm càng hay, nhóm khác sau khi đã tiến tới giai đoạn nào đó trên đường tiến ấy thì lộn trở lại để rồi tiến tới nữa vẫn theo con đường ấy, làm như vậy nó kéo dài cuộc hành trình. Tuy rằng dục tính và sự khác biệt giống đực giống caái hẳn là chưa có khi mới khởi sự sống, nhưng cũng có thể rằng những bản năng trở thành nam nữ tính ở một giai đoạn sau, lúc thoạt kỳ thủy đã có mặt rồi và lúc ấy đã hoạt động đối lập với hoạt động phối hợp của những "bản năng của cái Tôi".

Nhưng chúng ta hãy trở lại những lời đã bàn để xét lại xem có đặt trên một căn bản vững chắc hay không. Ngoài những bản năng dục tính có còn những bản năng khác hoạt động theo chiều hướng tái tạo một trạng thái cũ, có những bản năng khác nữa muốn đạt tới một tình trạng chưa bao giờ có chăng? Trong thế giới hữu sinh cơ (sự sinh sống xét về phương diện vật chất duy nhất) tôi không hề biết một thí dụ chắc chắn nào tương nghịch với đặc điểm mà tôi đưa ra cả. Hẳn là ta không thể gán cho động vật và thực vật một khuynh hướng phát triển tiệm tiến, tuy rằng sự phát triển ấy có thực không thể chối cãi được. Khi chúng ta nói rằng giữa giai đoạn này hơn giai đoạn kia hay ngược lại, thực ra chúng ta chỉ xét định chủ quan: điều đó cũng có thực và cũng không thể chối cãi được. Vả lại khoa học về đời sống cũng dạy ta rằng sự tiến bộ về phương diện này sẽ bị phương diện khác "cầm chưnừng" hay gánh chịu hậu quả. Ngoài ra, còn nhiều hình thức động vật mà những trạng thái trẻ trung chúứng thực rằng sự phát triển có tính cách thoái lui. Sự phát triển tiệm tiến (évolution progressive) cũng như sự thoái lui đều là hậu quả của sự thích ứng, những động lực ở ngoài ép buộc con vật phải thích ứng, tgrong cả hai trương hợp vai trò của bản năng chỉ có việc tàng trữ những biến cải mà cơ thể bắt buộc phải nghe theo và đổi ra thành nguồn khoan khoái. [5]

Nhiều người không thể bỏ qua sự tin tưởng rằng có một khuynh hướng nhắm vào chí toàn thiện nhờ đó loài người có được khả năng trí tuệ và thăng hoa đạo đức như ngày nay, và cứ theo đà ấy thì loài người có quyền chờ đợi con người này nay sẽ tăng tiến liên tục cho đến lúc trở thành một siêu nhân. Tôi xin thú thực rằng tôi không tin có một khuynh hướng bên trong như thế và tôi không thấy có lý do nào để giữ lại ảo tưởng tốt lành ấy cả. Theo ý tôi sự tiến hoá của loài người như đã diễn ra cho tới ngày nay không cần sự giải thích nào khác cách giải thích loài vật, nếu có một thiểu số người hầu như bị một khuynh hướng mạnh mẽ thúc đẩy họ tiến tới những mức độ toàn thiện mỗi ngày một cao hơn, không thể cưỡng lại được, thì tất nhiên chúng ta sẽ giải thích đuợc rằng đó là hậu quả của sự ức chế bản năng, tất cả cái gì là nghiêm chỉnh trong nền văn hóa của nhân loại đều căn cứ vào sự ức chế bản năng. Bản năng bị dồn nén không bao giờ chịu bỏ sự đòi hỏi thoả mãn hoàn toàn, nó nhắc lại một sự thoả mãn tối sơ; tất cả mọi cách tìm cái gì thay thế thoả mãn tối sơ hay phản ứng lại, tất cả những cách thăng hoa bản năng, đều không thể chấm dứt được trạng thái căng thẳng liên miên của nó, chính đó là cái gì đóng vai trò một sức kích thích cơ thể khiến cho cơ thể không bằng lòng một tình trạng đã có dù tình trạng ấy tốt hay xấu, sức kích thích ấy "không ngớt thúc đẩy nó luôn luôn tiến tới", nói theo ngôn từ của thi gia (Faust, I). Con đường trở lại sau, trở lại sự thoả mãn đầy đủ thường thường bị cản trở bởi sự chống cự của hiện tượng dồn nén, bởi vậy cơ thể chỉ còn cách tiến theo hướng khác còn để trống, tuy nhiên nó cũng không hy vọng đến đầu đến đũa và không bao giờ đạt đến đích. Những tiến trình làm cho xuất hiện bệnh nhược thần kinh sợ sệt (phobie névrotique), xét cho cùng không phải là cái gì khác là sự cố gắng trốn tránh việc thỏa mãn một xu hướng, thí dụ ấy cho ta thấy rõ do đâu mà phát sinh cái gọi là "khuynh hướng đi đến toàn thiện", tuy nhiên chúng ta không thể cho rằng tất cả mọi người đều có khuynh hướng ấy. Điều kiện năng động của khuynh hướng ấy thì hầu như ở đâu cũng có, nhưng điều kiện điều động và tổ chức thì ít khi thuận lợi.

Tuy nhiên, chúng ta nên nghĩ đến một việc có thể xảy ra: sự cố gắng của bản năng sinh sống (ErosROS) là tập hợp những đơn vị cơ thể để lập ra những toàn bộ rộng mãi ra, việc ấy có thể coi là để bù lại sự khiếm khuyết một "khuynh hướng đi đến toàn thiện". Những cố gắng của cái EROSros và những hậu quả của sự dồn nén có thể đem lại cho ta sự giải thích những hiện tượng mà người ta vẫn thường cho là thuộc về khuynh hướng toàn thiện.


6. Sự xung khắc của các bản năng – bản năng sống và bản năng chết

Những quan điểm trình bày trong chương trên đưa chúng tôi đến kết luận là có một sự chống đối dứt khoát giữa những "bản năng của cái Tôi" và những bản năng dục tính, loại trên hướng về cõi chết, còn loại dưới hườớng về sự tiếp tục dòng sống. Về nhiều phương diện sự kết luận ấy không thể thỏa mãn chúng tôi được. Vả chăng chúng tôi chỉ có thể gán tính cách bảo tồn hay khuynh hướng nhắc lại cho loại thứ nhất (bản năng của cái Tôi). Quả vậy, theo cách nhìn của chúng tôi thì bản năng của cái Tôi phát sinh từ ngày vật chất vô hồn nhận được sự sống, bản năng đó nhắm vào mục tiêu tái lập tình trạng vô hồn. Còn như bản năng dục tính thì ai cũng biết nó tái tạo những trạng thái nguyên thủy của sinh vật sống, nhưng mục đích mà nó muốn đạt bằng đủ mọi phương tiện là làm cho hai tế bào mầm giống hợp lại làm một, mỗi tế bào có sự phân hóa riêng biệt. Khi sự hợp nhất ấy không thực hiện được thì tế bào mầm giống cũng chết như tất cả những đơn tố khác của một cơ thể đa bào. Chỉ khi nào hai tế bào giống hợp nhất được là chức vụ dục tính có thể nối dài đời sống và gán cho tế bào giống một bề ngoài bất diệt. Nhưng đâu là biến cố quan trọng của chất sinh sống? Chất sinh sống được tái tạo bởi sự sinh sản bằng phương tiện giao hợp, hay bằng phương tiện ghép chặt hai con lại như trường hợp hai con độc bào. Đó là câu hỏi chúng tôi không thể trả lời được, và chúng tôi cũng sẽ được nhẹ mình nếu tìm được những sự kiện chứng minh rằng thuyết của chúng tôi không đúng. Nếu không đúng thì tự nhiên chúng ta thấy không làm gì còn có sự đối lập giữa bản năng của cái Tôi (chết) và bản năng dục tính (sống); cả đến khuynh hướng nhắc lại cũng mất tầm quan trọng mà chúng tôi cho rằng phải có.

