© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tư tưởngChiến tranh nhìn từ nhiều phía
Loạt bài: Phong trào cánh tả và vấn đề Việt Nam
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34 
4.3.2008
Ngô Minh
Bi kịch Hoàng Phủ Ngọc Tường
 
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Từ rất nhiều năm nay tôi rất muốn bày tỏ đôi điều về những bi kịch cuộc đời mà nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường từng chịu đựng và trăn trở, từng nén vào lòng để sống và sáng tác suốt hơn mấy chục năm qua. Vì gần gũi vợ chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường - Lâm Thị Mỹ Dạ hàng ngày, nên tôi được nghe kể nhiều lần từng sự việc một. Sau Tết Mậu Tý, kỷ niệm 40 năm Mậu Thân vừa qua, một lần nữa Hoàng Phủ lại rất bức xúc, khi nhà báo Thanh Tùng (báo Tiền Phong) tìm đến phỏng vấn anh về những chuyện buồn Mậu Thân ấy. Bài phỏng vấn đó có tựa đề là: “Cái hoạ của người nổi tiếng”. Anh kể về cuộc phỏng vấn cho tôi nghe. Vậy bi kịch của Hoàng Phủ là gì? Đó là chuyện một số hoạt động của anh trong chiến dịch Mậu Thân bị một số người cố tình hiểu sai, vu khống tàn tệ trên báo, trên mạng, trong dư luận cộng đồng người Việt hải ngoại. Thêm nữa, chính thể nhà nước mà anh đã lựa chọn dấn thân cũng không mấy mặn mà với anh, một nhà văn đã sống hết mình, viết hết mình vì nhân dân, đất nước.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số ít nhà văn nổi tiếng và có uy tín và được người đọc mến mộ nhất hiện nay ở Việt Nam. Văn chương Hoàng Phủ thấm đẫm tình thương yêu và trí tuệ, là thứ văn chương tri âm tri kỷ, làm nhiều thế hệ độc giả say mê, tìm đọc. Được người đọc mến mộ vì đó không phải là thứ văn chương “phải đạo” (chữ của Hoàng Ngọc Hiến), xưng tụng một chiều, “ta thắng địch thua”, mà đó là thứ văn chương thật, có chính kiến rạch ròi, mạnh mẽ, là sự dấn thân để xây dựng một nền dân chủ và nhân văn cao cả. Không giống một số nhà văn xu thời nghĩ khác, viết khác, sống khác, viết khác, luôn đeo mặt nạ ngăn cách mình với xã hội, Hoàng Phủ Ngọc Tường sống như viết, nói như viết, nghĩ như viết. Anh viết đến tận cùng của vấn đề mà không sợ sự suy diễn, quy chụp, vì anh viết và nói bằng trái tim đỏ thắm tình người và tình yêu Tổ Quốc. Chỉ đọc những bài nhàn đàm bàn chuyện thế sự hàng ngày hay đọc bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” hay “Rừng hồi”, ai cũng nhận ra chân dung Hoàng Phủ. Đó là một cây bút luôn dấn thân vì lẽ phải, vì Tổ Quốc quê hương. Từ sau 30-4-1975 đến nay, Hoàng Phủ Ngọc tường đã in trên 16 đầu sách bút ký, nhàn đàm, thơ, trong đó có Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường gồm 4 tập với 2000 trang in, là những trang viết làm nao lòng người đọc cả nước. Có lẽ anh là nhà văn đông đảo người hâm mộ nhất trong nước từ mấy chục năm nay. Không chỉ văn chương mà trong cuộc sống ngày thường, Hoàng Phủ luôn đau đáu nỗi người. Hoàng Phủ Ngọc Tường bị trọng bệnh nằm một chỗ, xem ti vi thấy cảnh nghèo đói, bần cùng của dân nghèo, anh đã nhiều lần rưng rưng nước mắt. Càng sắc sảo tài hoa trong văn chương bao nhiêu, anh càng quên mất bản thân mình trong cuộc sống đời thường bấy nhiêu. Anh sống hồn nhiên như một đứa trẻ, không hề biết đến, không hề bận tâm đến những giả trá lọc lừa chung quanh mình… Văn là người. Một người như thế, một nhà văn đồng hành cùng nhân dân như thế không thể có chuyện cầm súng giết người, phản nhân dân, hay phản Tổ Quốc được. Thế mà bi kịch vẫn cứ xảy ra…

