Câu chuyện của một người bạn
I.
Tôi đã quen chàng hồi chàng còn là một thiếu niên bị lạc lõng trên các nẻo đường đời, bị sức xung động man dại quất vụt đi tới và theo chân thần chết để chạy đuổi theo dục vọng. Tôi đã quen chàng hồi chàng còn là một đoá hoa mềm yếu được những ngọn gió cuồng chở tới biển dục tình.
Tôi đã biết chàng trong ngôi làng đó hồi chàng còn là một cậu bé tính tình hung hãn dữ dằn, hai bàn tay độc ác thường hay xé nát tổ chim và bóp chết chim non, và lấy chân giẫm nát những bông hoa mỹ miều.
Tôi đã biết chàng ở trường học hồi chàng còn là một thiếu niên ghét học hành, kiêu căng, và kẻ thù của bình an.
Tôi đã biết chàng trong thành phố hồi chàng còn là một thanh niên bán rẻ danh dự cha ông trong các thị trường tối ám, phung phí tiền của cha ông trong các ngôi nhà xú danh, và đầu hàng trí tuệ trước rượu nồng.
Ấy nhưng, tôi lại yêu mến chàng. Và tình yêu mến của tôi đối với chàng là một pha trộn của sầu khổ với cảm tình. Tôi đã yêu mến chàng bởi lẽ những tội lỗi của chàng chẳng phải xuất sinh từ một tinh thần nhỏ bé, mà là hành vi của một tâm hồn lạc lõng và tuyệt vọng.
Tinh thần, hỡi nhân dân yêu quí của tôi, đi lạc khỏi con đường mẫn tuệ một cách không cố ý, nhưng quay trở về nó một cách cố ý. Khi những trận cuồng phong của tuổi trẻ thổi thốc lên cát bụi, thì đôi mắt ta bị mù loà trong giây phút.
Tôi đã yêu mến người thanh niên đó là bởi vì tôi nhìn thấy con bồ câu của lương tri chàng đang vật lộn với con diều hâu của lòng độc ác của chàng. Và tôi đã nhìn thấy rằng bồ câu bị khắc phục chẳng bởi lòng hèn nhát của chính nó mà bởi sức mạnh của kẻ thù nó.
Lương tri chỉ là một pháp quan yếu đuối. Sự yếu đuối khiến cho nó bất lực đặng có thể thi hành sự phán quyết của nó.
Tôi nói tôi yêu mến chàng. Và tình mến yêu có nhiều dạng thức. Đôi khi nó là trí khôn ngoan; đôi lúc nó là công lý; và thường khi nó lại là hy vọng. Tình tôi yêu mến chàng nuôi dưỡng lòng tôi hy vọng được trông thấy ánh sáng nơi chàng thắng lợi bóng tối. Nhưng tôi đã chẳng biết khi nào và ở đâu vết ô uế nơi chàng sẽ hoá thành tinh khiết, lòng tàn bạo nơi chàng sẽ biến thành tính nhu mì, sự phóng đãng nơi chàng sẽ biến thành trí mẫn tuệ. Con người không biết được linh hồn tự giải thoát khỏi kiếp nô lệ của vật chất bằng cách nào cho đến khi nó được giải thoát. Con người cũng chẳng biết được loài hoa mỉm cười ra sao trừ khi sớm mai đã đến.
II.
Ngày lại ngày, rồi đêm lại đêm, và tôi nhớ đến người thanh niên mà luống những thở dài; tôi nhắc đến tên chàng đầy âu yếm làm trái tim rỏ máu. Thế rồi ngày hôm qua một cánh thư của chàng bay đến tay tôi:
“Hãy đến với tôi, hỡi bạn, vì tôi muốn kết hợp anh với một người trẻ tuổi mà tim anh sẽ hân hoan khi được gặp, và hồn anh sẽ tươi mát khi được biết.”
Tôi nói: “Đau đớn chưa! Hắn lại muốn pha trộn tình bằng hữu buồn thảm của hắn với một tình bằng hữu tương tự nữa hay sao? Riêng hắn không đủ là một tấm gương về thế giới sai lầm và tội lỗi ư? Giờ đây hắn còn muốn làm tăng cường những hành vi nhơ nhuốc của hắn với những hành vi của bạn đồng hành đặng tôi có thể gặp cả hai lần bóng tối chăng?”
Và rồi tôi thầm nhủ, “Ta phải đi; có thể tâm hồn mẫn tuệ sẽ gặt hái được trái ngon bụi rậm, và trái tim thương yêu sẽ lấy ra ánh sáng từ bóng tối, biết đâu?”
Lúc đêm đến tôi thấy chàng có một mình trong phòng đang đọc một cuốn thơ.
“Người bạn mới đâu rồi?” Tôi hỏi, và chàng đáp:
“Tôi là hắn đó.”
Và chàng tỏ lộ một sự trầm tĩnh chưa bao giờ tôi hề thấy nơi chàng. Trong đôi mắt chàng bây giờ tôi có thể trông thấy một ánh sáng lạ kỳ nó xuyên thủng trái tim. Đôi mắt mà ngày xưa tôi đã nhìn thấy lòng tàn bạo, thì bây giờ toả ra một ánh sáng nhân từ. Rồi bằng một giọng nói tôi tưởng như phát xuất từ một kẻ khác, chàng nói:
“Chàng trẻ tuổi mà anh đã biết từ hồi ấu thơ và cùng đi tới trường học đó, đã chết rồi. Từ cái chết của chàng tôi đã xuất sinh. Tôi là người bạn mới của anh; hãy nắm lấy tay tôi.”
Lúc nắm tay chàng tôi cảm thẩy sự hiện hữu của một linh hồn hiền hoà lưu chuyển trong dòng máu. Bàn tay sắt đá của chàng xưa kia đã trở nên mềm mại và hiền từ. Những ngón tay chàng xưa kia cào xé như vuốt hổ, bây giờ mơn trớn trái tim.
