© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
27.12.2004
Phan Khôi
Việt ngữ nghiên cứu
8 kỳ
 1   2   3   4   5   6   7   8 
 
Mấy đặc điểm trong tiếng Việt

Trên quả đất này, mỗi dân tộc có một thứ tiếng nói khác nhau. Tuy vậy, hết thảy các thứ tiếng đều có những cái điểm cộng thông, nghĩa là giống nhau.

Những điểm cộng thông như là: Thứ tiếng nào cũng có thể chia ra các từ loại như danh từ, động từ v.v... Thứ tiếng nào khi muốn làm thành một mạng đề cũng phải có đủ ba phần là chủ từ, danh từ, túc từ v.v... Nhưng ngoài điểm cộng thông ra, mỗi thứ tiếng lại có những đặc điểm đặc biệt.

Tiếng Việt cũng có những đặc điểm của nó.

Đặc điểm thứ nhất: Theo thứ tự của thời gian.

Cái ví dụ sắp cử ra đây đã có người cử ra rồi; đây tôi thuật lại và thêm mấy ví dụ khác.

Trên đường về của người thợ săn, có kẻ gặp và hỏi: Anh đi đâu về? Theo tiếng Pháp thì đáp lại rằng: "Je reveiens de la chasse", dịch thuật đúng là "Tôi trở về từ sự đi săn"; nhưng theo tiếng ta, không nói như thế đâu, mà nói: "Tôi đi săn về".

Lúc gặp kẻ hỏi đó, người thợ săn đang làm cái việc gì? Đang làm cái việc trở về. Vậy việc trở về là việc chính của người thợ săn trong lúc đó, cho nên nói "tôi trở về", chữ "trở về" dính liền với chữ "tôi", chủ từ, để tỏ ra cái việc chính mình đang làm. Nhưng trước khi về còn có việc đi săn, cho nên nói tiếp: "từ sự đi săn".

Như thế, thấy trong câu tự sự, tiếng Pháp lấy việc chính làm trọng, người thợ săn phải tự thuật cái động tác hiện tại của mình chính lúc đáp lời hỏi đó rồi mới đến việc gì từ trước.

Theo câu đáp của tiếng ta thì hoàn toàn khác với cái nguyên tắc ấy của tiếng Pháp. Tiếng ta lấy thứ tự của thời gian làm trọng. Việc đi săn ở trước việc trở về, đi săn xong rồi mới trở về, cho nên nói "Tôi đi săn về". Theo cách nói của tiếng ta, không cần kể trở về là việc chính mà chỉ cần kể đi săn là việc trước.

Trong sách Trang Tử có câu: "Trang Tử xuất ư sơn, nhập cố nhân chi gia". Nếu dịch đúng từng chữ thì phải nói: "Trang Tử ra từ núi, vào nhà của người bạn". Nhưng nếu không dịch đúng từng chữ mà nói theo lối thường của tiếng ta thì nói: "Trang Tử ở núi ra, vào nhà người bạn".

So sánh cái ví dụ này với cái trên, thấy về trường hợp này, chữ Hán cũng có đồng một nguyên tắc như tiếng Pháp, mà tiếng ta thì bao giờ cũng theo thứ tự thời gian: cái việc ở núi trước cái việc ra, ở núi rồi mới ra, cho nên nói: "ở núi ra".

Cái ví dụ trên, "Je reviens de la chasse" với "tôi đi săn về", cách nói khác nhau mà nghĩa không khác. Nhưng cái dưới, nói theo tiếng ta như thế, e không thật đúng với nguyên văn chữ Hán.

Theo ý nghĩa của câu chữ Hán thì Trang Tử nguyên ở trong núi mà nhà người bạn ở ngoài núi. "Xuất ư sơn", có nghĩa là Trang Tử ra khỏi núi rồi mới vào nhà người bạn. Thế mà ta nói "ở núi ra" thì có thể là đang ở núi ra, chưa biết ra khỏi núi chưa, và có thể chưa ra khỏi núi đã vào nhà người bạn thì thành ra nhà người bạn ở trong núi.

Gặp trường hợp khắt khe như thế, có lẽ ta nên bỏ lối thường nói của mình đi mà nói theo lối tiếng Pháp chữ Hán là hơn. Chẳng những phải nói "ra từ núi" mà còn phải nói "ra khỏi núi" hầu cho cái ý nghĩa của câu văn được rõ ràng dứt khoát.