Năm 1966, hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên chống chế độ Mỹ - Thiệu, bị chính quyền tỉnh Thừa Thiên - Huế truy lùng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lên “rừng” theo kháng chiến. Đó là sự lựa chọn của anh theo tiếng gọi của trái tim yêu nước, trước tình cảnh quân Mỹ ngập tràn miền Nam. Lúc này Hoàng Phủ là giáo sư dạy môn siêu hình học ở Trường Quốc học Huế. Anh có viết báo làm thơ và làm chủ bút một số tờ báo của lực lượng học sinh sinh viên đấu tranh, nhưng về văn học thì chưa có tác phẩm nào nổi tiếng. Cùng tham gia “xuống đường” đấu tranh với anh lúc đó có Hoàng Phủ Ngọc Phan (em trai), Nguyễn Đắc Xuân, Trần Vàng Sao, Ngô Kha, Trần Quang Long, giáo sư Lê Văn Hảo, Phương Thảo v.v… Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường “lên xanh” làm cán bộ, rồi viết báo ở Ban Tuyến huấn Thành uỷ Huế, chẳng có chức vụ gì cả. Trong Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, trong khi chiến trận đang hồi ác liệt tại Huế, thì một tổ chức mới ra đời gọi là Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Thành phố Huế (gọi tắt là Liên minh Huế) ra đời. Hoàng Phủ Ngọc Tường là tổng thư ký, giáo sư Lê Văn Hảo là chủ tịch, bà Nguyễn Đình Chi và Hoà thượng Thích Đôn Hậu là phó chủ tịch. Đây là tổ chức mặt trận để kêu gọi tập hợp quần chúng đứng lên chống Mỹ, chứ không có bất cứ một quyền hành gì trong điều hành chỉ huy chiến trận cả. Những ngày nổ ra Tổng tấn công, cả chủ tịch, hai phó chủ tịch và tổng thư ký của Liên minh đều ở “xanh”. Riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường sau khi soạn xong “Lời hiệu triệu” kêu gọi quần chúng nổi dậy, thu băng tiếng nói, rồi được gửi về phát đi khắp các nẻo đường, phố phường ở Huế trong Tết Mậu Thân sau khi quân Giải phóng chiếm được thành phố. Sau khi viết lời “Lời hiệu triệu” ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Lê Văn Hảo có tên chính thức tham gia chiến dịch Mậu Thân, đều có mặt ở Chỉ huy sở Tiền phương của Mặt trận Huế ở núi Kim Phụng, phía Tây Huế. Bộ tư lệnh bảo chờ sáng mai sẽ về Huế, khi tình hình đã ổn định. Nhưng rồi tình hình ngày càng diễn biến phức tạp, nên hai người chỉ ngồi trong phòng Chỉ huy Sở. Ngồi như là ngồi chờ giao việc và sau đó không bao giờ trở lại thành phố Huế nữa cho đến năm 1972 được điều ra làm Trưởng Ty Văn hoá tỉnh Quảng Trị (vùng mới giải phóng của Mặt trận Giải phóng). Mà thực ra trong suốt những năm lên “xanh” ở A Lưới, Hoàng Phủ Ngọc Tường không được phân công về thành phố hay đồng bằng một chuyến nào cả. Điều đó có rất nhiều nhà văn như Tô Nhuận Vỹ, Xuân Thiều, Nguyễn Quang Hà, Nguyễn Đắc Xuân biết rõ.