Rồi tôi lại nói:
“Bạn là ai, và những gì đã xảy đến cho bạn tôi? Làm sao mà bạn đã biến thành loài người này? Có phải Thánh Thần đã thâm nhập trái tim bạn và thần thánh hoá tâm hồn bạn? Hay bạn chỉ đóng một vai trò, điều tưởng tượng của một nhà thi sĩ?”
Và chàng nói:
“Bạn ơi, đúng như thế, thần linh đã đậu xuống hồn tôi và ban cho tôi phép lành, một tình yêu lớn đã biến trái tim tôi thành một tế đài tinh khiết. Chính một người đàn bà, bạn ạ - người đàn bà mà xưa kia tôi đã chỉ tưởng là một đồ chơi trong tay đàn ông – chính một người đàn bà đã giải thoát tôi từ vùng bóng tối địa ngục và mở ra trước mắt tôi những cánh cổng Thiên Đàng, nơi tôi đã bước chân vô. Một người đàn bà đích thực đã dắt tay tôi đến dòng sông Jordan của lòng nàng tình ái và rửa tội cho tôi. Người đàn bà có một người em gái mà vì lòng ngu tối tôi đã khinh rẻ, chính người đàn bà đó đã xưng tụng tôi lên đến ngai vàng vinh quang. Người đàn bà mà có hồi tôi đã độc ác khinh bỉ, không thèm giao du với, nay đã làm tinh khiết trái tim tôi bằng những âu yếm của nàng. Người đàn bà thuộc cái loại tôi đã bắt làm nô lệ bằng vàng của cha tôi đó nay đã giải thoát tôi bằng vẻ đẹp của nàng. Người đàn bà mà bằng mãnh lực, ý chí đã khiến cho Ađam bị đuổi khỏi Thiên Đàng đó, nay đã khôi phục tôi trở lại Thiên Đàng bằng trái tim hiền dịu của nàng và bằng sự vâng lời của tôi.”
Những người khổng lồ
Chúng ta sống trong một kỷ nguyên mà những con người nhỏ nhoi nhất cũng đang trở thành vĩ hơn cả những con người vĩ đại nhất của các thời đại trước. Những gì đã có một hồi làm trí óc ta bận rộn thì bây giờ chẳng có nghĩa lý gì. Tấm màn thờ ơ hiện đang phủ kín nó đi. Những giấc mộng đẹp đã có một hồi bay lượn xôn xao trong ý thức ta thì bây giờ đã bị làm phân tán đi như sương mù. Thay thế chỗ của họ bây giờ là những con người khổng lồ di chuyển như giông tố, gầm thét như đại dương, và hô hấp như núi lửa.
Liệu số mệnh nào những con người khổng lồ sẽ mang lại cho thế giới lúc tàn cuộc đấu tranh?
Liệu nhà nông có sẽ quay trở lại đồng lúa gieo hạt nơi mà Tử Thần đã cấy xương người chết?
Liệu mục tử có sẽ chăn bầy cừu trên những cánh đồng cỏ đã bị thanh gươm sát phạt?
Liệu bầy cừu có sẽ uống từ những dòng suối nước đã nhuộm máu?
Liệu kẻ sùng bái có sẽ quỳ trong ngôi đền phàm tục mà nơi tế đài quỷ Xa-tăng đã nhảy múa?
Liệu thi sĩ có sẽ làm thơ dưới những vì sao bao trùm trong khói súng?
Liệu nhạc sĩ có sẽ gẩy đàn trong một đêm mà niềm tịch mịch đã bị khủng bố hãm hiếp?
Liệu người mẹ ngồi bên nôi hài nhi, đang tư lự về những hiểm nghèo của ngày mai, còn có thể lớn tiếng ru con?
Liệu các tình nhân còn có thể gặp nhau và hôn nhau trên bãi chiến trường còn sặc mùi bom đạn?
Liệu Nisan
[1] có sẽ bao giờ quay trở lại trái đất và lấy xiêm y nàng băng bọc vết thương của trái đất?
*
Số mệnh nước anh và nước tôi sẽ ra sao? Người khổng lồ nào sẽ chiếm lấy các ngọn núi các cánh đồi đã sinh sản ra ta và nuôi nấng ta và khiến cho chúng ta trở thành người đằng trước mặt trời?
Liệu Xyri có sẽ vẫn nằm giữa hang sói và chuồng lợn? Hay nó sẽ di chuyển với giông bão tới động sư tử hay bay vút lên hang ổ phượng hoàng?
Liệu rạng đông của một Thời Gian mới có sẽ bao giờ xuất hiện trên đỉnh ngọn núi Liban?
Mỗi lúc tôi cô đơn tôi thường hỏi linh hồn tôi những câu hỏi đó. Nhưng linh hồn tôi thì câm nín như Số Mệnh.
Có ai trong các anh, hỡi dân tộc, không ngẫm nghĩ ngày đêm về số phận của thế giới dưới quyền cai trị của những con người khổng lồ đã say sưa vì những giọt lệ của goá phụ và cô nhi?
Tôi là một trong những kẻ tin vào Qui Luật Tiến Hoá; tôi tin rằng những thực thể lý tưởng có tiến hoá, như loài man thú; tôi tin rằng các tôn giáo và chính phủ được nâng lên các bình diện cao hơn.
Luật tiến hoá có một khuôn mặt nghiêm khắc và áp chế và những kẻ có trí óc giới hạn hoặc sợ hãi thường kinh khiếp nó; nhưng các nguyên lý của nó thì công chính, và những ai khảo cứu chúng sẽ được soi sáng. Qua Lý Trí của nó mà loài người được nâng lên trên cao chính mình và có thể vượt tới điều trác tuyệt.