Vậy thì chúng ta hãy trở lại giả thuyết đã nói đến ở trên, xem có thể tìm được những sự kiện đúng để bác bỏ thuyết ấy không. Chúng tôi đã giả thiết rằng cái gì sinh sống rồi cũng phải chết vì những lý do nội tại của nó (nhân đó chúng tôi cũng rút ra một vài kết luận). Khi giả thiết như thế, chúng tôi nói một cách chất phác vì chúng tôi tưởng rằng đã nói cái gì hơn một sự giả thiết. Đó là một ý nghĩ rất quen thuộc với chúng ta, một ý nghĩ mà thi nhân đã mớm cho chúng ta. Nếu chúng ta chấp nhận, có lẽ là để chúng ta tin và tự an ủi. Vì người ta rồi phải chết, và trước khi chết có lẽ còn được trông thấy những người thân mình chết, người ta sẽ tự an ủi rằng mình phải chịu một luật khắc nghiệt của tạo hóa chứ không phải một tai nạn ngẫu nhiên có thể tránh được. Nhưng có lẽ sự tin tưởng rằng cái chết có sự cần thiết nội tại của nó, thực ra cũng chỉ là một trong nhiều ảo tưởng khác mà chúng ta tự tạo ra để có thể chịu được gánh nặng của cuộc sống. Sự tin tưởng ấy hẳn là không có từ lúc thái sơ, vì các dân tộc cổ sơ không có ý nghĩ về cái chết tự nhiên, họ cho rằng họ chết là tại ảnh hưởng của kẻ thù hay ma quỷ. Như vậy thì chúng ta chẳng cần mất thì giờ dùng sinh vật học để xét đoán sự tin tưởng ấy.

Nếu chúng ta nhìn qua sinh vật học thì chúng ta sẽ ngạc nhiên rằng các sinh vật học gia ít khi đồng ý với nhau về vấn đề cái chết tự nhiên, cả đến khái niệm chết cũng tan biến mất. Các giống vật thượng đẳng có một đời sống trung bình trong một thời gian nhất định, sự kiện ấy thuận lợi cho quan điểm của chúng ta: cái chết xảy ra vì những nguyên nhân nội tại; nhưng trường hợp những con vật khổng lồ và những cây đại thụ sống rất lâu mà người ta cũng chưa có cách biết được đích xác, trường hợp ấy hầu như phủ định quan điểm chết vì nguyên nhân nội taại. Theo quan niệm vĩ đại của W. Fliess thì tất cả những hiện tượng sinh sống của cơ thể (chắc là có cả sự chết) đều có một kỳ hạn nào đó, đó là dấu hiệu sự tùy thuộc vào thời gian (năm, mặt trời) của hai chất sinh sống đực và cái. Sự quan sát cho biết rằng những mãnh lực bên ngoài làm biến đổi sự phát hiện đời sống nói chung, đời sống thảo mộc nói riêng, bằng cách làm cho đời sống phát hiện sớm hay trễ; những sự kiện ấy muốn như phủ định tính cách chuẩn xác của công thức Fliess, ít ra chúng ta cũng có thể nghi ngờ tính cách phổ quát của những luật mà ông đưa ra.

Chúng tôi chú trọng đặc biệt đến cách giải luận thời gian sống chết của A. Weismann. Chính ông ta đã phân định chất sinh sống ra hai phần, một phần sẽ chết và một phần trường tồn bất diệt, phần thứ nhất là thân thể hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ có thân thể là chết một cách tự nhiên, còn tế bào mầm giống thì có tiềm năng bất diệt, vì có điều kiện thuậện lợi nó có thể phát triển thành một cá vị khác, nói một cách khác, nó tạo lấy một thân xác khác.

Điều đáng chú ý của quan niệm ấy là có sự tương đồng với cách nhìn của chúng tôi bằng những phương tiện khác. Weismann nghiên cứu chất sinh sống về phương diện hình thái học, đã phân biệt ra một phần sẽ phải chết là thân xác (soma); còn phần kia thì bất tử, tức là nguyên sinh chất mầm giống (plasma germinatif) dùng để bảo vệ giống nòi, để sinh đẻ. Đối với chúng tôi, chúng tôi không nghiên cứu chất sinh sống mà chỉ nghiên cứu những mãnh lực đang tác động ở trong ấy, và chúng tôi đã đi đến chỗ phân biệt hai loại bản năng: những bản năng dẫn dắt đời sống đến chỗ chết và những bản năng dục tính chỉ tìm cách tái tạo đời sống. Quan niệm của chúng tôi như thế cũng là một hệ kết về phương diện năng động của thuyết hình thái học do Weismann chủ trương.

Nhưng cách giải quyết vấn đề chết của Weismann đã làm cho mất cả sự tương đồng. Theo Weismann thì chỉ có những cơ thể đa bào mới có sự phân hóa ra thân xác sẽ chết và nguyên sinh chất mầm giống bất tử; còn như cơ thể độc bào thì con vật và tế bào mầm giống cùng là một cơ thể duy nhất bất khả phân [6] . Bởi vậy cho nên vật độc bào có tiềm thế bất tử, chỉ có loài đa bào là phải chết mà thôi. Cái chết của loài vật thượng đẳng là cái chết tự nhiên, chết vì những lý do nội tại, nhưng không phải vì đặc tính nguyên thủy của chất sinh sống [7] và không thể coi là một sự cần thiết tuyệt đối có nguyên nhân từ bản chất và yếu tính của đời sống [8] . Sự chết chỉ là một hiện tượng thích nghi, một hiện tượng thích ứng với điều kiện ngoại tại của sự sống, bởi vì, từ khi những tế bào trong thân thể được chia thành thân xác và chất nguyên sinh mầm giống, thì sự trường tồn của đời sống trở thành xa xỉ vô ích. Vì xuất hiện sự phân hóa ấy trong loài vật đa bào cho nên sự chết đối với nó có thể được lắm và còn hữu lý nữa. Từ đấy, thân xác những con vật thượng đẳng sẽ chết vì nguyên nhân nội tại và theo những thời kỳ nhất định, còn như loài vật nguyên sinh (độc bào) thì bất tử. Sự sinh sản không còn xảy ra đồng thời với lúc chết, nhưng trở thanh một đặc tính nguyên thủy của vật chất sinh sống cũng như sự tăng trưởng; sự sinh sản cũng là sự tăng trưởng nối dài. Đời sống chưa hề được giải quyết với quan niệm liên tục, từ khi nó xuất hiện trên trái đất lần thứ nhất [9] .

Rất dễ thấy rằng thuyết của Weismann không giúp ích gì cho cách nhìn của chúng tôi khi ông ta chủ trương cái chết tự nhiên của các cơ thể thượng đẳng. Nếu sự chết chỉ là một sự sở đắc muộn màng của giống vật sinh sống, thì những bản năng hướng về sự chết không thể xuất hiện cùng một lúc với sự xuất hiện đời sống trên trái đất này được. Con vật đa bào chết vì những nguyên nhân nội tại, không đủ sức phân hóa hay vì khuyết điểm của sự biến hóa trong cơ thể (métabolisme), điều ấy không có ích lợi gì cho vấn đề của chúng ta. tuy nhiên chúng ta phải công nhận rằng quan niệm sự chết như thế gần với cách suy tưởng quen thuộc của người đời hơn giả thuyết kỳ dị về "bản năng dắt đến sự chết".

Theo ý tôi thì sự bàn cãi về những quan điểm của Weismann không đem lại kết quả nhất định [10] . Một vài tác giả trở lại quan điểm của Gœthe (1883), ông này cho rằng sự chết là hậu quả trực tiếp của sự sinh sản. Hartmann, đáng lẽ biểu thị đặc điểm của sự chết bằng một cái tử thi, một phần vô hồn của chất sinh sống, thì lại định nghĩa là "kết quả của một sự phát triển cá nhân". Theo nghĩa ấy thì con nguyên sinh động vật (protozoaire) cũng chết, vì sự chết của nó bao giờ cũng xảy ra đúng với lúc nó sinh ra con khác như vậy là sự sinh che lấp mất sự tử, tất cả chất của con vật mẹ có thể trực tiếp truyền lại cho con vật mới sinh.

Như vậy, công việc tìm tòi phải xoáy vào điểm phối kiểm giả thuyết chất sinh sống bất tử bằng cách thực nghiệm những con vật độc bào. Woodruff, người Mỹ, đã nuôi trong ống thủy tinh một con trích trùng có râu (infusoire cilié), hình chiếc giầy "băng túp", con trích trùng sinh sản bằng cách phân thân ra làm hai, ông đã theo dõi sự sinh sản ấy cho đến thế hệ thứ 3.029 mới thôi; mỗi lần, ông tách riêng một con của cặp mới ra thả vào ống nước trong khác. Con thứ 3.029 của dòng họ ấy cũng vẫn trẻ trung tươi tắn không khác gì ông bành tổ đã 3.029 đời của nó, không có dấu hiệu gì là già nua hay suy biến cả. Nếu những con số ấy có thể chứng minh được cái gì thì hầu như đó là một cách chứng minh bằng thực nghiệm sự bất cử của loài vật nguyên sinh (độc bào) [11] .