Thế mà từ gần 20 năm nay, một số cây bút ở hải ngoại không biết do thù oán gì, hay do ganh tỵ tiếng tăm với Hoàng Phủ khi anh đã nổi tiếng ở trong nước, đã viết bài đổ tội cho Hòang Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân với những lời lẽ vô cùng đao búa như gọi là “đồ tể giết 2000 người Huế trong Tết Mậu Thân”, “thủ phạm chính của cuộc tàn sát”,” “các hung thần can dự tới bữa tiệc máu”. Năm 1997, Thuỵ Khuê, đài RFI (Pháp) đã phỏng vấn Hoàng Phủ Ngọc Tường về vụ Mậu Thân này. Trong bài trả lời phỏng vấn đó, anh đã nói rất rõ ràng là mình không hề có mặt ở Huế trong suốt trận chiến đó. Buổi phát thành này đã được tiếp sóng qua đài phát thanh Little Saigon ở Quận Cam mà nhiều Việt kiều đã nghe trực tiếp. Bài phỏng vấn đó cũng được in lại trên tạp chí Hợp Lưu, do Khánh Trường làm Tổng biên tập. Thế mà không hiểu sao nhiều người cứ cố tình nói sai sự thật. Ngày 1-1-2005, trên website http://ngothelinh.tripod.com (Ngô Thế Linh là tên một đại tá quân đội Sài Gòn tử trận trong Mậu Thân ở Huế) lại có bài viết “Hoàng Phủ Ngọc Tường, kẻ hái phù dung sau thảm sát Tết Mậu Thân 1968 tại Huế”. Tác giả bài viết cho rằng tập thơ Người hái phù dung của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự ăn năn, sám hối về tội “phản quốc” và “sát nhân” của mình. Thật là một sự phán xét sai lệch rất nhẫn tâm về tập thơ trữ tình rất thâm sâu được nhiều người yêu thích ấy. Gần đây thôi, đầu tháng 1-2008, trên blog http://vanchuong.vnweblgs.com do nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo chủ trương, có in bài “Chuyện vui về Hoàng Phủ Ngọc Tường”, trong phần comment có người xưng là Dân Huế đã nói khống lên rằng: “Chính hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan cầm súng bắn máy bay Mỹ trong khu hẻm nhà tôi ở Huế (Phường Phú Cát)”. Thật là nói lấy được! Những người như Tường là cán bộ dân sự, đi kháng chiến bằng ngòi bút, chứ không bao giờ cầm súng cả. Lại có người comment trên http://vanchuong.vnweblgs.com ngày 15-1-2008 cho rằng: “ÔngTường quả có dính vào vụ Mậu Thân Huế, nhìn hoàn toàn theo khía cạnh khách quan. Ông ta không thực sự nhúng tay vào vụ Mậu Thân, nhưng về mặt tinh thần, ông chính là linh hồn của vụ đánh chiếm Huế qua tiếng tăm của ông, do tài năng của ông và do ảnh hưởng của ông tới những người đàn em, học trò”. Nói cho thật công bằng, tiếng tăm của Tường lúc đó chưa có gì nhiều, chưa như bây giờ. Tường chỉ là một cán bộ tuyên huấn bình thường, làm sao lại bảo ông là “linh hồn của vụ đánh chiếm Huế”? Hơn nữa trong học thuyết “giai cấp” của các nước theo chủ nghĩa xã hội, “công-nông-binh” là lực lượng chủ lực, tầng lớp trí thức là ăn theo, chưa bao giờ được tôn trọng, mà bị coi là tầng lớp tiểu tư sản, hay chao đảo lập trường tư tưởng, thường xuyên phải học tập cải tạo, nên không đáng tin cậy! Cứ xem lịch sử đối xử tàn bạo với trí thức của Stalin, của Mao Trạch Đông trong Cách mạng Văn hoá… thì rõ.

Nghe tôi nhắc có những bài vở, ý kiến trên mạng về vụ Mậu Thân ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường thốt lên: ”Không hiểu sao đến giờ vẫn có những kẻ xấu miệng cứ tìm cách buộc chặt tôi vào ‘vụ’ Mậu Thân Huế. Đúng, Mậu Thân đã trở thành một bi kịch đời tôi!” Anh bực bội: ”Tôi đành xem họ như những kẻ vu khống bẩn thỉu, thế thôi !”