Khắp chung quanh tôi là những thằng lùn đang trông thấy người khổng lồ xuất hiện; và những thằng lùn kêu ì ộp như ễnh ương:
“Thế giới đã quay trở lại về thời man thú. Những gì mà khoa học và giáo dục đã tạo nên thì hiện đang bị phá huỷ bởi những loài sơ khai mới. Chúng ta bây giờ giống như những kẻ sống trong hang đời tiền sử. Chẳng có gì phân biệt giữa chúng ta và chúng, ngoại trừ cơ khí phá huỷ và những kỹ thuật tàn sát được cải thiện của ta.”
Những kẻ đo lường ý thức thế giới bằng ý thức của chúng nói như thế. Chúng đo lường tầm hạn của mọi Hiện Hữu bằng hạn độ nhỏ xíu của cá nhân chúng. In tuồng như mặt trời đã chẳng có mặt để làm gì khác ngoại trừ sưởi ấm cho chúng, như biển cả đã được sáng tạo đặng rửa chân cho chúng.
*
Từ trung tâm đời sống, từ đáy thẳm vũ trụ nơi trữ kín những bí mật của Sáng Tạo, những người khổng lồ nổi dậy như vũ bão và phóng lên như mây trời, và tụ tập như núi non. Trong các cuộc đấu tranh của họ, những vấn đề muôn thuở đang được giải đáp.
Nhưng con người, bất chấp mọi kiến thức và tài cán của hắn, và bất kể tình yêu và tình ghét trong tim hắn, và những nỗi đau hắn chịu đựng, chỉ là một công cụ trong tay những người khổng lồ, để với tới mục đích cho họ và thành đạt mục tiêu cao cả tất hữu của họ.
Những dòng suối máu sẽ một ngày nào trở thành những dòng sông rượu; và những giọt lệ phủ sương cho trái đất sẽ làm mọc dậy những loài hoa ngát hương; và những linh hồn đã bỏ nơi trú ngụ sẽ quây quần và xuất hiện từ phía sau chân trời mới thành Sớm Mai tinh khôi. Và rồi con người sẽ nhận thức ra rằng hắn đã mua Công Lý và Lý Trí trong chợ nô lệ. Hắn sẽ hiểu rằng kẻ nào làm việc và tiêu pha vì Lẽ Phải sẽ chẳng bao giờ thua thiệt.
Nisan sẽ tới, nhưng kẻ nào đi kiếm Nisan mà không nhờ đến Mùa Đông, sẽ chẳng bao giờ tìm thấy nàng.
Ngoài trái đất
Cuồng nộ và hung bạo trái đất ra ngoài trái đất;
Và duyên dáng và uy nghiêm trái đất bước đi trên trái đất.
Trái đất xây lên từ trái đất những cung điện và dựng lầu tháp và đền đài,
Và trái đất thêu dệt trên trái đất những truyền kỳ, những chủ thuyết, những luật lê.
Và rồi trái đất chán ngán những thành quả của trái đất và lấy quầng sáng bện thành những vòng hoa giấc mơ và mộng tưởng.
Và rồi đôi mắt trái đất bị giấc ngủ trái đất đánh lừa vào giấc an nghỉ đời đời. Và trái đất kêu gọi trái đất:
“Ta là lòng mẹ và mộ phần cho tới khi nào các hành tinh không còn nữa và mặt trời tan thành tro bụi.”
Ô đêm
Ô Đêm của tình nhân, linh cảm của nòi thơ và nòi ca kỹ,
Ô Đêm của hồn ma, của thần linh và mộng ảo,
Ô Đêm của đợi chờ, của hy vọng và kỷ niệm,
Ngươi giống như một người khổng lồ đè chụp xuống áng mây chiều và sừng sững trên rạng đông.
Bằng ngọn gươm hãi sợ ngươi được vũ trang, và bằng ánh trăng ngươi được gia miện, và bằng êm ả và tịch mịch ngươi được phủ kín.
Bằng một ngàn đôi mắt ngươi xuyên thấu vực sâu cuộc đời,
Bằng một ngàn đôi tai ngươi nghe tiếng than van của sự chết và vô sinh.
Ánh sáng thiên đàng chiếu qua màn tối của ngươi,
Bởi ngày chỉ là ánh sáng tràn ngập chúng ta bằng khoảng mù đen của trái đất.
Trước vẻ kinh hoàng của vĩnh cửu ngươi mở mắt ta và cho ta niềm hy vọng, Bởi Ngày là kẻ lừa dối làm ta mù loà bằng hạn trình và số lượng.
Ngươi là sự yên lặng toàn hảo phát hiện ra những bí ẩn của thần linh thức tỉnh trên thiên đàng,
Nhưng ngày là tiếng gầm thét làm chấn động hồn nằm giữa vó câu mục đích và diệu kỳ.
Ngươi là Công Lý mang đến những giấc mộng của kẻ yếu, để chúng có thể kết hợp với hy vọng của kẻ mạnh.
Ngươi là vị hoàng đế quảng đại với những ngón tay thần diệu khép lại đôi mắt của kẻ khốn khổ, và đưa trái tim họ về xứ êm đềm.
Linh hồn các tình nhân tìm nơi an nghỉ giữa các nếp xiêm áo biếc xanh của ngươi,
Và trên đôi bàn chân ngươi ướt đẫm sương mai, kẻ tuyệt vọng tìm tới nhỏ lệ.
Trong lòng bàn tay ngươi, nơi thoảng ngát hương thơm đồi núi, kẻ lạ mặt tìm thấy niềm an ủi vỗ về cho lòng họ chờ mong.
Ngươi là khách đồng hành của những tình nhân; ngươi an ủi kẻ sầu khổ; ngươi che chở khách lạ và kẻ cô đơn. Trong bóng tối của ngươi tình cảm người thi sĩ an nghỉ, và trái tim người tiên tri thức giấc.
Và dưới vương miện của ngươi năng trí nhà tư tưởng thành hình.
Ngươi là nguồn linh cảm cho thi sĩ; ngươi mang khải thị đến cho tiên tri; ngươi giảng huấn cho triết gia.