Trong những câu tự sự, tiếng ta đã theo thứ tự thời gian như vậy rồi, trong những câu mệnh lệnh cũng lại theo như vậy nữa.

Như một đoạn tiếng Pháp này:

"Couchea vous dès que vous avez envie de dormir, levez-vous dès que vous vous éveillez; travaillez dès que vous êtes levés. Ne mangez que lorsque vous avez faim; ne buvez que lorsque vous avez soif; ne parlez que lorsqu'il le faut".

Nếu dịch cho thật đúng thì phải dịch: "Hãy đi ngủ liền khi buồn ngủ, hãy chỗi dậy liền khi thức giấc; hãy làm việc liền khi đã chỗi dậy. Chỉ nên ăn lúc nào thấy đói; chỉ nên uống lúc nào thấy khát; chỉ nên nói lúc nào thấy đáng nói".

Nhưng lối nói đó không là tiếng Việt thuần túy, cho nên có người đã dịch đoạn ấy đăng trên Đông Dương tạp chí Nguyễn Văn Vĩnh như thế này: "Buồn ngủ thì đi ngủ ngay; thức giấc thì chỗi dậy ngay; chỗi dậy rồi thì làm việc ngay. Khi nào đói hãy ăn; khi nào khát hãy uống; khi nào đáng nói hãy nói".

Thật vậy, chúng ta hẳn cũng thấy cách dịch trên không bằng cách dịch dưới đúng tiếng Việt Nam hơn.

Vậy thì hỏi: Trong sáu câu này những cái mệnh lệnh ở việc gì? Cố nhiên là ở những việc đi ngủ, chỗi dậy, làm việc, ăn uống và nói. Cái trọng tâm của mỗi câu ở một việc trong sáu việc ấy, cho nên tiếng Pháp đặt nó đứng trực hết rồi sau mới đến những từ ngữ phụ gia chỉ về thời gian là "liền khi", "lúc nào". Tiếng Việt không nhận thấy cái trọng tâm đó mà vẫn theo thứ tự thời gian: buồn ngủ trước khi đi ngủ, thức giấc trước khi chỗi dậy, chỗi dậy trước khi làm việc, thấy đói trước khi ăn, thấy khát trước khi uống, thấy đáng nói trước khi nói, cho nên mỗi câu mới đặt cái việc trước ở trước, cái việc sau ở sau. Cái điều đáng chú ý là nói theo lối tiếng ta đó, cái trọng tâm của mệnh lệnh đáng đọng lại ở chỗ nào cũng vẫn đọng lại ở chỗ ấy chứ không thể chệch đi được.

Cho đến trong những câu giả thiết, tiếng ta cũng theo thứ tự thời gian. Việc có tiền ở trước việc mua xe hơi, cho nên nói: "Nếu tôi có tiền tôi sẽ mua xe hơi". Nhưng mua xe hơi là trọng tâm trong câu giả thiết này cho nên tiếng Pháp có khi theo đồng một nguyên tắc trên mà nói ngược lại: "Tôi mua xe hơi nếu tôi có tiền".

Trong những câu như thế, gần nay chúng ta cũng có nói "nếu" ở sau theo lối tiếng Pháp. Nhưng trong sách Việt Nam văn phạm, tác giả có lập luật buộc chỉ phải nói "nếu" ở trước.

Tiếng nói phải theo thời đại mà biến hóa để tiến bộ; trong sự biến hóa, thứ tiếng này bắt chước thứ tiếng khác là thường, miễn không làm hại đến căn bản. Cái luật của Việt Nam văn phạm sẽ không có ai tuân cả nếu người ta công nhận nói "nếu" ở sau là một dấu tiến bộ của tiếng Việt chứ chẳng có hại gì. Một sách ngữ pháp Trung Hoa cũng có nói về điều ấy như vầy: Trước kia người Trung Quốc vốn nói "nếu" ở trước trong câu giả thiết, song sau khi Âu hóa cũng có nói "nếu" ở sau [1] .