Tôi nghĩ có lẽ sự hiểu nhầm, hiểu sai rất oan ức này là do cái “Lời hiệu triệu” với giọng đọc của Hoàng Phủ Ngọc Tường thu thanh từ trước, phát đi khắp các nẻo đường Huế sau khi nổ ra chiến dịch, làm cho ai cũng tưởng anh đang ở Huế. Thứ nữa là tập ký sự Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu mang tên tác giả là Hoàng Phủ Ngọc Tường viết về những người giữ cờ trên Phu Văn Lâu Huế. Không tham gia đánh trận trực tiếp làm sao mà viết về cuộc chiến với những chi tiết cụ thể như thế? Sự thật thì không phải vậy. Hoàng Phủ Ngọc Tường bảo rằng, đây là một tập sách “viết chưa đạt”. Vì thế trong 4 tập của Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường (NXB Trẻ và Công ty Phương Nam hợp tác ấn hành, 2002), tập ký này không được chọn trang nào cả. Tường kể: ”Đây là cuốn sách tôi viết từ một tư liệu ghi chép thực tế ‘những người giữ cờ’ ở Huế của Nguyễn Đắc Xuân. Tôi nhớ bản thảo ấy cũng chỉ độ 5 đến 7 trang. Tôi đã hư cấu thêm theo sự cho phép của thể loại ký và theo suy nghĩ của tôi - chứ tôi đâu có mặt ở Huế vào thời điểm ấy. Viết xong gửi đi tôi ghi tên cả hai người cùng viết. Một hôm tôi đang làm rẫy ở trong rừng thì nhận được một cuốn sách của NXB Giải Phóng. Không hiểu vì sao bản này khi in thành sách, tên tác giả lại chỉ có mình tôi. Thế là tôi trở thành thằng ‘hớt tay trên’ của bạn. Tôi đã viết thư gửi ra Hà Nội phản ứng với Giám đốc NXB Giải Phóng lúc đó là anh Khương Minh Ngọc. Nhưng sau đó tôi được anh Bảo Định Giang, lúc này chức vụ lớn hơn, nhưng đang phụ trách Tiểu ban Văn nghệ miền Nam can ngăn; bảo rằng làm như thế sẽ ‘có lợI’ cho cách mạng hơn! Không biết có lợi là lợi gì? Lúc đó tôi đã kể cho anh Nguyễn Đắc Xuân nghe tất cả chuyện oái oăm này…”

Tiện đây, tôi cũng xin nói đôi lời về cái gọi là “vụ tàn sát Mậu Thân” ở Huế. Không một quân đội nào dạy cho binh lính mình giết người dân cả. Dân là chỗ dựa của quân đội. “Nâng thuyền cũng dân, lật thuyền cũng dân” (Nguyễn Trãi). Nhưng chết nhiều người trong Mậu Thân là sự thật rất đau lòng. Trong chiến tranh khốc liệt, người chết do nhiều nguyên nhân: Hai bên bắn nhau, tên rơi đạn lạc. Những ngày Mậu Thân suốt tháng trời đó, máy bay Mỹ dội bom, quân đội Sài Gòn bắn pháo dữ dội suốt tháng trời khắp các nẻo đường mà quân Giải phóng đột nhập Huế, dội pháo vào Thành Nội, và thành phố Huế. Quân giải phóng cũng chống trả quyết liệt. Bom pháo, súng đạn đó không biết cách phân biệt Việt cộng hay người dân, tất cả đều bị chìm trong khói lửa. Quân Giải phóng mà đa phần là bộ đội trẻ từ miền Bắc vào chết rất nhiều. Rồi chuyện lợi dụng chiến tranh để thanh toán tư thù. Cả hai bên đều tìm cách diệt những người là tay chân thân tín của bên kia để trừ hậu hoạ v.v… Vì thế, không thể đổ việc nhiều người chết cho một bên nào được. Tạp chí Sông Hương số Xuân Mậu Tý (2-2008) có in bài “Me Mỹ kể chuyện Huế sau Tết Mậu Thân”, trích đăng hồi ký của bà Nguyễn Thị Thanh Sung, người An Cựu - Huế, là vợ của ông Bill Fleming, cố vấn an ninh tại Toà lãnh sự Hoa Kỳ tại Huế lúc đó, gọi theo lối dân gian bà là “Me Mỹ”, hiện đang định cư ở Potomac, bang Maryland. Bà Thanh Sung đã kể chuyện sau Mậu Thân, bố bà là ông Nguyễn Đăng Hiếu bị cảnh sát chính quyền Huế bắt giam vì đã có tên trong quyển Sổ vàng, khi cuốn Sổ vàng của Việt cộng lọt vào tay họ. Cuốn sổ vàng đó ghi tên những người đóng góp tiền của giúp cách mạng trong chiến dịch Mậu Thân. Mấy ngày sau đó có thông báo gửi cho mẹ bà Thanh Sung: “Bà và người nhà lên đường rày xe hoả gần nhà ga để nhận xác chồng bà. Khi nhận ra nhớ đem về chôn cất ngay lập tức…”, ”qua khỏi nhà ga, đi theo đường rày về phía núi, từ đằng xa nhìn tới, chúng tôi đã bắt đầu thấy những xác chết nằm la liệt hai bên đường rày”. (Theo www.tapchisonghuong.com.vn). Có bao nhiêu ngàn người bị trả thù, “chết la liệt” ở đường rày Ga Huế như thế?