Khi hồn ta chán chường nhân loại, khi mắt ta chán nhìn khuôn mặt của ban ngày,
Ta đi lang thang nơi các hồn ma của thời xưa đi ngủ.
Nơi đó ta ngừng chân trước một bóng hình mờ ảo với một ngàn bước chân chạy trên trái đất, làm trái đất chấn động.
Nơi đó ta ngó vào đôi mắt bóng tối, và lắng nghe tiếng những đôi cánh vô hình xào xạc, và cảm thấy vạt xiêm y vô hình của yên lặng động hờ, và khứng chịu tối đen khủng bố.
Nơi đó ta trông thấy ngươi, hỡi Đêm, khủng khiếp và mỹ miều, lưng chừng giữa trời và trái đất, phủ kín sương mù, choàng kín trong mây, ngạo nghễ cười mặt trời, nhạo báng ban ngày, nguyền rủa những tên nô lệ đang không ngủ mà sùng bái thần tượng.
Ta thấy ngươi giận dữ với các vua chúa đang ngủ trên nhung lụa;
Ta thấy bọn kẻ cắp lẩn trốn dưới đôi mắt cảnh giác khi ngươi canh giữ bầy hài nhi trong giấc ngủ;
Ta thấy ngươi nhỏ lệ xuống những nụ cười gượng gạo của gái giang hồ và mỉm cười trên những giọt lệ của tình nhân đắm say;
Ta thấy tay mặt ngươi nâng lên người thiện và chân ngươi dầy xéo kẻ ác.
Nơi đó, ta thấy ngươi và ngươi thấy ta, Ô Đêm.
Và dẫu rằng khủng khiếp, ngươi giống như một người cha,
Và trong cơn mộng mị, ta tưởng ta là đứa con ngươi.
Tấm màn hồ nghi đã được tháo gỡ giữa đôi ta, và ngươi hé lộ cho ta thấy những bí ẩn và những ý đồ của ngươi.
Và ta tiết lộ cho ngươi lòng ta hy vọng và dục vọng.
Những khủng khiếp của ngươi đã biến thành một giai điệu ngọt ngào hơn và mơn trớn trái tim hơn là tiếng thì thầm của loài hoa cỏ.
Nỗi âu lo của ta biến mất và lòng ta êm ả hơn loài chim.
Ngươi đã nâng bổng ta lên và ôm ấp ta trong cánh tay, và dạy mắt ta ngắm nhìn, tai ta lắng nghe, môi ta nói, tim ta yêu mến những gì kẻ khác ghét bỏ, và ghét bỏ những gì kẻ khác mến yêu.
Bằng các ngón tay êm đềm ngươi mơn trớn tâm tư ta, và dòng mặc tưởng ta chảy xiết như một con suối mạnh.
Bằng đôi môi cháy bỏng ngươi ghim một cánh hôn trên môi tâm hồn ta và làm nó cháy bùng như ngọn đuốc.
Ta đã theo bước ngươi đi, Ô Đêm, và giõi bóng ngươi đến khi nào ta với ngươi hoà một.
Ta yêu ngươi cho đến khi nào bản thể ta trở thành một hình ảnh thu nhỏ của bản thể ngươi.
Trong bản ngã u tối của ta những vì sao nhấp nháy được cảm xúc ta rắc rải. Và trong tim ta vằng vặc một bóng trăng chiếu sáng bước diễn hành của những giấc ta mộng mị.
Trong tâm hồn không ngủ của ta một màn yên lặng hé lộ những bí ẩn của tình nhân và vọng lại tiếng cầu kinh của kẻ sùng bái,
Và khuôn mặt ta khoác một mặt nạ thần kỳ.
Mặt nạ bị cơn hấp hối xé rách, nó được vá víu bằng những khúc hát của tuổi xuân.
Hai ta giống nhau như bóng với hình, Đêm hỡi.
Liệu con người có coi ta là khoe khoang nếu ta ví von ta với ngươi?
Con người chẳng khoe khoang hắn giống như ban ngày đó ư?
Ta quả giống ngươi, hỡi Đêm, và cả hai ta đều bị buộc tội những gì ta không có.
Ta quả giống ngươi dẫu rằng hoàng hôn chẳng lấy áng mây vàng đội cho ta làm vương miện.
Ta quả giống ngươi dẫu rằng sớm mai chẳng tô điểm gấu áo ta bằng những tia nắng hồng.
Ta quả giống ngươi dẫu rằng ta chẳng được dải Ngân Hà vây quanh.
Ta là đêm vô cùng và bình lặng; niềm u tối của ta chẳng có khởi đầu, và vực sâu của ta chẳng có chấm dứt.
Khi nào các linh hồn vươn lên ánh sáng hoan lạc, linh hồn ta lên cao được bóng tối u sầu tán tụng.
Ta quả giống ngươi, hỡi Đêm! Và khi sớm mai của ta tới, thì giờ của ta sẽ điểm.
Trái đất
Ngươi mỹ lệ làm sao, hỡi Trái Đất, và tuyệt trác làm sao!
Hoàn hảo làm sao là sự ngươi vâng lời ánh sáng, và cao quí làm sao là sự ngươi phục thuận mặt trời!
Dễ thương thay khuôn mặt ngươi phủ sau màn bóng tối, và đáng yêu thay khuôn mặt ngươi che kín bằng màn đêm.
Êm ái làm sao là khúc hát bình minh của ngươi, và chát chúa làm sao là những lời ngươi ca ngợi ban chiều!
Hoàn hảo làm sao, hỡi Trái Đất, và oai vệ làm sao!
Ta đã từng bước đi trên những cánh đồng của ngươi, ta đã từng leo lên những núi đá của ngươi;
Ta đã từng thả xuống lưng đồi;
Ta đã từng bước vô hang động.
Ngoài đồng, ta tìm thấy lòng ngươi kiêu hãnh; dưới đồi ta chứng kiến lòng ngươi bình lặng; trên núi đá ngươi quyết tâm; trong hang động ngươi bí mật.