Những nhà bác học khác đã đạt tới những kết quả khác. Trái với sự nhận xét của Woodruff, hai nhà bác học Maupas và Calkins, cùng với nhiều người khác, nhận thấy rằng, sau nhiều chuyến phân thân, con trích trùng ấy đã yếu đi, bé hơn, mất đi phần nào của cơ thể và sẽ chết nếu người ta không đem lại cho nó ảnh hưởng bổ dưỡng. Như vậy là sau một thời kỳ già nua, con vật độc bào cũng chết như loài vật thượng đẳng, điều này trái với lời khẳng định của Weismann cho rằng sự chết là một sở đắc muộn mằn của những cơ thể sinh sống.

Duyệt lại toàn bộ những cuộc tìm tòi ấy chúng ta tìm thấy hai điểm hầu như có thể đem lại một điểm tựa chắc chắn. Sự kiện thứ nhất như sau: trong thời kỳ mà hai con vật nhỏ chưa có gì suy yếu vì già nua, nếu hai con trộn lộn với nhau trong một thời gian rồi lại phân ra làm hai, thì chúng trẻ lại, tránh được sự già nua. Sự giao cấu ấy có thể coi như kiểu mẫu đầu tiên của sự sinh sản dục tính, tuy rằng chưa có gì để chúng ta có thể nói đến sự bội tăng giống nòi, tuy rằng đây chỉ là sự trộn lẫn chất trong người hai con vật (Weismann gọi là lưỡng tính hợp thể (amphimixie)). Nhưng tác dụng làm trẻ lại của sự giao cấu có thể thay thế bằng một vài thứ kích thích, một vài sự thay đổi trong thành phần của nước nuôi dưỡng con vật, sự tăng gia nhiệt độ, sự rung động. Xin nhắc lại những cuộc thí nghiệm của J. Loeb, ông lấy noãn con oursin (hải đởm), dùng một vài chất hóa học kích thích, đã làm cho noãn phân đôi, bình thường thì chỉ sau khi thụ thai mới có sự phân đôi ấy.

Sự kiện thứ hai mà chúng tôi nói đến là sự kiện sau đây: dầu sao thì có lẽ con trích trùng (độc bào) chết vì một cái chết tự nhiên, cái chết đó là kết cục và hậu quả của tiến trình sinh sống. Có sự mâu thuẫn giữa Woodruff và những nhà bác học khác vì Woodruff đã để mỗi thế hệ độc bào mới sinh vào trong nước mới thấay. Khi ông không thay nước thì ông nhận thấy con vật cũng có dấu hiệu suy yếu già nua như sự nhận xét của những thí nghiệm khác. Ông kết luận rằng những cặn bã phát sinh từ sự biến hóa trong người con vật độc bào, và nó bài tiết ra nước ở xung quanh mình nó, những cặn bã đó rất tai hại cho nó, ông đã chứng minh đích xác rằng chỉ có những cặn bã của nó do sự đào thải ra là độc hại cho những thế hệ sau. Quả vậy, khi dùng nước chứa nhiều cặn bã đào thải ra của một giống vật khác biệt hẳn thì những con vật độc bào đó sinh trưởng rất khả quan, chúng chỉ chết khi phải sống giữa cặn bã của chúng bài tiết ra mà thôi. Vậy thì, mặc kệ một mình con trích trùng (độc bào), nó sẽ chết một cái chết tự nhiên vì không bài tiết được hết những cặn bã phátải thải ra thải. Có lẽ xét cho cùng thì những loài vật thượng đẳng cũng chết vì nguyên nhân ấy.

Đến đây, chúng ta nên tự hỏi rằng, nói một cách tổng quát thì có nên nghiên cứu loài nguyên sinh động vật (độc bào) để tìm lý giải cho vấn đề chết tự nhiên không? Sự tổ chức nguyên thủy của những con vật ấy che lấp một vài phát hiện quan trọng, những điều kiện phát hiện ấy ở giống vật thượng đẳng vì sự phát hiện đã có sắc thái, có thể chiêm nghiệm dưới nhỡn quan hình thái học. Khi chúng ta bỏ phương diện hình thái học để đứng về phương diện năng động học thì chúng ta chẳng cần biết có thể chứng minh được sự chết tự nhiên của con nguyên sinh động vật (protozoaire) hay không. Trong người con nguyên sinh động vật chưa có sự phân biệt chất có thể chết được và chất mà sau này có tính cách bất tử. Những mãnh lực dẫn dắt sự sống đến cõi chết có lẽ cũng đã tác động từ lúc khởi thủy, tuy rằng người ta chưa có thể chứng minh được sự hiện diện chúng, ảnh hưởng của chúng bị che lấp bởi những mãnh lực bảo tồn sự sống. tTuy nhiên, sự quan sát của các nhà sinh vật học cho phép chúng ta chấp nhận rằng cả đến loài nguyên sinh động vật cũng có những tiến trình nội tại dẫn đến sự chết. Mặc dù có thể chứng minh được rằng loài nguyên sinh sinh động vật bất tử theo nghĩa của Weismann, sự khẳng định của ông rằng cái chết chỉ là một sự sở đắc muộn màng chỉ có thể áp dụng cho những dấu hiệu phát hiện cái chết, chứ không giúp ta hiểu biết gì về những tiến trình dắt dẫn đến sự chết. Như vậy là chúng ta không thấy sinh vật học loại bỏ được sự hiện hữu của bản năng đưa đến sự chết. Bởi vậy cho nên chúng ta vẫn có thể theo đuổi công việc tìm hiểu xem có thể có những bản năng ấy chăng, nhất là khi chúng ta còn những lý do khác để theo đuổi. tTuy nhiên, chúng ta vẫn có thể so sánh cách phân biệt bản năng sống và bản năng chết của chúng ta với các phân biệt thân xác và chất nguyên sinh mầm giống của Weismann, sự so sánh ấy vẫn còn đầy đủ giá trị.

Chúng ta hãy dừng lại ở quan niệm đối tính (dualiste) về đời sống bản năng. Theo thuyết của E. Hering thì có hai nhóm tiến trình đối lập nhau diễn biến trong cách sinh sống: tiến trình xây dựng (sự tiến hóa) và tiến trình phá hoại (biến đổi chất sinh sống thành chất không sinh sống). Chúng ta có nên đem những hoạt động đối lập của bản năng sống và bản năng chết ra mà đồng nhất hóa với hai hướng đi của những tiến trình sinh sống chăng? Nhưng có một điều mà chúng ta không thể bỏ qua được: chúng ta không ngờ mà đi vào ngõ ngách của triết lý Schopenhauer, theo triết lý ấy thì cái chết là kết quả chính thức của mục đích mà đời sống theo đuổi, còn như bản năng dục tính là sự thế hiện của ý muốn sinh sống.

Chúng ta hãy can đảm tiến lên bước nữa. Theo cách nhìn thường thường được chấp nhận thì sự kết hợp nhiều tế bào lại thành một tổ hợp sinh sống, nói khác đi, là cơ cấu của các cơ thể, cơ cấu ấy là một phương tiện để nối dài thời gian sinh sống. Mỗi tế bào dùng để duy trì sự sống của những tế bào khác và nhà nước tế bào có thể tiếp tục sinh sống tuy rằng có một số tế bào chết đi. Chúng ta cũng biết rằng sự giao cấu, nghĩa là sự phối hợp làm một của hai con vật độc bào trong một thời gian, sự giao cấu đó tác động đến cả hai con theo chiều bảo tồn và làm trẻ lại. Như vậy chúng ta có thể thử áp dụng lý thuyết phân tâm học về cái libido cho sự liên lạc giữa các tế bào mà nói rằng bản năng dục tính của bản năng sinh sống ở trong mỗi tế bào tác động đến những tế bào khác, chống lại phần nào bản năng chết của những tế bào khác, nghĩa là những tiến trình mà bdản năng chết khơi động lên, rút cục sẽ giữ cho tế bào khác sinh sống. Nếu là một tác động hỗ tương, có thể nói là tác động thành chuỗi, thì một vài loại tế bào có thể đi đến chỗ hy sinh mình khi thi hành nhiệm vụ bảo vệ sự sống của cái libido. Như vậy, những tế bào mầm giống tỏ ra ngã-ái (narcissique) một cách tuyệt đối, dùng chữ ngã ái chúng tôi dùng một chữ trong lý thuyết bệnh suy nhược thần kinh, chúng tôi dùng chữ ấy để nói một người giữ lấy trọn vẹn libido về mình, không muốn san sẻ một chút nào cho một vật khác. Những tế bào mầm giống cần libido của chúng, cần sự hoạt động của bản năng sống, chúng cần với tư cách những lực lượng dự trữ để sau này sẽ dùng đến trong công việc tạo dựng cao độ cho chúng. Có thể rằng những tế bào của bướu hay lựu ác tính (tumeur maligne) tai hại cho cơ thể, cũng có tính cách ngã ái theo nghĩa ấy. Bệnh lý học sẵn sàng để coi mầm của chúng là thiên bẩm và có dục đặc tính của một cái thai. Như vậy là libido của những bản năng dục tính cũng tương đương với thần EROSros (ái tình) của thi gia và triết gia, Eros có nhiệm vụ kết nạp tất cả cái gì sinh sống.