Hoàng Phủ Ngọc Tường là bạn thân của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tường đã viết một cuốn bút ký rất hay về Trịnh: “Cây đàn lia và hoàng tử bé”. Thế mà ở hải ngoại có người đã vu cho Tường khi làm Phó chủ tịch Hội Văn nghệ đã đày đoạ Trịnh đi tăng gia cuốc đất trồng khoai sắn ở những vùng heo hút, khó khăn. Những ngày sau 1975, những sai lầm về kinh tế xảy ra như cải tạo công thương ở miền Nam, rồi đất nước bị cấm vận, chính quyền các cấp chỉ làm được một việc là hô hào cán bộ, công chức, quân đội, dân chúng tăng gia cứu đói. Đó là lệnh trên, ai cũng phải đi, chứ đâu phải lệnh của ông Phó chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh Hoàng Phủ Ngọc Tường! Bản thân Tường gầy gò, nhỏ bé, chân cò tay nhện cũng phải cầm cuốc cuốc đất trồng sắn đến chảy máu tay…

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức đi theo kháng chiến, lặn lội rừng núi suốt 10 năm, cho đến ngày toàn thắng. Từ năm 1972 đến 1976, anh lao mình vào công cuộc xây dựng ngành văn hoá văn nghệ tỉnh Quảng Trị. Khi ba tỉnh Bình Trị Thiên nhập một, anh vào Huế hoạt động trong Hội Văn học Nghệ thuật. Thời gian làm Phó chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị Thiên anh đã có công trong việc làm cho công chúng hiểu đúng hơn về nhạc tiền chiến, mà nhiều nhạc sĩ ở Bắc vào, công chúng là cán bộ tập kết miền Bắc về lại quê thường gọi là nhạc vàng “độc hại”, “ru ngủ” người cách mạng, nên kiên quyết tẩy chay. Cả những ca khúc tuyệt vời của Trịnh Công Sơn cũng bị cho là nhạc vàng. Họ cho căng biểu ngữ trước trường Đại học Sư phạm phản đối nhạc Trịnh. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tổ chức một số buổi hội thảo về “nhạc tiền chiến”, mời các ca sĩ giỏi ở Huế đến hát các bài hát “Đêm tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước, “Đêm đông” của Nguyễn Văn Thương, “Hồn Vọng Phu” (1, 2, 3) của Lê Thương, “Thiên Thai” của Văn Cao v.v… cho mọi người nghe. Rồi mời mọi người đánh giá. Kết quả người nghe ai cũng vỗ tay tán thưởng. Từ đó hai chữ “nhạc vàng” cứ lui dần, người Huế lại hát nhạc tiền chiến, nhạc Trịnh Công Sơn.

Hoàng Phủ Ngọc Tường chí cốt với con đường mình đã chọn đến mức anh phải kiên nhẫn đến 17 năm đối tượng Đảng. Đến khi được vào Đảng thì mấy năm sau bị tai nạn nên xin thôi. Sở dĩ Tường đứng chân “đối tượng” lâu như thế vì anh là người “cấp tiến” có tư tưởng dân chủ mới mẻ, không được cấp trên tin tưởng lắm. Vì Tường biết tiếng Anh, tiếng Pháp, hay đi dọc phố nói “tiếng Tây” với mấy người ngoại quốc, Việt kiều về nước, những người khách Tây thường đến thăm nhà Tường, nên không ít người cho rằng, Tường đang làm việc hai mang. Nghi ngờ đó kéo dài rất lâu.