Ngươi yếu đuối và dũng mãnh, và khiêm từ và kiêu căng.
Ngươi mềm dẻo và cứng rắn, và trong sáng và bí ẩn.
Ta đã từng cưỡi trên lưng sóng của ngươi và dò dưới sông ngòi và theo chân suối lạch.
Ta nghe thấy Thiên Thu nói qua ngọn thuỷ triều, và các thời đại vẳng lại những khúc ca của ngươi trong đồi nương.
Ta lắng nghe cuộc sống kêu gọi cuộc sống trong hẻm núi trên triền non.
Ngươi là miệng là môi Vĩnh Cửu, là dây đàn là ngón tay Thời Gian, là lẽ mầu nhiệm là lời giải đáp Cuộc Đời.
Mùa Xuân ngươi đã gọi ta dậy và dẫn ta ra ngoài đồng nội, nơi hơi thở thơm tho của ngươi bay lên trời như trầm hương.
Ta đã thấy Mùa Hạ ngươi ươm trái.
Mùa Thu trong cánh đồng nho ta thấy máu ngươi chan hoà như rượu.
Mùa Đông khênh ta vào giường ngươi, nơi tuyết trắng chứng giám lòng ngươi trinh khiết.
Xuân đến ngươi là hương thơm; Hè lại ngươi đôn hậu; Thu về ngươi phong nhiêu.
Một đêm thanh vắng ta mở toang mọi cửa ngõ hồn ta và bước ra ngoài gặp ngươi, tim ta căng nén dục tình và thèm muốn.
Và ta thấy ngươi ngắm nhìn sao trời đang mỉm cười với ngươi. Cho nên ta giật tung mọi xiềng xích, bởi ta thấy rằng nơi trú ngụ của tâm hồn là ở trong không gian ngươi.
Dục tình của nó lớn trong dục tình của ngươi; lòng bình an của nó nằm trong lòng bình an của ngươi; và hạnh phúc của nó vẩn trong bụi vàng mà sao trời gieo rắc xuống thân thể ngươi đó.
Một đêm, khi các vùng trời chuyển xám, và hồn ta chán chường và âu lo, ta bước ra ngoài gặp ngươi.
Và ngươi hiện trước mắt ta như vật khổng lồ, vũ trang bằng giông bão cuồng nộ, lấy hiện tại đấu tranh quá khứ, lấy mới thay cũ, và để cho kẻ mạnh dẹp tan kẻ yếu.
Từ đó ta học biết rằng qui luật của dân tộc là qui luật của ngươi.
Ta học biết rằng kẻ nào chẳng bẻ gãy cành khô của mình bằng cơn giông bão sẽ chết đi héo hắt,
Và kẻ nào chẳng dùng cách mạng, đặng tuốt trần lá khô của mình xuống, sẽ từ từ suy vong.
Đôn hậu thay, hỡi Trái Đất, và mạnh mẽ thay là lòng ngươi mong ngóng những đứa con ngươi mất đi giữa những gì chúng đã thành đạt và những gì chúng chưa thể với tới.
Ta la hét và ngươi mỉm cười; ta phóng tới và ngươi ở lại.
Ta xúc phạm và ngươi vinh tôn.
Ta ô nhục hoá và ngươi thần thánh hoá.
Ta ngủ không một giấc mơ; nhưng ngươi mơ mộng trong cơn thức tỉnh muôn đời.
Ta đâm ngực ngươi bằng đao bằng kiếm,
Và ngươi bọc vết thương ta bằng dầu cây bằng nhựa hương.
Ta cấy xuống đồng ngươi những xương những sọ, và từ đó ngươi trồng lên những rặng trắc
bá những hàng thuỳ liễu.
Ta đổ phế vật ta vào lòng ngươi, và ngươi đổ đầy xàn xay thóc của ta những bó lúa mì, và chứa đầy máy ép rượu ta những chùm nho tươi.
Ta lấy các nguyên tố của ngươi để tạo thành trọng pháo và bom đạn, nhưng từ những nguyên tố của ta ngươi tạo nên hoa huệ hoa hồng.
Kiên nhẫn làm sao, hỡi Trái Đất, và quảng đại làm sao!
Phải chăng ngươi là một hạt bụi được gót chân Thượng Đế đạp mù lên khi Người du hành từ đông sang tây Vũ Trụ?
Hay ngươi là một tia lửa bắn văng ra từ lò luyện của Vĩnh Cửu?
Phải chăng ngươi là một hạt giống rớt xuống cánh đồng thanh không đặng trở thành cây của Thượng Đế vươn lên thiên đàng những cành cây thiên giới? Hay ngươi là một giọt máu trong huyết quản vật khổng lồ của những vật khổng lồ, hay giọt mồ hôi trên trán hắn?
Có phải ngươi là một trái cây ươm chín bởi mặt trời?
Có phải ngươi lớn lên từ cây Tri Thức Tuyệt Đối, mà rễ cây vươn tới Vĩnh Cửu, và cành cây vươn đến Vô Cùng?
Có phải ngươi là một hạt ngọc mà Thần Thời Gian đã đặt trong bàn tay Thần Không Gian?
Ngươi là ai, bớ Trái Đất, và ngươi là gì?
Ngươi chính là ta vậy, hỡi Trái Đất!
Ngươi là nhãn quan là biện biệt của ta.
Ngươi là tri thức là giấc mơ của ta.
Ngươi là cơn ta đói là cơn ta khát.
Ngươi là niềm ta hân hoan là niềm ta sầu khổ.
Ngươi là vô thức là cảnh giác.
Ngươi là vẻ đẹp sống trong mắt, niềm ngóng đợi trong tim, cuộc sống mãi mãi trong hồn ta.
Ngươi là ta đó vậy, hỡi Trái Đất.
Nếu chẳng vì bản thể ta, thì chắc ngươi đã chẳng hề có mặt.
Tro tàn thời đại và ngọn lửa vô cùng
I.