Đến đây chúng ta có thể dừng lại đôi chút để ghé mắt nhìn qua sự tiến triển chậm chạp của thuyết libido. Sự phân tích bệnh suy nhược thần kinh di chuyển (névrose de transfert) đã cho chúng ta thấy rằng những bản năng dục tính hướng vào đối tượng đối lập với những bản năng khác mà chúng tôi chưa biết bản chất, chúng tôi hãy tạm gọi là "bản năng của cái Tôi". Trong số những bản năng ấy, chúng tôi đã tách biệt ra được những bản năng dùng để bảo tồn sự sống. Trình độ hiểu biết hiện nay không cho phép chúng ta đi xa hơn. Muốn nghiên cứu tâm lý học cho chắc chắn thì không gì bằng hiểu biết tạm đủ về bản chất chung của các bản năng và những đặc tính của mỗi bản năng, nếu có. Nhưng về phương diện này người ta vẫn lần mò trong tối tăm và quanh quẩn ở nguyên một chỗ. Mỗi người tự ý muốn phân ra bao nhiêu bản năng nền tảng theo sở thích của họ rồi tha hồ mà làm trò nhào lộn với những bản năng nền tảng của họ chẳng khác nào các triết gia Hy Lạp nhào lộn với bốn nguyên tố: khí, lửa, đất và nước. Đến lượt phân tâm học không thể khước từ được một thuyết bản năng, cho nên cũng dùng đến cách phân biệt thông thường căn cứ vào hai chữ "đói và tình". Làm như vậy, phân tâm học không đến nỗi võ đoán, dùng cách phân định ấy họ đã có thể tiến xa trong sự phân tích bệnh thần kinh tinh thần (psycho-névróe). Tuy nhiên, phân tâm học đã phải mở rộng khái niệm "dục tính" (và như vậy là nới rộng cả khái niệm bản năng dục tính), họ đã phải nhét vào trong ấy nhiều sự kiện không tham dự vào chức vụ sinh sản chính nghĩa, làm cho nhiều người ưa chuẩn xác, và cả người trí thức giả dối nữa, phải lấy làm bực tức.

Phân tâm học tiến lên bước nữa khi người ta đề cập đến cái Tôi tâm lý học mà cho đến bây giờ người ta mới chỉ biết rằng nó là một đòi hỏi của con người chỉ biết dồn nén, kiểm duyệt, tạo ra công cụ phòng vệ và phản ứng. Hẳn là đã từ lâu nhiều người tinh ý và có óc phê bình đã đứng lên phản đối sự áp dụng hẹp hòi khái niệm libido vào tinh lực của bản năng dục tính hướng về đối tượng. Nhưng tiếc rằng họ không cho biết họ lấy tài liệu ở đâu, và họ không rút ra được một kết luận khả dĩ dùng vào công việc phân tích được. Phân tâm học thận trọng hơn, phân tâm học gia đã để ý thấy rất nhiều trường hợp trong đó libido rút khỏi vật dùng làm đối tượng của nó để chuyển vào cái Tôi (lật vào trong); nghiên cứu sự phát triển libido của trẻ con vào những giai đoạn tối sơ, người ta đã biết rằng chính cái Tôi là nơi chứa libido đầu tiên, libido sau mới từ cái Tôi mà lan ra vật đối tượng. Bởi vậy cho nên cái Tôi cũng được kể là một trong những đối tượng của dục tính, và chẳng bao lâu người ta biết rằng nó là đối tượng quan trọng nhất. Libido tập trung vào cái Tôi được gán cho cái tên gọi là ngã ái. [12] Libido ngã ái đó tự nhiên là một phát hiện của những bản năng dục tính, hiểu theo nghĩa phân tích của danh từ, đó là những bản năng và người ta đã phải sáp nhập vào với "bản năng bảo tồn", (ngay từ đầu, người ta đã chấp nhận sự hiện hữu của bản năng bảo tồn). Như vậy sự đối lập nguyên thủy giữa bản năng của cái Tôi và bản năng dục tính trở nên bất cập. Trong số những bản năng của cái Tôi, một vài bản năng tỏ ra có bản chất dục tính; người ta nhận thấy nhiều bản năng dục tính đã hoạt động trong cái Tôi, có lẽ bên cạnh những bản năng khác; tuy nhiên, người ta vẫn có quyền khẳng định rằng công thức cũ của chúng tôi vẫn còn dùng được, theo công thức ấy thì những bệnh thần kinh tinh thần (psycho-névrose) nguyên nhân tại có sự xung động giữa những "bản năng của cái Tôi" và những bản năng dục tính. Sự thay đổi duy nhất như sau: mới đầu người ta cho rằng sự khác biệt giữa hai nhóm bản năng là khác biệt về tính cách, về phẩm, bao giờ thì người ta cho là khác biệt về sự thích xác. Bệnh suy nhược thần kinh di chuyển là đề tài nghiên cứu đặc biệt của phân tâm học, bệnh ấy xuất hiện như kết quả của cuộc xung đột giữa cái Tôi và những lượng tinh lực libido của vật đối tượng.

Bây giờ chúng tôi phải nhấn mạnh đến sắc thái libido của những bản năng bảo tồn vì chúng tôi đã không ngần ngại mà đồng hóa bản năng dục tính với cái EROSros bảo tồn tất cả cái gì sinh sống; chúng tôi cũng cho rằng libido của cái Tôi bắt nguồn từ những lượng libido làm cho những tế bào thân xác kết hợp với nhau. Do đó chúng tôi bỗng bị đặt trước câu hỏi sau đây: nếu những bản năng bảo tồn cũng có bản chất libido thì có lẽ không có bản năng nào khác ngoài những bản năng có sắc thái libido. Sự thật thì chúng tôi chưa bao giờ thấy những bản năng khác ấy. Như vậy người ta phải chấp nhận rằng người chỉ trích chúng tôi đã có lý, ngày xưa người ta chỉ trích rằng phân tâm học muốn dùng dục tính để cắt nghĩa bất cứ cái gì, ngày nay, Jung và một vài người khác, không ngần ngại dùng danh từ libido mỗi khi họ nói đến bản năng. Chúng ta phải có thái độ nào?

Ý muốn của chúng tôi không phải như vậy. Chúng tôi đã bắt đầu bằng cách phân biệt dứt khoát sau đây: bản năng của cái Tôi – bản năng đưa đến sự chết và bản năng dục tính – bản năng sinh sống. Chúng tôi còn định xếp những bản năng gọi là bản năng bảo tồn vào loại bản năng đưa đến sự chết, nhưng sau nghĩ lại chúng tôi nhận thấy tốt hơn hết là đừng nên xếp loại như thế. Cách nhìn của chúng tôi là cách nhìn lưỡng nguyên ngay từ lúc đầu và ngày nay còn rõ rệt thêm từ khi chúng tôi thay thế sự đối lập giữa những bản năng của cái Tôi và những bản năng nguyên thủy bằng sự đối lập giữa những bản năng sống và bản năng chết. Trái lại, thuyết của Jung là một thuyết nhất nguyên, ông chỉ chấp nhận có sức lực của bản năng và dùng danh từ libido để gọi sức lực ấy, ông đã gây ra phần nào hỗn loạn; tuy nhiên điều ấy không có gì làm cho chúng tôi phải băn khoăn. Chúng tôi ngờ rằng ngoài những bản năng bảo tồn có sắc thái libido, còn có những bản năng khác hoạt động trong cái Tôi, và chúng tôi cũng muốn chứng minh sự hiện hữu của chúng. Nhưng tiếc rằng sự phân tích chưa được sâu xa để có thể làm công việc chứng minh ấy. Vả chăng những bản năng của cái Tôi có sắc thái libido có thể phối hợp với những bản năng của cái Tôi khác mà chúng ta chưa biết được. Trước khi khám phá ra hiện tượng ngã ái, phân tâm học đã ngờ rằng trong những bản năng của cái Tôi hẳn là phải có những yếu tố thuộc về libido. Nhưng đó chỉ là chuyện có thể có, không được đích xác lắm, mà những người bài bác cũng không kể đến. Đáng tiếc rằng cho đến ngày nay sự phân tích chỉ cho phép chúng tôi chứng minh sự hiện hữu của bản năng có sắc thái libido. tTuy nhiên, chúng tôi không kết luận rằng không có những bản năng khác.