Tường kể: Sau giải phóng có lần anh được giới thiệu ra ứng cứ đại biểu Quốc hội, thì không hiểu tại sao trong dân gian lập tức lan truyền rằng: Lan - Đính – Chính -Tường / Bốn tên phản động tìm đường mà đi (Lê Mậu Lan, giám đốc nhà máy xi măng Long Thọ; Nguyễn Hữu Đính, kỹ sư nông lâm yêu nước, thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng; Ngô Thế Chính, Phó tiến sĩ sử học, hiệu trưởng Đồng Khánh, tức Trường Hai Bà Trưng, ngày mới giải phóng). Ai phản động? Tại sao bảo tôi là phản động? Tôi dám thách bất cứ ai có thể đưa ra một bằng chứng nhỏ chứng tỏ rằng tôi là kẻ phản động. Các người chỉ giỏi bôi nhọ người khác để được việc mình!. Có lần Tường được mời sang dự hội thảo văn hoá ở Đức, vé máy bay đã mua đút túi rồi, nhưng sắp đến giờ bay thì có người đến thu hồi vé máy bay của Tường. Thế là chuyến đi bị huỷ. Có lẽ vì nhà nước không hiểu bản chất con người Tường, nên sợ Tường xuất ngoại rồi ở luôn bên đó “với địch”. Một lần khác Tường lại được mời đi Pháp, lần này lại gặp rắc rối mãi trong chuyện kê khai thủ tục, may nhờ một sĩ quan công an người Quảng Trị đồng hương giúp đỡ, anh mới lên máy bay được.

Người ta không tin tưởng Tường vì tại diễn đàn các Đại hội Nhà văn Việt Nam, nhất là Đại hội IV và V, Tường là một người phát biểu chính kiến rất mạnh mẽ, anh đòi “cởi trói”, đòi tự do sáng tạo cho văn nghệ sĩ, anh đòi thực thi việc tạo ra cơ chế “đối trọng” trong xã hội. Đó là những đòi hỏi chính đáng mà các “nhà văn nhà nước” không bao giờ dám nói. Tại Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ V, ông Đỗ Mười, lúc đó là Tổng Bí thư Đảng, đã mời riêng từng người là Tường và Bùi Minh Quốc đến Văn phòng Tổng Bí thư để “chấn chỉnh” việc đòi “đối trọng”! Từ năm 1990-1992, chia lại tỉnh, Tường là Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt. Tuy là tạp chí văn nghệ của một tỉnh lẻ nơi miền Trung heo hút, thế mà Tường đã biến nó thành một tạp chí được độc giả mến mộ, tìm đọc nhất trong nước lúc đó. Vì tạp chí đã thể hiện được một quan điểm sáng tác mới mẻ theo ý tưởng tự do sáng tạo, nói thẳng nói thật vì sự tiến bộ xã hội, vì văn minh đất nước. Rất nhiều những cây bút cấp tiến có tên tuổi từ Hà Nội, Sài Gòn, Paris… như Hoàng Ngọc Hiến, Phạm Xuân Nguyên, Hoàng Cầm, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Thị Hoàng, Lữ Phương, Trần Độ, Lê Bá Đảng, Bùi Minh Quốc, Phùng Quán v.v… đã gửi bài đăng tạp chí. Mới 17 số, tạp chí Cửa Việt đã trở thành “cái gai” trong mắt những người quản lý văn nghệ. Thế là tạp chí bị đình bản! Đó là một bi kịch, một cú xốc lớn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Một lần nữa anh lại bị chính thể chặn đường! Vì những lý do đó mà việc xét Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật diễn ra lần đầu từ năm 1997, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường không được xét. Mãi đến năm 2007, nhà nước mới trao Giải thưởng Nhà nước cho anh. Tôi nghĩ văn chương và nhân cách của Hoàng Phủ ảnh hưởng đến các thế hệ người Việt Nam lớn hơn rất nhiều so với một số nhà văn được Giải thưởng Hồ Chí Minh. Khi nói về chuyện này, Tường lại bảo: “Giải thưởng không quan trọng. Quan trọng nhất là người đọc đọc mến mộ mình!”

Bi kịch đến từ nhiều phía thế mà Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn cặm cụi viết hết cuốn sách này đến cuốn sách khác. Nhắc đến chuyện “bi kịch”, anh cười: “Nhưng tôi vẫn làm việc vui vẻ. Bất đắc chí độc hành kỳ đạo - Mạnh Tử đã nói như thế. Sống ở đời một người tri thức cũng có một cái giá phải trả cho việc mà người khác cứ tưởng là mình được tín nhiệm…”

Huế, 2-3-2008

© 2008 talawas