Mùa xuân năm 116 t.t.c
Đêm và tịch mịch đã rơi xuống. Thành Mặt Trời
[2] đang say ngủ. Đèn đã tắt hết trong những khu gia cư nằm giữa những đền đài uy nghi đứng xừng xững trong những rặng cây ô-liu và nguyệt quế. Ánh trăng sáng bạc dội chan hoà trên những cột trụ bàng cẩm thạch đứng như những lích gác khổng lồ trước những ngôi nhà của thần thánh.
Vào giờ đó, trong lúc mọi linh hồn đã quy hàng trước giấc ngủ, thì Nathan, con trai của viên Đại Tư Tế, bước vào Đền Ishtar, với một ngọn đuốc cầm trong tay run rẩy. Chàng thắp đền và đốt nhang, và chỉ trong giây lát mùi thơm xực nức của mộc dược và trầm hương bay tản mát khắp các ngõ ngách. Rồi chàng quỳ xuống trước tế đài khảm ngà và vàng, giơ hai tay về phía Ishtar
29, và bằng một giọng nghẹn ngào chàng nói lớn tiếng:
“Hãy rủ lòng thương tôi, Ô Ishtar sáng láng, nữ thần Tình Ái và Mỹ Lệ. Hãy rủ lòng quảng đại và ngăn cản đôi bàn tay Thần chết khỏi bắt đi người yêu dấu của tôi, kẻ mà tâm hồn tôi đã lựa chọn do ý muốn của Người. Mọi liều thuốc của các y sĩ và mọi lời thần chú của các pháp sư đều vô hiệu. Không còn gì cả ngoại trừ ý muốn thánh thần của Người. Người là kẻ chỉ đạo và phù trợ của tôi. Hãy ngó nhìn trái tim nát vỡ và tâm hồn đớn đau của tôi với lòng thương xót, và cho tôi như nguyện. hãy níu lại cuộc đời của người tôi yêu dấu để nàng với tôi cùng thờ phụng Người bằng nghi lễ của tình yêu và hiến dâng Người tuổi thanh xuân và vẻ kiều diễm của chúng tôi.”
“Nathan, kẻ tôi tớ của Nữ Thần đây, con trai của thầy Đại Tư Tế Hiram, đã yêu một nàng trinh nữ đẹp tuyệt vời và đã kết duyên với nàng. Nhưng có một con yêu ma đã ghen ghét vẻ đẹp của nàng cùng mối tình say đắm của tôi và thổi vào thân thể nàng một bệnh dịch hiểm nghèo, và giờ đây sứ thần của Thần chết đang đứng cạnh giường nàng, trải rộng đôi cánh đen choàng phía trên nàng, và đang giương ra các vuốt sắt của nó. Hãy rủ lòng thương chúng tôi, tôi thành khẩn cầu cứu Nữ Thần. Hãy níu vớt lại một đoá hoa chưa hề được tận hưởng mùa hạ của nó.
30”
“Hãy cứu nàng khỏi tay Thần Chết đặng chúng tôi có thể ca hát những khúc Thánh ca tán tụng Người và đốt trầm hương vinh tôn Người và cúng hiến lễ vật trước tế đài của Người và đổ đầy các bình hoa của Người bằng dầu thơm và rải rắc hoa hồng cùng hoa đổng thảo trên trụ lang trước điện Người. Hãy để cho Tình Ái thắng Tử Thần trong cuộc phân tranh giữa Hân Hoan và Sầu khổ này.”
Và Nathan, kiệt sức, không thể nói gì thêm nữa.
Ngay đúng lúc đó thì tên nô lệ của chàng bước vào đền, chạy vội đến chàng, và thì thầm bên tai chàng:
“Bẩm chủ Ông, nàng cho gọi Ngài.”
Nathan bèn chạy về dinh thự và bước vào phòng người yêu. Chàng cúi nghiêng xuống giường nàng, nắm lấy bàn tay mong manh của nàng, và hôn đôi môi nàng in tuồng như cố thổi hơi thở đời sống của chàng vào thân thể nàng. từ từ nàng mở mắt, và trên môi thoáng hiện một nụ cười yếu ớt, sứ thần của nhịp tim đập cuối cùng. Bằng một giọng yếu ớt, nàng nói:
“Nữ thần đang gọi em, ô Cuộc Đời của Linh Hồn em! Đầy tớ của Người là Tử Thần đã đến. ý muốn của nữ thần rất thiêng liêng, và bầy tôi của Thần Chết công bình. Em đi đây, và em nghe thấy tiếng xào xạc của vùng trắng xoá đang buông xuống. Nhưng những bôi Ái Tình và Tuổi Trẻ hãy còn trên tay đôi ta, và những con đường trải hoa của Cuộc Đời đẹp đẽ vẫn vươn tới trước mặt đôi ta. Em đi đây, hỡi Anh Yêu Dấu, em bước lên thuyền thần linh, nhưng em sẽ trở lại với anh; bởi Thần Nữ Ishtar sẽ hoàn phục các tâm hồn của tình nhân chưa được hưởng cái phần Tình Ái ngọt ngào và Tuổi Thanh Xuân hoan lạc của họ.”
Nathan rớm lệ cúi xuống hôn nàng và thấy đôi môi nàng đã lạnh. Chàng oà khóc và bắt đầu xé rách hết y phục của mình, và tiếng kêu khóc than van của chàng đánh thức mọi người tỉnh dậy. Vào lúc tảng sáng, nhiều người đến dinh của Nathan chia buồn với chàng. Nhưng Nathan đã biến mất. Sau hai tuần lễ, người đứng đầu một đoàn xe thương đội vừa mới tới kể lại rằng hắn có trông thấy Nathan trong vùng sa mạc xa xôi, đi lang thang giữa một bầy hươu nai.