Về điểm này, có người cho rằng tiếng ta theo thứ tự thời gian tức là sắp đặt cái thứ tự phát sinh của sự vật theo khách quan, một phương thức đúng đấy. Tôi xin ghi vào đây, chưa dám phê bình vội.

Đặc điểm thứ hai: Theo yêu ghét của chủ quan:

Điểm này thì thật là đặc biệt và đặc biệt, dễ thường chỉ trong tiếng nói Việt Nam mới có.

Trong khi làm một động từ thành ra hình thức bị động, tiếng ta dùng hai phó từ khác nhau để chỉ hai ý khác nhau: Cái điều mình nhận lấy mà lấy làm thích, mình yêu nó, thì dùng chữ được, như được thưởng, được khen, được thăng chức; Cái điều mình nhận lấy mà lấy làm không thích, mình ghét nó, thì dùng chữ bị, như bị phạt, bị quở, bị cách chức.

Bị động là bị động, chứ sao lại còn chia ra theo yêu ghét của chủ quan bằng chữ này hay chữ khác, ấy là thật một sự lạ.

Do đó sinh ra một lối nói như là phản ngữ. Nếu được mời ăn mà không lấy sự ăn ấy làm thích, có thể nói "bị mời" nếu bị tát (tát tai) mà lấy sự tát ấy làm hân hạnh, có thể nói "được tát".

Nhưng đã chia ra như thế thì, ngoài cái trường hợp phản ngữ ra, cùng một bị động từ có thể dùng cho hai phương diện yêu và ghét nhau, thành ra bị động không hẳn là bị động nữa. Như nói "tôi được ăn cỗ", và nói "không có muối tôi bị ăn nhạt mất một tháng", thì "ăn" ấy đều là "tôi ăn", chủ động, chỉ vì thích ăn cỗ nên nói "được" không thích ăn nhạt nên nói "bị", chứ có phải là bị ăn như nói "bị cọp ăn" hay là như tiếng Pháp nói être mangé đâu.

Theo như cái hình thức bị động từ của tiếng ta như thế, nó sẽ không giống với bị động từ của một thứ tiếng nào cả.

Tiếng Hán, tiếng Pháp hay tiếng Anh cũng vậy, chỉ có ngoại động từ (verb transitif) thì mới chuyển làm bị động từ được, như đánh, giết, chuyển làm bị đánh, bị giết được; còn nội động từ (verbe intransitif) thì không thể chuyển, như bay, chạy, có khi nào nói được bị bay, bị chạy đâu. Nhưng tiếng ta, vì chia ra "được" và "bị", làm mất cái nghĩa bị động thuần túy đi rồi, cho nên dù là nội động từ cũng nói "được" hay "bị": Tức như đi, "đi" là nội động từ mà có thể nói "tôi được đi sứ" và "tôi bị đi đày".

Không những thế, theo lối nói của tiếng ta, dù là khi dùng ngoại động từ chuyển sang hình thức bị động cũng còn có sự rắc rối lôi thôi có thể lầm lẫn đấy. Như nói "bị đánh", cố nhiên là bị người khác đánh, nhưng nói "được đánh" ngoài cái nghĩa phản ngữ như "được tát" trên kia, còn có nghĩa là được đánh người khác, như theo phong tục xã hội cũ, người ta nói "chồng được đánh vợ, vợ không được đánh chồng". Thì ra tại chữ "được" này có nghĩa khác, nó ở đây không phải "nhận lấy" mà là "có thể", "được phép".

Như thế, chữ "được" chữ "bị" trong hình thức bị động từ tiếng ta nó là cái gì, chứ không phải là hình thức bị động nữa. Có lẽ nó là động từ phụ như verbes auxiliaires của tiếng Pháp chăng. Điều này, nhà làm sách ngữ pháp Việt Nam còn phải thảo luận kỹ lưỡng lắm rồi mới quyết định bề nào được.

Về sự theo yêu ghét của chủ quan còn có một ví dụ nữa là đặt chữ "ra" hay chữ "đi" sau một hình dung từ dùng như động từ: Hễ cái gì mình lấy làm không thích, mình ghét nó, thì nó "đi". "Ra" và "đi" có nhiều nghĩa khác, nhưng ở đây lại là nghĩa đặc biệt của nó.