Vì thuyết bản năng ngày nay còn nhiều chỗ tối tăm, cho nên chúng ta không nên khước từ bất cứ một lời chỉ dẫn nào có hy vọng đưa đến sự lý giải. Chúng tôi đã khởi sự từ sự đối lập giữa bản năng sống và bản năng chết. Tình yêu tập trung vào một đối tượng cũng phơi ra hai bộ mặt: tình yêu (âu yếm) và ghét bỏ (gây gổ). Giá có thể tìm được một dây liên lạc giữa hai cực yêu và ghét, và quy về một đầu mối thì hay biết mấy! Chúng tôi vẫn khẳng định rằng bản năng dục tính có một yếu tố hành hạ, chúng tôi cũng biết rằng yếu tố ấy có thể trở nên độc lập, hiện ra hình thức một nết hư đốn và ngự trị trên đời sống tính dục của một người. Nó cũng xuất hiện với tư cách một bản năng bán phần hơn trội ở trong một tổ chức mà chúng tôi gọi là "tiền sinh dục" (pré-génital). Bây giờ ta làm cách nào để quy khuynh hướng hành hạ (têendance sadique) về khối những bản năng của Eros, nhiệm vụ của Eros là bảo tồn và duy trì đời sống trong khi bản năng hành hạ chỉ muốn phá hoại? Chúng ta có thể cho rằng tính hành hạ đó thực ra chỉ là bản năng chết mà libido ngã-ái đã tách rời ra khỏi cái Tôi, và nó chỉ nhắm vào người khác hay vật khác, chứ không nhắm vào cái Tôi nữa? Nó được dùng vào chức vụ dục tính; ở vào giai đoạn phát triển tối sơ của trẻ con, giai đoạn tổ chức tối sơ của libido, thì sự chiếm đoạt tình yêu cũng vừa là sự phá hủy vật mình yêu; đến giai đoạn sau khuynh hướng hành hạ đứng tự lập; sau cùng, đến giai đoạn phát triển sinh dục chính thức, mục tiêu chính của ái tình là sinh con, bấy giờ khuynh hướng hành hạ thúc đẩy người ta đoạt lấy vật mình ham muốn, và thống trị nó cách nào thích hợp để thực hiện sự giao hợp. Người ta có thể nói rằng khuynh hướng hành hạ tách rời khỏi cái Tôi, đã chỉ đường đi cho những yếu tố có tính cách libido; sau này những yếu tố ấy tìm cách thâm nhập vào đối tượng yêu của chúng. Trong những trường hợp mà khuynh hướng hành hạ nguyên thủy không giảm bớt và còn tinh thuần, chúng ta có một trạng thái lưỡng ứng "yêu-ghét" như thường xảy ra cho nhiều cặp tình nhân.

Nếu chúng ta có thể chấp nhận một giả thiết như thế thì chúng ta chẳng cần tìm thí dụ nào khác về bản năng chết: đây cũng là một trong những bản năng chết, tuy có hơi sai chỗ.

Nhưng giả thiết như thế có một khuyết điểm là không được cụ thể và chúng ta có cảm tưởng là một quan niệm thần bí. Khi đặt giả thuyết và chấp nhận giả thuyết, chúng tôi có thái độ làm cho người ta ngờ rằng chúng tôi muốn thoát khỏi ngõ bí bằng bất cứ giá nào. Chúng tôi xin trả lời rằng giả thuyết ấy không phải là cái gì mới lạ, trước kia chúng tôi đã đưa ra rồi, mà lúc ấy thì chúng tôi không gặp cái gì khó khăn bế tắc cả. Trước đây kinh nghiệm trị bệnh đã bắt buộc chúng tôi phải có một cách nhìn theo đó thì khuynh hướng tự hành hạ (masochisme) là một bán phần bổ túc cho khuynh hướng hành hạ (sadisme), tự hành hạ là đem sự hành hạ thi hành với chính mình [13] . Nhưng trên nguyên tắc sự quay trở lại chính mình như thế không có gì khác sự nhắm vào đối tượng, hướng nhắm đó đối với chúng tôi là điều mới lạ. Khuynh hướng tự hành hạ hướng vào cái Tôi mà tác động như vậy thực ra chỉ là một sự thoái lui về giai đoạn trước của nó. Chỉ có một điểm trong sự định nghĩa khuynh hướng tự hành hạ là hẹp hòi quá cần phải hiệu đính: tự hành hạ có thể là một bản năng tối sơ, ngày trước chúng tôi không tin như vậy [14] .

Nhưng chúng ta hãy trở lại những bản năng hướng về sự bảo tồn sự sống. Nghiên cứu loài vật độc bào chúng tôi đã thấy sự phối hợp hai con vật một lúc rồi lại rời nhau ra, có tác động đem lại cho cả hai con sự trẻ trung, sự bổ dưỡng (coi ở trên, công việc nghiên cứu của Lipschutz). Trong những thế hệ sau, con vật không có dấu hiệu già nua và hình như có thể chịu đựng được lâu ảnh hưởng độc hại của chất nó bài tiết ra. Tôi cho rằng đây là mẫu chính của cái gì nên coi là hậu quả có thể có của sự giao hợp. Nhưng khi hai tế bào hơi khác nhau phối hợp với nhau thì chúng dùng cách nào để đổi mới đời sống như vậy? Người ta đã thay thế sự giao cấu bằng cách kích thích con nguyên sinh động vật (độc bào), bằng sự kích thích hóa học, hay làm rung động ống thủy tinh đựng nó, người ta đã tìm ra một câu trả lời chắc chắn: sự đổi mới xảy ra vì có nhiều số lượng kích thích. Sự kiện ấy phù hợp với giả thuyết rằng tiến trình sinh sống của con vật vì những nguyên nhân nội tại sẽ hướng về sự sang bằng những áp lực hóa học, nghĩa là hướng về sự chết, còn như sự phối hợp với một chất sống khác, khác về phương diện nam nữ tính, làm tăng những áp lực đó, có thể nói là đưa vào những sự khác biệt mới về sự sinh sống, làm cho công việc san bằng phải kéo dài ra, như vậy là đời sống kéo dài thêm một thời gian nữa. Dĩ nhiên là phải có một hay nhiều điều kiện tốt nhất trong sự khác biệt nam nữ thì sự giao cấu mới đem lại kết quả mong muốn, nghĩa là làm cho trẻ lại, làm cho sống lâu thêm. Chúng tôi tin tưởng rằng đời sống tâm thần, có lẽ sự sinh hoạt của thần kinh nói chung, bị chi phối bởi khuynh hướng hạ thấp, bất biến, phá bỏ sự căng áp nội tại gây ra vì những khích động (nguyên tắc Niết bàn, theo cách nói của Barbara Low); sự tin tưởng ấy là một trong những lý do quan trọng khiến cho chúng tôi chủ trương có những bản năng dẫn đến sự chết.

Nhưng lý luận của chúng tôi hơi yếu vì chúng tôi không thể tìm ra trong bản năng dục tính có cái gì là khuynh hướng nhắc lại, chính sự khám phá ra khuynh hướng nhắc lại đã cho phép chúng tôi kết luận rằng có bản năng dắt đến sự chết. Hẳn là trong tiến trình triển khai cái mầm giống thiếu gì sự nhắc lại như thếể hai tế bào giống tham dự vào sự sinh sản bằng dục tính, vào sự tiến triển trên đường sinh sống, đều chỉ làm công việc nhắc lại, tái tạo, tổng kết những nguồn gốc và khởi điểm của đời sống cơ thể; nhưng cốt tủy của tiến trình thuộc về bản năng dục tính vẫn là sự phối hợp của hai tế bào. Chỉ nhờ sự phối hợp đó mà chất sinh sống của loài vật thượng đẳng mới có tính cách bất tử.

Nói một cách khác: chúng tôi muốn biết cách thức xuất hiện của sự sinh sản bằng dục tính và nguồn gốc của những bản năng dục tính nói chung, vấn đề ấy vẫn làm người đời ghê sợ mà các chuyên gia cũng chưa giải quyết được. Bởi vậy chúng tôi sẽ mau mắn và giản dị để lựa trong số những ý kiến mâu thuẫn nhau, những ý kiến có dính dáng đến cách nhìn của chúng tôi.