Qua đi các thời đại. Thay vào chỗ của Ishtar, nữ Thần Tình Ái và Mỹ Lệ, là một nữ thần huỷ hoại đang ngự trị. Nàng đã kéo sập những đền đài nguy nga trong Thành Mặt Trời; nàng đã phá huỷ những cung điện mỹ lệ ở đó. Nàng đã phá dập những vườn trái cây và ruộng đồng. Khắp nơi ngổn ngang những phế tích.
II.
Mùa xuân năm 1890 s.t.c
Mặt trời đã thu về những tia nắng vàng của nó khỏi cánh đồng cỏ trong thành Baalbek. Ali El Hosseini
[3] lùa bầy cừu của chàng về lều giữa đống phế tích của các đền đài. Chàng ngồi giữa các cột trụ cổ xưa đó và thổi sáo cho bầy cừu chàng nghe.
Nửa đêm đến và vầng trời gieo rắc những hạt giống của ngày hôm sau xuống những luống sâu của bóng tối. Đôi mắt Ali trở nên nặng nề, và giấc ngủ bỗng tới chiếm cứ các giác quan chàng. Chàng gặp được cái bản ngã vô hình của chàng, trú ngụ trên một lãnh vực cao hơn, và tầm nhãn quan của chàng mở rộng ra, khiến cho những điều bí mật ẩn giấu của Đời Sống hiện ra trước mắt chàng. Linh hồn chàng đứng tách riêng ra khỏi Thời Gian đang xô cuống về cõi hư vô; nó đứng giữa những tư tưởng đối xứng và những ý niệm pha-lê. Lần đầu tiên trong đời chàng, Ali trở nên ý thức được những nguyên nhân của cơn đói khát tinh thần của tuổi thanh xuân của chàng, ý thức được nỗi ngóng trông mà vinh quang trên thế giới này, cũng như thời gian cuốn trôi chẳng thể làm chàng quên nguôi. Ali cảm thấy mối đau thương của một Ký Ức già nua hàng thế kỷ, nhen lên như cây nhang đặt trên những bó bùi nhùi cháy đỏ. Một mối thương yêu kỳ diệu động hờ trái tim chàng như những ngón tay mềm mại của người nhạc sĩ chạm trên các dây đàn rung rung.
Ali ngó nhìn các phế tích và rồi, như một người mù bỗng nhiên lại được trông thấy ánh sáng, chàng nhớ lại những ngọn đèn và những lư trầm bằng bạc đằng trước ngôi đền của một thần nữ… Chàng nhớ lại những đồ hiến tế đặt tại một tế đài bằng vàng và ngà… Chàng lại nhìn thấy các trinh nữ đang nhảy múa, các người khua trống nhỏ, các ca sĩ đang hợp xướng các khúc thánh ca tán tụng nữ thần Tình Ái… và Mỹ Lệ… Nhưng làm sao mà những kỷ niệm đó có thể còn sống trong trái tim một kẻ mục đồng chất phác sinh ra trong lều một kẻ du mục?
Bỗng nhiên các kỷ niệm xé toang màn quên lãng, và chàng đứng dậy và bước tới ngôi đền. Tới trước lối vào hang động chàng dừng lại in tuồng như có một từ lực đã hút lấy chân chàng. Ngó xuống, chàng trông thấy một pho tượng đã bị đập vỡ nằm dưới đất, và cảnh tượng này khiến tâm hồn chàng tuôn trào những dòng lệ chảy ra như máu ứa từ một vết thương sâu. Chàng cũng cảm thấy một nỗi cô đơn đâm khía vào chàng như dao nhọn, và một nỗi nhớ nhung xa vời như một vực thẳm nằm giữa trái tim chàng và trái tim mà chàng đã cách xa hồi trước khi nhập thể.
“Ngươi là ai, Ali lớn tiếng la trong nỗi thảm sầu, ngươi là ai đang đứng xát cạnh tim ta mà mắt ta lại không trông thấy? Phải chăng ngươi là một bóng ma từ Vĩnh Cửu đến trỏ cho ta thấy niềm mộng ảo của kiếp Nhân Sinh và sự yếu đuối của nhân loại? Hay là hồn vía của một loài quỷ thoát ra từ các kẽ nẻ của trái đất tới bắt ta làm nô lệ và lấy ta làm vật để bêu riếu? Cái uy quyền kỳ lạ nào của ngươi đó khiến trái tim ta ủ rũ mà đồng thời lại làm nó phấn khởi như thế? Ta là ai, và cái bản thể dị kỳ nào đó mà ta gọi là “Bản Ngã Ta”? Có phải ngụm Nước Cuộc Đời ta uống đó đã biến ta thành một thiên thần đang giao ứng thanh khí với vũ trụ và những bí ẩn của nó? Hay chính đó là thứ rượu mê say nó làm ta mù loà trong bản ngã ta?”
“Ôi, những gì linh hồn phát lộ thì đêm tối che kín… Ôi, thần linh mỹ miều đang bay lượn trên bầu trời giấc mộng của ta, hãy hiện lên với ta nếu ngươi là loài người, hay ra lệnh cho Giấc Ngủ khép mắt ta lại để ta có thể chiêm ngưỡng cái bao la thánh thần của ngươi. Nếu là loài người, thì hãy cho ta sờ mó được ngươi; hãy cho ta nghe được tiếng ngươi. Hãy xé toang tấm màn nó phủ kín ngươi khỏi ta. Nếu ta quả xứng đáng, thì hãy đặt tay ngươi lên tim ta và mê hoặc ta.”
Một giờ qua đi như thế, Ali trào lệ và lên tiếng cầu xin.
Và rồi Rạng Đông hiện ra và ngọn gió mát sớm mai xao động. Chim muông lìa tổ và ca hót những khúc kinh cầu buổi sớm.