Như nói: "Càng ngày càng giàu ra", "càng ngày càng nghèo đi", "dạo này chị béo ra", "dạo này tôi gầy đi", rồi thì trắng ra, đen đi, giỏi ra, dốt đi, khôn ra, dại đi, tươi ra, héo đi, thừa ra, thiếu đi v.v...

Cố nhiên phải hiểu "ra" để chỉ nghĩa tích cực, "đi" để chỉ nghĩa tiêu cực, nhưng đồng thời, giàu, béo, trắng, giỏi, khôn, tươi, thừa là những cái người ta lấy làm thích, người ta yêu nó; còn nghèo, gầy đen, dốt, dại, héo, thiếu là những cái người ta lấy làm không thích, người ta ghét nó: cũng lại là theo yêu ghét của chủ quan.

Đặc điểm thứ ba: chủ từ tổng hợp:

Một điều thông thường trong ngữ pháp các nước: Có khi lấy cả một ngữ làm chủ từ cho động từ, như nói "ăn cơm độn khoai, đỗ, bắp hay sắn là một sự cực chẳng đã", thì "ăn cơm độn khoai, đỗ, bắp hay sắn" là một ngữ mà làm chủ từ cho động từ "là". Lại có khi lấy cả một cú (câu) làm chủ từ cho động từ, như nói "đoàn chủ tịch không đến đủ mặt làm cho không thể khai hội được", thì "đoàn chủ tịch không đến đủ mặt" là câu mà làm chủ từ cho động từ "làm cho".

Khi lấy một ngữ làm chủ từ thì coi cả ngữ ấy như một danh từ, trong ngữ pháp gọi là danh từ ngữ (tiếng Anh là noun phrase); khi lấy một câu làm chủ từ thì coi cả câu ấy như một danh từ, trong ngữ pháp gọi là danh từ cú (tiếng Anh là noun clause).

Cái trường hợp ấy thông dụng trong các thứ tiếng ngoại quốc mà cũng thông dụng trong tiếng ta nữa. Bởi vì trong khi không thể phân tích một ngữ một cú ra lấy một danh từ nào làm chủ từ được, người ta buộc phải lấy cả một ngữ một cú làm chủ từ.

Nhưng, ngoài trường hợp ấy, tiếng ta có nhiều khi không cần dùng danh từ cú làm chủ từ mà cũng cứ dùng; việc dùng như thế ông Đoàn Phú Tứ đã mệnh danh là "chủ từ tổng hợp" trong bài Đi tìm chủ từ của ông (do Hội Văn hóa Việt Nam xuất bản năm 1948).

Ông Đoàn có đưa ra một ví dụ: "Cha tôi chết làm cho tôi buồn". Lấy cả một khối "cha tôi chết" làm chủ từ cho động từ "làm cho", trong khi theo tiếng ngoại quốc có thể phân tích khối ấy ra lấy một danh từ làm chủ từ mà thôi, tức như: tiếng Pháp nói La mort de mon père m'attriste, danh từ la mort làm chủ từ cho động từ attriste; chữ Hán nói "ngã phụ chi tử sử ngã bị thương", danh từ "tử" làm chủ từ cho động từ "bị thương".

Tôi đưa ra thêm vài ví dụ nữa để rồi tìm ra cái chỗ nhược điểm của cách đặt câu trong tiếng ta như thế là tại đâu.

Trong một cuốn tiểu thuyết có câu: "Chúng tôi đi chơi ở Đồ Sơn vui quá", đáng lẽ nói "Cuộc đi chơi của chúng tôi ở Đồ Sơn vui quá'', "cuộc đi chơi" làm chủ từ cho chuẩn động từ "vui", không buộc phải dùng cả khối "chúng tôi đi chơi ở Đồ Sơn".

Trong một tạp chí có câu: "Chúng ta cãi lẽ với nhau chẳng đi đến đâu cả", đáng lẽ nói "Sự cãi lẽ nhau của chúng ta chẳng đi đến đâu cả", "sự cãi lẽ" làm chủ từ cho động từ "đi", không buộc phải dùng cả khối "chúng ta cãi lẽ với nhau".

Đáng lẽ dùng một danh từ, không dùng cả khối mà lại dùng cả khối, không dùng một danh từ, cái cớ ấy vì đâu?