Người thì loại bỏ vẻ bí hiểm quyến rũ của vấn đề sinh sản và tuyên bố rằng sự sinh sản chỉ là một trong những cách phát hiện của sự tăng trưởng (sinh sản bằng cách phân đôi, đâm chồi, v.v….). Nếu người ta theo cách nhìn thấp lè tè của Darwin, thì người ta có thể cắt nghĩa sự xuất hiện của cách sinh sản bằng hai tế bào khác nhau về nam nữ tính như sau: sự giao cấu ngẫu nhiên của loài vật độc bào tỏ ra có lợi cho giống nòi về phương diện nào đó, sự phối hợp hai tính chất được các thế hệ sau ghi nhớ và rút ra mãi kết luận cho đến giới hạn cuối cùng có thể kết luận được. Như vậy nam nữ tính không phải là một hiện tượng tối sơ, những bản năng rất mạnh mẽ thúc đẩy sự giao hợp dục tính chỉ thực hiện sự nhắc lại, sự tái tạo cái gì đã ngẫu nhiên xảy ra một lần và vì có lợi cho nên đã được giữ lại và lưu tồn.

Đến đây chúng ta cũng nên tự hỏi rằng chỉ nên gán cho loại nguyên sinh bào (độc bào) những đặc tính phát hiện ra và trông thấy được mà thôi hay còn có cái gì khác nữa; những sức lực và tiến trình mà tác động chỉ trở nên hiển nhiên ở những loài vật thượng đẳng thực ra chỉ mới phát sinh từ con vật thượng đẳng hay đã có từ trước ở thế tiềm năng? Quan niệm về dục tính nói trên không có ích lợi gì cho sự tìm tòi của chúng ta. Người ta có thể nói lại rằng quan niệm ấy cũng phải giả thiết rằng loài vật thô sơ nhất cũng phải có bản năng sinh sống rồi, nếu không thì con vật sẽ tránh sự giao cấu chứ không duy trì và phát triển, vì sự giao cấu chống đối lại hướng đi tự nhiên của đời sống (đi đến sợự chết), nó làm cho lúc chết lùi xa thêm. Vậy thì, nếu người ta không muốn từ bỏ giả thuyết về những bản năng dẫn đến sự chết thì người ta phải kèm thêm giả thuyết về những bản năng sinh sống. Nhưng chấp nhận như thế thì người ta bị đặt trước một giả thuyết có hai ẩn số. Những điều khoa học cho ta biết về sự phát sinh dục tính chẳng có bao nhiêu, bởi vậy chúng ta có thể ví vấn đề này với những bí mật tối tăm chưa có giả thuyết nào rọi vào được sáng.

Chúng ta cũng thấy một giả thuyết tương tự trong một lãnh vực hoàn toàn khác hẳn, nhưng giả thuyết lông bông quá, nó có vẻ một huyền thoại chứ không phải một cách giải thích khoa học, chúng tôi trích ra đây vì nó thỏa mãn một trong những điều kiện mà chúng tôi muốn có. Giả thuyết ấy cho rằng bản năng bắt nguồn từ nhu cầu tái lập một tình trạng có trước.

Tôi nghĩ đến giả thuyết của Platon, trong cuốn Tiệc hay Tình, trình bày không những nguồn gốc của bản năng dục tính mà còn nói đến một trong những sự thay đổi quan trọng nhất về sự liên lạc của dục tính với đối tượng dục tính:

"Ngày xưa, bản chất con người khác hẳn ngày nay. Nhân loại chia làm ba loại người chứ không phải hai như bây giờ. Cũng có hai loại nam và nữ, nhưng còn một loại nữa gồm cả nam lẫn nữ gọi là Androgyne. Giống Androgyne có hình tướng tròn tròn. Lưng và xương sườn uốn cong; nó có 4 tay, 4 chân, hai mặt y như nhau…, hai bộ phận sinh dục, v.v…. Thần Zeus chặt con Androgyne làm hai cũng như người ta cắt trái thanh trà để đóng hộp".

"…Cắt ra làm hai rồi, nửa nọ muốn phối hợp với nửa kia. Khi chúng gặp nhau chúng vòng tay ôm lấy nhau mạnh mẽ đến nỗi vì muốn tan mình vào làm một, chúng chịu đói và bất động, vì chúng không muốn ở một mình mà không có bạn." [15] (Platon, Tiệc hay Tình)

Chúng tôi có nên theo lời triết gia kiêm thi sĩ mà đưa ra giả thuyết sau đây chăng? Chất sinh sống là chất duy nhất và bất khả phân trước khi tiếp thụ nguyên tắc sinh sống, nhưng từ khi đã có linh hồn thì phân chia ra làm hằng hà sa số những hạt nhỏ, từ đấy các hạt lại tìm cách hợp nhất lại dưới sự thúc đẩy của những bản năng dục tính? Những bản năng ấy diễn tả theo cách thức riêng của chúng, cái gọi là ái lực hóa học của vật chất vô hồn, chúng diễn biến trải qua đời sống loài nguyên sinh vật và dần dần vượt qua những khó khăn gây ra vì hoàn cảnh bên ngoài đầy những khích động chết người chống lại chúng và bách thúc chúng phải vậy chăng? Ngoài ra chúng ta có nên giả thiết rằng những hạt nhỏ chất sinh sống bị tách rời ra, đã thực hiện hình thức vật đa bào để thỏa ý gặp lại nhau, và sau cùng để quy tụ ý muốn kết hợp cao nhất trong các tế bào mầm giống? Tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là không nên trả lời câu hỏi ấy và chỉ nên bàn luận đến đây thôi.

tTuy nhiên chúng ta cũng nên nói thêm một vài lời bình luận. Người ta có thể hỏi tôi đồng ý với những giả thuyết ấy đến mức nào? Tôi xin trả lời rằng tôi không đồng ý và cũng không tìm cách làm cho người khác đồng ý và tin tưởng. Đúng hơn, tôi không thể nói được rằng tôi tin đến mức nào. Hình như trong trường hợp này không nên đưa vào yếu tố tình cảm. Người ta có thể nghe theo một luận giải, theo dõi sự lý luận cho đến giới hạn cuối cùng chỉ vì hiếu kỳ khoa học, nói cách khác, người ta làm thầy cãi cho con quỷ mà không theo con quỷ.

Tôi biết rằng giai đoạn thứ ba của thuyết bản năng mà tôi đề cập đến không thể chắc chắn được như hai giai đoạn đầu, nghĩa là tôi mở rộng khái niệm dục tính và bàn về ngã ái. Trong hai trường hợp sau, chúng tôi chỉ suy diễn điều quan sát được, sự suy diễn có thể lầm lộn, và những sự lầm lộn ấy có thể không quá mức trung bình thường có. Hẳn là thuyết thoái lui bản năng cũng dựa vào những sự kiện quan sát được, nhất là những sự kiện dính dáng đến khuynh hướng nhắc lại. Nhưng có thể rằng tôi đã gán cho những tài liệu và sự kiện ấy tầm quan trọng và giá trị quá lớn. Tuy nhiên cũng phải để ý đến điều kiện sau đây: ý kiến chúng tôi trình bày ở đây không thể trình bày cách nào khác cách ghép giả thuyết vào với sự việc cụ thể, và làm như vậy người ta phải đi xa sự quan sát thực sự nhiều hơn người ta tưởng. Người ta biết rằng những kết quả đạt được bằng cách ấy càng ít chắc chắn thì người ta càng dùng đến phương pháp ấy luôn, mà không thể cho biết rõ mức độ phỏng chừng là bao nhiêu. Trong những loại công việc như thế tôi không tin cậy cái người ta gọi là trực giác; theo sự phán đoán của tôi thì trực giác xuất hiện như hậu quả của sự thiên lệch trí năng. Khốn thay, thường thường người ta không được vô tư khi đứng trước những vấn đề lớn của khoa học và đời sống. Tôi nghĩ rằng trong trường hợp ấy mỗi người bị chi phối bởi những ý kiến riêng của mình, những sở thích đó có nguồn gốc sâu xa, chúng gợi ý cho họ và chỉ đạo sự suy đoán của họ mà họ không biết. Chúng ta có lý do để ngờ vực như vậy, chúng ta chỉ còn cách chọn một thái độ điềm đạm độ lượng đối với sự cố gắng trí tuệ của chính mình. Thái độ phê phán đối với chính mình như thế không hề có ý dung thứ những ý kiến bất đồng. Người ta phải cương quyết gạt bỏ những lý thuyết mâu thuẫn với những điều mà chỉ cần phân tích sơ sài cũng đủ thấy, tuy nhiên, người ta cũng biết rằng thuyết của người ta đưa ra chỉ có thể tạm đúng mà thôi. Muốn phán xét sự suy đoán của chúng tôi về bản năng sinh sống và bản năng dẫn đến sự chết, người ta chẳng nên bối rối vì chúng tôi nói đến những tiến trình kỳ lạ không thể mô tả được một cách cụ thể, thí dụ như bản năng này dồn nén bản năng kia, một bản năng có thể đổi chỗ, nó từ bỏ cái Tôi để quay ra đối tượng khác. Sở dĩ như vậy là vì chúng tôi phải làm việc với những danh từ khoa học (đúng hơn, khoa học tâm lý bề sâu). Không có danh từ và ngôn từ ấy, có lẽ cũng không thể hình dung được chúng ra thế nào. Có lẽ cách mô tả của chúng tôi sẽ hết khuyết điểm nếu chúng tôi có thể thay thế danh từ tâm lý học bằng danh từ sinh lý học và hóa học. Hẳn là những danh từ sau cũng thuộc về một loại ngôn từ bóng bẩy, nhưng được cái dùng đã lâu ngày quen đi và có lẽ giản dị hơn.