Ali đặt nắm tay khum lại trên trán. Giống như Ađam lúc Thượng Đế thổi hơi thở sáng tạo mở mắt hắn ra, Ali trông thấy vạn vật mới tinh khôi, lạ kỳ và thần diệu. Chàng lên tiếng kêu bầy cừu và bầy cừu lặng lẽ theo chân chàng đi về phía đồng cỏ. Lúc chàng dẫn chúng đi, chàng cảm thấy như một triết gia có năng lực thấu hiểu những bí mật của Vũ Trụ. Chàng đi tới một con suối mà tiếng kêu róc rách, thì thầm khiến tâm hồn chàng thấy êm ái, và ngồi dưới một cây liễu mà cành lá rũ xuống nước in tuông như đang cúi uống từ các vực nước mát tươi.
Nơi đây Ali cảm thấy nhịp tim đập của chàng là một hơi rung mạnh mẽ, hầu như trông thấy được, đang chấn động. Chàng đứng bật dậy như một người mẹ thốt nhiên tỉnh giấc vì tiếng la của đứa con mình, và đôi mắt chàng như bị từ lực thu hút khi trông thấy một nàng trinh nữ mỹ miều đang tiến lại phía chàng từ hướng đối diện, trên vai mạng một bình nước. Lúc nàng nghiêng xuống lấy nước, thì mắt nàng và mắt Ali gặp nhau. Nàng la lên thất thanh, đánh rớt bình nước, và chạy đi, những còn ngó lại với đầy vẻ nghi ngờ đau khổ.
Ali, dường như bị một huyền lực nào xô tới, bèn nhảy qua con suối, chạy theo bắt kịp nàng trinh nữ và ôm choàng lấy nàng và hôn. Dường như sự vuốt ve mơn trớn này đã làm dịu nghị lực của nàng, cho nên nàng không kháng cự hay chạy đi, mà cung thuận cho chàng như hương nhài phục tòng cơn gió thoảng qua. Đôi trai gái cảm thấy như sự đoàn tụ các linh hồn đã lâu ngày bị trái đất làm chia ly và giờ đây được Thượng Đế cho xích lại gần nhau.
Đôi trai gái mắc trong lưới tình bước đi giữa các hang thuỳ liễu, và sự hoà hợp của hai bản ngã là một cái lưỡi đang cất tiếng nói cho hai người; một cặp mắt đặng chiêm ngưỡng vẻ huy hoàng của hạnh Phúc; một đôi tai lắng nghe trong yên lặng điều khải thị vô cùng của Tình Yêu.
Bầy cừu gặm cỏ; chim muông trên trời bay lượn trên đầu họ; mặt trời trải rộng tấm áo vàng trên các đồi non; và đôi tình nhân ngồi bên bờ đá tảng, nơi đám hoa sim đang giấu mặt mỉm cười e lệ. Nàng trinh nữ ngó vào đôi mắt đen láy của Ali trong lúc ngọn gió mát trong mơn trớn tóc nàng, in tuồng như những mớ tóc lay động là những ngón tay đang thèm muốn nụ hôn. Rồi nàng nói:
“Hỡi anh yêu dấu, nữ thần Ishtar đã khôi phục hai tâm hồn ta vào cõi đời này từ một cõi đời khác, để cho ta sẽ khỏi bị chối từ niềm hoan lạc của Tình Yêu và vẻ huy hoàng của Tuổi Trẻ.”
Ali khép mắt lại, dường như tiếng nói du dương của nàng đã mang về cho chàng những hình ảnh một giấc mơ xưa. Những đôi cánh vô hình chở chàng tới một căn phòng kỳ lạ, nơi mà thể xác một trinh nữ đang nằm trên giường chết, nàng trinh nữ mà sắc đẹp đã bị Tử Thần tới cướp đi. Chàng thốt lên một tiếng kêu hãi sợ, rồi mở mắt ra và thấy nàng trinh nữ đang ngồi bên cạnh chàng, trên môi nở một nụ cười và trong mắt sáng ngời những tia sáng Cuộc Đời. Và rồi tim chàng tươi mát lại, và bóng ma ảo ảnh của chàng lui khuất, và qua khứ cùng những nỗi kinh hoàng của nó biến mất. Đôi tình nhân ôm lấy nhau và cùng uống thứ rượu thơm tho từ những ly hôn ngọt ngào. Họ ôm choàng và nằm ngủ mê say trong cánh tay nhau cho đến khi vùng tối cuối cùng được Quyền Năng Vĩnh Cửu làm tan biến đi hết và làm họ tỉnh dậy.
[1]7 Tên đặt cho tháng Tư (L.N.D.)
[2]8 Baalbek, hoặc còn gọi là Thành Baal, thần mặt trời của xứ Xyri cổ; trong các thời Hy-La tên nó được đổi thành Heliopolis, tiếng Hy-Lạp có nghĩa là Thành Mặt Trời. Thành này hồi xưa được coi là thành phố đẹp nhất tại vùng Trung Đông cổ. Các phế tích ở đây hầu hết là của người La-mã (L.N.D.)
29 Ishtar, nữ thần của dân Phê-ních, được sùng bái trong các thành Tyre, Sidon, Sur, Djabeil và Baalbek, còn được gọi là Người Đốt Đuốc Đời sống, và Thần Hộ Mệnh Tuổi Trẻ. Nàng tương ứng với Aphrodite, nữ thần Tình Ái và Mỹ Lệ của người Hy-lạp, và Venus, - Thần Vệ Nữ - của người La-mã. (L.N.D.)
30 Trong “Kỷ Nguyên Ngu Tối” (thời đại trước khi Mohammed xuất hiện), người Ả-rập tin rằng nếu một nữ quỉ
(djin) mà yêu một người con trai, thì nó sẽ ngăn cản không cho chàng lấy vợ, và nếu người con trai lấy vợ, thì nó sẽ nhập hồn tân nương và làm cho nàng chết. Điều dị đoan này ngay nay vẫn còn trong các làng hẻo lánh ở Liban. (L.N.D.)
[3]9 Người Hosseini là một bộ lạc Ả-rập, sống trong các lều căng trên các đồng cỏ bao quanh các phế tích ở Baalbek. (L.N.D.)