Vì tiếng ta không có đủ danh từ để chỉ cái sự hay cái việc. Ngoài những danh từ cố định như trời, đất, sông, núi, cỏ, cây, đạo, nghĩa, óc, lòng, ra, về động tác và trạng thái của vật, tiếng ta chỉ có một động từ, hình dung từ mà thôi; rồi một khi muốn có một danh từ và đặt lên trên nó chữ "cái đẹp", "sự học" chẳng hạn. Ấy là một tình trạng nghèo nàn trong tiếng ta, không thể chối.

Chứng cứ ở cuốn tự vị Pháp Việt Trương Vĩnh Ký. Tự vị ấy cắt nghĩa: ciel: trời, terre: đất v.v... nhưng đến danh từ nào không có tiếng tương đương thì phải phối hợp một mớ động từ lại rồi đặt chữ "sự" lên trên, như ở đâu sách ấy: abasourdissement: sự làm cho ngờ ngẫn đi; abatardissement: sự làm cho lai đi.

Khi ông Đoàn Phú Tứ đưa cái ví dụ ra, có nói rằng: "Đành rằng ta cũng có thể nói "cái chết của cha tôi làm cho tôi buồn", nhưng đó là ta nói như tiếng Pháp rồi, chứ không còn nói tự nhiên như lối thường của ta nữa". Thật thế, trên đây tôi nói đáng lẽ phải nói "Cuộc đi chơi của chúng tôi..." và "sự cãi lẽ nhau của chúng ta...", cũng lại nói theo lối tiếng Pháp chứ tiếng ta vốn không nói thế. Rõ ràng trong đó ta thấy sau khi tiếng Pháp nhập cảng, ta mới bắt đầu làm như Trường Vĩnh Ký dịch la mort là cái chết, la promenade là cuộc đi chơi, la discussion là sự cãi lẽ nhau, cả đến chữ "của" cũng dịch ở chữ "de" ra nữa. Thế nào? Đó là một bước tiến của tiếng Việt đấy chứ!

Không những chỉ có ba điểm, còn nữa, sẽ tiếp sau.


Viết thêm về sau

Đính chính

Trong bài này, về chỗ "theo yêu ghét của chủ quan", có cử ra cái ví vụ đặt chữ "ra" hay chữ "đi" theo sau một hình dung từ dùng như động từ, như "giàu ra", "nghèo đi" v.v...

Tiếp ngay đó, tôi cũng có nói "ra" để chỉ nghĩa tích cực, "đi" để chỉ nghĩa tiêu cực nhưng cái ý chính vẫn cho là theo yêu ghét của chủ quan.

Một hôm mới đây, ông Ngô Quang Châu có đọc qua bản thảo, chỉ trích điều đó là không đúng, ông nói:

"Nếu có người đau bụng báng nói: Tôi ở mạn ngược, cái báng càng ngày càng to ra, mà từ ngày về Hà Nội, cái báng càng ngày càng nhỏ đi - thì "ra" không phải chỉ cái mình yêu và "đi" không phải chỉ cái mình ghét, mà trái ngược lại".

Tuy tôi nghĩ mãi chưa tìm ra được thêm một câu lệ chứng phản lại nào giống như câu ông Ngô Quang Châu đưa ra đó, nhưng chỉ một câu của ông không thể cãi được, tôi cũng phải chịu nhận sự chỉ trích của ông là đúng. Vậy tôi viết mấy lời này, xin xóa bỏ cái ví dụ đó dưới điều "Đặc điểm thứ hai theo yêu ghét của chủ quan".

Tôi đính chính lại rằng: Khi nói "ra" và "đi" như thế, không phải theo yêu ghét của chủ quan mà chỉ để chỉ nghĩa tích cực và tiêu cực.

(Hà Nội, 8-1-1955)


Hư tự trong Truyện Kiều

Sách ngữ pháp Trung Hoa có sách chia hết thảy những chữ trong các từ loại ra làm hai loại lớn: Một là thực tự, một là hư tự. Thực tự là những chữ thuộc về các loại như danh từ, động từ, hình dung từ, những chữ có hình thể thực tại hay là không có hình thể thực tại mà ta có thể gẫm thấy cái đối tượng của nó, như: bay, ta gẫm thấy đối tượng là con chim trên không; chạy, là con ngựa trên đường; lạnh là da đồng; nóng là hơi lửa. Còn hư tự là những chữ không cứ thuộc về từ loại nào mà đã không có hình thể lại không có đối tượng, như những chữ nếu, bèn, mà, ư... trong đầu ta không thể tìm cái gì để hình dung ra nó được cả. Vì lẽ đó, đem hai loại so sánh nhau, thực tự có ý nghĩa chắc chắn rõ ràng làm ta dễ hiểu hơn, hư tự có ý nghĩa bấp bênh mập mờ làm ta khó hiểu hơn.