Trái lại, chúng tôi nhận thấy cái làm tăng sự mù mịt của cách suy luận là những sở kiến phải vay mượn của sinh vật học. Hẳn là sinh vật học vẫn là lãnh vực có khả năng vô tận, một khoa học mà chúng ta có thể chờ đợi những lời giải thích lạ lùng nhất, mà chúng ta cũng không đoán trước được những câu trả lời sẽ có trong 10 năm sau. Có lẽ những câu trả lời ấy sẽ làm cho cả lâu đài giả thuyết của chúng ta sụp đổ như con nít bày đình chùa bằng con cờ. Người ta sẽ tự hỏi rằng đã như thế thì làm những công việc như chúng tôi làm và đem công bố như thế chẳng hóa ra vô bổ lắm sao? Tôi xin trả lời rằng một vài điểm liên hệ và tương đồng mà chúng tôi tìm ra rất đáng được chú trọng [16] .


7. Nguyên tắc khoan khoái và bản năng dẫn đến sự chết

Nếu quả thực các bản năng có nét chung là hướng về sự tái lập một tình trạng trước, thì chúng ta không lấy làm ngạc nhiên rằng trong số những tiến trình diễn biến qua đời sống tâm thần, có một số lớn không tùy thuộc nguyên tắc khoan khoái. Nét chung ấy lan rộng đến mỗi bản năng phân nhỏ, khiến cho bản năng phân nhỏ cũng chịu ảnh hưởng mà tìm cách trở lại một giai đoạn tiến hóa trước. Tất cả những phát hiện ấy tuy không bị chi phối bởi nguyên tắc khoan khoái nhưng không cần phải chống đối lại nó; bởi vậy cho nên vấn đề liên lạc giữa tiến trình bản năng nhắc lại và sự thống trị của nguyên tắc khoan khoái vẫn còn chưa giải quyết được.

Chúng ta đã nhận thấy một trong những chức vụ tối sơ và quan trọng nhất của bộ máy tâm thần là "liên kết" những khích động bản năng mỗi khi chúng đồn dập đến, là thay thế tiến trình nguyên thủy mà chúng lệ thuộc bằng tiến trình thứ nhì, là biến những lượng tinh lực tự do và chuyển động thành những lượng tinh lực bất động. Những sự thay đổi ấy có kèm theo cảm giác khó chịu hay không, điều ấy ta không cần biết; nhưng chúng ta phải nói rằng những sự thay đổi ấy không xúc phạm gì đến nguyên tắc khoan khoái cả, trái lại nguyên tắc khoan khoái dựa vào chúng mà hoạt động. Sự "liên kết" là một tác động chuẩn bị và củng cố sự thống trị của nguyên tắc khoan khoái.

Bây giờ chúng ta thử phân biệt chức vụ với khuynh hướng một cách rành rẽ hơn trước. Chúng ta sẽ nói: nguyên tắc khoan khoái là một khuynh hướng phục vụ công việc giữ cho bộ máy tâm thần, nói chung, không bị kích thích, hay ít ra giữ sự kích thích ở một mức độ cố định và càng thấp càng hay. Bây giờ chúng tôi không thể quyết định lấy một trong hai quan niệm, nhưng chúng tôi ghi nhận rằng chức vụ ấy tham dự vào khuynh hướng chung của tất cả cái gì sinh sống, khuynh hướng trở lại trạng thái tĩnh của thế giới vô cơ thể. Kinh nghiệm đã cho chúng ta biết rằng khoái lạc mạnh nhất có thể đạt được là khoái lạc giao hợp, khoái lạc cao áp thế. Nhưng công việc liên kết của khích động bản năng chỉ là một chức vụ chuẩn bị, tạo cho sự kích thích cao áp thế đường lối chuyển thành khoan khoái giải tỏa áp thế.

Trong vấn đề này ta cũng nên tự hoảỏi rằng những kích thích không liên kết có thể tạo ra cảm giác khoan khoái hay khó chịu cũng như những kích thích liên kết chăng? Chúng tôi không thể chối cãi được rằng những tiến trình kích thích không liên kết, nghĩa là kích thích nguyên sơ, có thể tạo ra những cảm giác khoan khoái hay khó chịu mãnh liệt hơn những tiến trình kích thích liên kết, nghĩa là thứ hạng. Những tiến trình nguyên sơ cũng có trước những tiến trình thứ hạng; bởi vì lúc khởi thủy chưa có những kích thích khác, chúng ta có thể kết luận rằng nếu nguyên tắc khoan khoái chưa tác động, thì sau này nó không thể nào phát hiện ra được. Như vậy, phân tích đến cùng thì chúng ta sẽ đi đến một kết quả không có gì là giản dị, trong đời sống tâm thần thoạt kỳ thủy khoan khoái tìm khoan khoái phát lộ mạnh mẽ hơn về sau, nhưng có giới hạn và còn nhiều lúc đứt đoạn và ngưng lại. Đến những thời kỳ sau chín chắn hơn, nhưng những khuynh hướng phụ thuộc vào nguyên tắc khoan khoái cũng như những khoan khoái khác hẳn, không thể tránh khỏi được sự liên kết. Dẫu sao thì trong tiến trình kích thích, yếu tố sinh ra sự khoan khoái và khó chịu phải có mặt trong cả những tiến trình thứ hạng và tối sơ.

Đến đây có lẽ chúng ta nên mở đầu một loạt những cuộc nghiên cứu mới. Tâm thức của chúng ta nhận được trong người chúng ta cảm giác khoan khoái và khó chịu, ngoài ra còn là cảm giác về một áp thế đặc biệt, áp thế đó cũng làm ta thấy khoan khoái hay khó chịu. Những cảm giác sau sẽ cho phép chúng ta phân biệt tiến trình tinh lực liên kết với tiến trình tinh lực không liên kết chăng? Cảm giác áp thế liên hệ tới độ lớn tuyệt đối, tới mức độ tinh lực cao thấp, còn như cảm giác khoan khoái và khó chịu chính thức thì liên hệ tới sự biến đổi mức độ tinh lực trong một đơn vị thời gian, sự thể có xảy ra như vậy chăng? Ngoài ra còn một sự kiện khác rất đáng chú trọng: những bản năng sinh sống càng để lộ sự liên lạc mật thiết với những cảm giác bên trong, nếu chúng càng xuất hiện như cái gì phá rối sự bình ổn, nếu chúng càng là một nguồn áp lực liên miên và vô tận mà sự giải tỏa sẽ kèm theo cảm giác khoan khoái; còn như bản năng dẫn đến sự chết thì hầu như làm việc yên lặng, ngấm ngầm không ai biết cả. Thế mà hầu như nguyên tắc khoan khoái phục vụ khuynh hướng dẫn đến sự chết; vả chăng nó cũng đề phòng những kích thích tự ngoài đưa vào, nguy hiểm cho cả hai loại bản năng; nhưng nó có trách nhiệm đặc biệt chống lại những sự tăng cường độ kích thích bên ngoài có thể gây khó khăn cho sự sinh sống. Rất nhiều câu hỏi liên hệ đến vấn đề ấy nhưng không thể trả lời được. Chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi có những phương tiện củkiểm soát mới và những cơ hội nghiên cứu mới. Chúng ta cũng phải sẵn sàng loại bỏ những đường lối đã đi theo từ lâu, nhưng bây giờ chúng ta nhận thấy không thể đem lại cái gì khả thủ. Chỉ có những người muốn lấy khoa học thay thế cho giáo điều tôn giáo mà họ đã từ bỏ mới bực tức khi thấy một nhà bác học khoáng triển và có khi thay đổi ý kiến của mình. Chúng tôi mượn lời một thi nhân để tìm chút an ủi trong lúc buồn nản vì sự chậm chạp của toàn bộ khoa học:

Cái mà người ta không đạt được bằng đôi cánh bay đến cho nhanh, thì người ta phải đi khập khiễng chậm chạp mà đến…

Trong Thánh Kinh đã nói rằng đi khập khiễng không phải là một tội lỗi (Ruückert, Makamen des Hariri).