Đã thế mà tiếng ta, khi nói thành lời, viết thành văn, những hư tự lại choán một phần công dụng lớn. Tiếng Pháp, danh từ có chia ra giống và số, động từ có chia ra cách và thì, gánh hết một phần nhiệm vụ quan trọng; nhưng tiếng ta không có thế, bao nhiêu nhiệm vụ ấy đều đổ trên đầu hư tự cả. Cho nên trong khi nói hay viết câu, mặc dầu những danh từ động từ trong đó dùng đúng cả, chỉ hư tự dùng sai đi một cái là cả câu hỏng hết.

Hư tự ở một địa vị trọng yếu trong tiếng ta như vậy, mà xưa nay bao nhiêu sách tự vị, tự điển giải nghĩa không được rạch ròi cặn kẽ, thành thử người ta có thể dùng lầm hay mỗi người dùng một cách, như "thà" và "chẳng thà" "biết đâu" và "biết đâu không", sự ứng dụng hầu như không một loạt in nhau. Một thứ tiếng nếu còn bừa bãi như thế, hẳn là khó mà tiến đến bậc hoàn mỹ được.

Dùng hư tự, theo tôi thấy, Truyện Kiều của Nguyễn Du dùng đúng hơn hết, ta nên lấy đó làm gương mẫu. Tôi bèn đọc hết cả cuốn truyện, gặp mỗi một hư tự thì lục riêng từng chữ ra với nhau, có chữ dùng năm ba lần hay mươi, mười lăm lần, có chữ dùng đến năm bảy chục lần. Xong rồi, tôi soát đi soát lại từng chữ, quy nạp nó vào một nghĩa hay mấy nghĩa và tìm thấy cái quy luật ứng dụng nó, lần lượt đem viết ra đây. Không dám nói mười phần đúng cả, đủ cả, nhưng ít nữa cũng dám nói mình làm một việc có căn cứ, không phải võ đoán hay ước chừng theo ý riêng. Trong bài này, bắt đầu đưa ra một ít chữ.

Bao, bây, bấy - Ai đã ở Nam Bộ, chắc có nghe người trong đó nói hai tiếng "bây dai". Khi mình hỏi họ về một vật gì dài bao nhiêu, họ vừa đưa hai tay lên để cách nhau một quãng nhất định, vừa nói rằng: "nó bây dai". Tôi khi mới nghe hơi ngờ ngợ, rồi cũng hiểu ngay vì nhờ có ra bộ. Nhưng hai tiếng ấy ở Trung Bắc không hề nghe thấy, làm mình phải ngẫm nghĩ tại sao họ lại nói như thế.

Ngẫm nghĩ một dạo lâu, tôi hơi thấy mối manh, bụng bảo dạ rằng: Người ta đã nói "bây dai" chắc còn có nói "bao dai" nữa.

Thì một lần khác, ở Hóc Môn, nghe một người đàn bà trong khi cầm một xấp vải ra cửa, ngoảnh lại hỏi chồng rằng: "Áo cắt bao dai?" Người đàn ông trả lời: "Dài bằng áo cũ". Tôi hiểu toạc cả và lấy làm đắc ý vì mình dè chừng mà đã quả trúng.

Không có gì lạ, "bao dai" nghĩa là dài chừng nào; "bây dai" nghĩa là dài chừng này.

Nhưng sao chữ "dài" trong hai câu vấn đáp ấy lại biến thành chữ "dai"? Lại phải ngẫm nghĩ một dạo lâu nữa mới nhận thấy rằng nó cũng như chữ "nhiều" biến thành chữ "nhiêu" trong khi nói "bao nhiêu" nghĩa là nhiều chừng nào, "bây nhiêu" nghĩa là nhiều chừng này. Chỉ biết được như thế, chứ còn tại sao nó phải biến, cái lý sở dĩ nhiên ấy đến bây giờ tôi vẫn chưa tìm thấy.

Hiểu đại khái như thế cũng chắc là đúng rồi, nhưng chưa thật đúng. Cuối cùng nhờ nghiên cứu những chữ "bao" "bấy" dùng độc chiếc trong Truyện Kiều mà tôi cắt nghĩa nó ra được một cách thỏa mãn.

Nói thật nhanh hay là nói theo lối phiên thiết thì "bằng nào" thành ra "bao", "bằng này" thành ra "bây", "bằng ấy" thành ra "bấy". Vậy thì "bao dai", "bây dai" tức là dài bằng nào, dài bằng này mà nói tắt đi; cũng như "bao nhiêu", "bây nhiêu" tức là nhiều bằng nào, nhiều bằng này mà nói tắt đi.

So sánh với tiếng ngoại quốc thì cái thuyết ấy in được lắm. Chữ Hán: "hà tất" thành ra "hạt", "bất khả" thành ra "phạ", "chi ư" thành ra "chư"; chữ Pháp: "du" thay cho "de le", "aux" thay cho "à les", "des" thay cho "de les", "au" thay cho "à le", thì tiếng ta có quyền làm "bằng nào" ra "bao", "bằng này" ra "bây", "bằng ấy" ra "bấy" lắm; và hà tiện cho ngôn ngữ như thế cũng là sự rất chính đáng ấy.

Đến đây xin cử ra những chữ ấy đã dùng trong Truyện Kiều: Chữ "bao" dùng độc chiếc, như:

  1. Trải bao thỏ lặn ác tà;
  2. Quản bao tháng đợi năm chờ;
  3. Trời Liêu non nước bao xa;
  4. Biết bao duyên nợ thề bồi;
  5. Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao.

Năm chữ "bao" đều dùng chữ "bằng nào" mà cắt nghĩa được cả. Câu 1, trải bằng nào ngày đêm; câu 2, đợi chờ đến bằng nào năm tháng; ba câu 3, 4, 5, xa bằng nào, thề bồi bằng nào, đội trên đầu bằng nào, đều có ý hỏi (interrogatif) để tỏ ra nghĩa là nhiều, không phải ít.

Phàm những chữ có ý hỏi như nào, đâu, bao (nhớ nó là bằng nào đấy nhé)... khi đi với một chữ nào có sức làm cho cái ý hỏi của nó càng mạnh lên thì nó thành ra cái ý "không" (négatif) hay là phủ định. Trong năm câu đó, câu 2, bao đi với "quản", có ý đợi chờ bằng nào cũng không quản; câu 5, bao đi với "xiết", có ý đội trên đầu bằng nào cũng không xiết: thành ra hai câu có ý phủ định. Vả lại, những chữ phủ định như thế có thể đảo ngược lại mà không đổi nghĩa. Xiết bao có thể là đảo là bao xiết, nhưng trong Truyện Kiều không có dùng; quản bao có thể đảo là bao quản, thì Truyện Kiều có câu "Búa rìu bao quản thân tàn", ý là không quản, cũng vẫn là phủ định.

Chữ "bây" dùng độc chiếc, như:

  1. Khéo vô duyên bấy là mình ta;
  2. Phũ phàng chi bấy hóa công;
  3. Trời làm chi cực bấy trời;
  4. Thân sao bướm chán ong chường bấy thân;
  5. Hoa sao hoa khéo đọa đày bấy hoa;

Năm chữ "bấy" ấy đều dùng "bằng ấy" mà cắt nghĩa được cả: vô duyên bằng ấy, phũ phàng bằng ấy, cực bằng ấy, chán chường bằng ấy, đọa đày bằng ấy. Bấy = bằng ấy ở đây tỏ ý thương tiếc hoặc trách móc, chẳng khác nào nói "đến nỗi thiếu ư", đều có thể cho một dấu chấm than.

Chỉ có chữ "bây" không hề dùng độc chiếc. Trong Truyện Kiều có một câu chữ bây: "Lão kia có giở bài bây", nhưng nghĩa khác.