[1]Xin coi thiên VII cuốn Traumdeutung của chúng tôi. "Psychologie der Traumvorgänge"
[2]Có lẽ những giả thiết tương tự về bản chất của bản năng đã được nhiều tác giả khác đưa ra.
[3]Sau này chúng tôi bớt cái nhìn cực đoan trong quan niệm về bản năng bảo tồn.
[4]Tuy nhiên, đây là những bản năng duy nhất có thể coi là quyết định sự "tiến bộ" và đạt tới những trạng thái cao (sau này sẽ nói tiếp).
[5]Ferenczi đi một con đường khác cũng đi đến kết luận rằng có thể chấp nhận được cách nhìn ấy ("Entwicktungsstufen des Wirklichkeitssinnes", Internationale Zeitschr. f. Psychoanalyse, 1, 1913): Thúc đẩy cách lý luận này cho đến những hậu quả mới cũng có thể cho là hữu lý được, người ta sẽ làm quen với ý tưởng sau đây: đời sống vật chất của cơ thể cũng bị chi phối bởi một khuynh hướng nọa tính và thoái lui, còn như khuynh hướng tiệm tiến, khuynh hướng thích ứng v.v. chỉ xuất hiện vì có những khích động bên ngoài (T. 137)
[6]Dauer des Lebens, trang 38
[7]Leben und Tod, in lần hai, trang 67
[8]Dauer des Lebens, trang 33
[9]Über Leben und Tod, kết luận
[10]Max Hartmann, Tod und Fortpflanzung 1906: Alex, Lipschutz, Warum wir sterben, Kormosböcher, 1914; Franz Doflein, Das Problem des Todes und der Unsterblichkeit bei den Pflanzen und Tieren, 1909
[11]Xin coi Lipschutz
[12]"Zur Einführung des Narzissmus". Jahrbuch der Psychoanalyse, V, 1914, Sammlung kleiner Schriften zur Neurosenlehre, IV, 1918
[13]Sexualtheorie, in lần thứ 4, 1920. "Triebe und Triebschicksale" trong cuốn Sammlung kliener Schriften zur Neurosenlehre, loại 4
[14]Sabina Spielrein đã nghiên cứu lại vấn đề, có nhiều ý kiến nhưng không được sáng sủa. Yếu tố tự hành hạ trong bản năng dục tính được gọi là yếu tố phá hoại ("Die Destruction als Ursache des Werdens", Jahrbuch für Psychoanalyse, IV, 1912) A. Starcke tìm cách đồng nhất hóa khái niệm libido với bản năng chết (Incleiding by de vertaling von V. Freud, de sexuele beschavingsmoral, 1914).
[15]Xin cám ơn giáo sư H. Gomperz (Vienne) đã cho biết những chi tiết về nguồn gốc của huyền thoại. Xin quý vị lưu ý: thuyết này cũng được nói đến trong kinh Vệ Đà, ít ra về những nét chính. Trong cuốn Brihad – Aranyaka – Upanishad 1, 2, 3 (coi Deusen, 60 Upanishads des Vedas, tr.393) có nói đến nguồn gốc thế gian là cái Atman: "Nhưng Atman không thấy gì là vui sướng; nó không thấy vui sướng vì nó chỉ có một mình. Nó ước muốn có bạn. Nó lớn bằng một người đàn ông và một người đàn bà ôm lấy nhau. Nó phân thân ra làm hai: bởi vậy sinh ra vợ chồng. Chính vì thế mà thân thể người đàn ông giống như một nửa: đó là sự giải thích của Yajnavalkya. Và cũng chính vì thế mà có người đàn bà lấp chỗ trống trải".
Kinh Vệ Đà Brihad – Aranyaka là kinh có từ lâu đời hơn cả, không ai nghĩ rằng đã có từ 800 năm trước Công nguyên. Trái với dư luận thường có, tôi muốn chấp nhận rằng Platon đã chịu ảnh hưởng Ấn Độ, ít ra một cách gián tiếp; đối với thuyết luân hồi thì ảnh hưởng Ấn Độ không thể chối cãi được. Platon chịu ảnh hưởng qua sự trung gian của những người theo chủ thuyết của Pythagore, nhưng cũng có thể rằng với một thái độ trí thức tương tự nhau, Platon và người Ấn Độ đã cùng có những ý tưởng như nhau. Chúng ta phải giả thiết rằng Platon sẽ không dùng câu chuyện truyền khẩu ở Đông phương, sẽ không chú trọng đến nó nếu câu chuyện không có gì là quen thuộc với ông, nếu ông không nhận thấy có một chân lý chói lọi.
Trong một bài báo nhan đề là "Menschen und Weltenwerden" (Neue Jahrbücher für das klassische Altertum, quyển 31, trang 592, 1913) nghiên cứu nguồn gốc của ý niệm Androgyne và Atman trước Platon. Ông K. Ziegler cho rằng đó là những biểu thị của xứ Babylonie.
[16]Tôi xin nói thêm vài điều để giải thích những danh từ đã dùng từ trước, sau này được nới rộng ý nghĩa. Về "bản năng dục tính", chúng tôi biết vai trò của nó trong những tương quan nam nữ tính và chức vụ sinh sản. Sau này dữ kiện phân tâm học đã bắt buộc chúng tôi phải lơ là sự tương hệ giữa bản năng dục tính và chức vụ sinh sản, nhưng chúng tôi vẫn dùng danh từ bản năng dục tính. Khi khám phá ra libido ngã-ái và nới rộng khái niệm libido ra lãnh vực mỗi tế bào riêng rẽ, bản năng dục tính của chúng tôi trở thành Eros: Eros có nhiệm vụ kết hợp những thành phần của chất sinh sống, và giữ cho những thành phần ấy phối hợp với nhau; theo cách nhìn ấy thì cái thường gọi là bản năng dục tính sẽ xuất hiện như một trong những thành phần của Eros, thành phần nhắm vào đối tượng (của tính dục). Chúng tôi quan niệm rằng Eros tác động ngay từ lúc nguyên thủy, và khi chất sinh sống trở nên có hồn thì nó lấy tư cách "bản năng sinh sống" để chống lại "bản năng dẫn đến sự chết". Nó tìm cách giải quyết bí mật của đời sống bằng sự tranh đấu của hai bản năng ấy, cuộc tranh đấu đã bắt đầu từ lúc bình minh của dòng sống và vẫn còn tiếp diễn. Về khái niệm "bản năng của cái Tôi" cũng có sự thay đổi. Thoạt kỳ thủy chúng tôi dùng danh từ ấy để chỉ tất cả những khuynh hướng bản năng không hiểu rõ lắm, những khuynh hướng ấy tách rời khỏi những bản năng dục tính nhắm vào đối tượng dục tính và có vết tích trong cái libido, chúng tôi cho rằng chúng chống đối bản năng dục tính. Nhưng sau khi đã phân tích sâu xa cái Tôi, chúng tôi nhận thấy một vài bản năng của cái Tôi cũng có bản chất libido và đối tượng của chúng lại chính là cái Tôi. Những bản năng bảo tồn ấy có bản chất ngã-ái, phải xếp vào loại "bản năng dục tính có bản chất libido". Xếp loại như thế thì sẽ xuất hiện một sự đối lập khác, sự đối lập giữa những bản năng libido (hướng vào đối tượng và hướng vào cái Tôi) và những bản năng khác được quy về cái Tôi, và có lẽ thuộc loại những bản năng phá hoại. Sự đối lập cuối cùng này là đối lập giữa những bản năng sinh sống và những bản năng dẫn đến sự chết.
Nguồn: Nghiên cứu phân tâm học của Freud do VÅ© Đình LÆ°u dịch. An Tiêm xuất bản lần thứ nhất, Sài Gòn 1969. Bản Ä‘iện tá»­ do talawas thá»±c hiện.