Rồi đến đặt sau bao, bây, bấy một chữ làm thành liên tự để chỉ thời gian, như bao giờ, bây giờ, bấy giờ, bấy chầy, bấy lâu, bấy nay, trong Truyện Kiều dùng những liên tự ấy nhiều lần lắm. Tựu trung, bao giờ, bấy giờ, nghĩa nó có đại đồng, tiểu dị.

Bao giờ = bằng nào thì giờ, nói chung, nghĩa cũng như khi nào, lúc nào, nhưng khác nhau ở chỗ khi thi chỉ quá khứ, khi thì chỉ vị lai.

  1. Chỉ quá khứ như: Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ; Nhớ lời nói nhẫn bao giờ hay không.
  2. Chỉ vị lai như: Biết bao giờ lại nối lời nước non; Bao giờ mười vạn tinh binh.
  3. Dùng y nguyên cái nghĩa như khi nào, lúc nào, chứ không chỉ quá khứ hay vị lai, như: Mai sau dù có bao giờ; Nỗi nàng nhớ đến bao giờ. Làm chắc thêm sự nhận định này có câu Tưởng bây giờ là bao giờ, chữ bao giờ này không chỉ quá khứ vị lai, hay là muốn chỉ quá khứ, chỉ vị lai đều được cả.

Bấy giờ = bằng ấy thì giờ, nói chung nghĩa cũng như khi ấy, lúc ấy, nhưng cũng có đại đồng tiểu dị ở chỗ khi chỉ quá khứ khi chỉ vị lại như chữ bao giờ trên kia.

Bấy giờ, chỉ quá khứ được, như ta nói: "Bấy giờ tôi chưa để", nhưng trong Truyện Kiều không có dùng như thế lần nào. Truyện Kiều dùng nó trong ba trường hợp này:

  1. Chỉ vị lai, như: Bấy giờ ai lại biết ai, bấy giờ vượt biển ra khơi quản gì.
  2. Dùng y nguyên cái nghĩa như khi ấy, lúc ấy, không chỉ quá khứ vị lai gì cả, như: Thúc sinh trông mặt bấy giờ.
  3. Dùng đi theo "bao giờ" để hô ứng nhau, như: Bao giờ mười vạn tinh binh, tiếng loa dậy đất bóng sinh lợp đường, làm cho tỏ mặt phi thường, bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia, tuy chỉ vị lai, nhưng đã ứng với "bao giờ", chẳng khác nào nói "khi nào... khi ấy".

Bây giờ = bằng này thì giờ, Truyện Kiều có nhiều lần dùng, độc chỉ về hiện tại, không có gì khác, không cần cử lệ.

Bấy chầy = bằng ấy chầy, cũng như bấy lâu = bằng ấy lâu, nghĩa giống nhau; bấy nay - bằng ấy (thì giờ đến) nay: cả ba, trong Truyện Kiều đều có dùng nhiều lần, và không có gì lạ, cũng không cần cử lệ. Duy có điều này: hai chữ "bao", "bây" chỉ ghép được với chữ "giờ" để chỉ thời gian trong Truyện Kiều không có dùng "bao lâu" lần nào tuy nó cũng chỉ thời gian); mà chữ "bấy" ngoài với chữ "giờ" ra, còn ghép được với ba chữ nữa là "chầy", "lâu" và "nay", là điều đáng ghi lấy để tìm thấy cái lẽ sở dĩ.

Cuối cùng còn có hai liên tự "bao nhiêu", "bấy nhiêu", đã nát nghĩa nó ở trên rồi, thì Truyện Kiều dùng nó trong ba trường hợp:

  1. Sinh nghi xin dạy bao nhiêu cho tường; bao nhiêu của, mấy ngày đường; dùng độc chiếc, không đi với bấy nhiêu.
  2. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên; gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình: dùng độc chiếc, không đi với bao nhiêu.
  3. Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi: bao nhiêu đi đôi với bấy nhiêu, càng tỏ ra đúng với nghĩa đã nát: nhiều bằng nào, nhiều bằng ấy. (Bây nhiêu, ta thường nói, nhất là Nam bộ, nhưng Truyện Kiều không có dùng).

Đâu - Chữ "đâu", Truyện Kiều dùng đến năm sáu chục lần. Nhiều câu lục bát trong mỗi câu dùng đến hai chữ. Nó có thể chia làm mấy nghĩa khác nhau như dưới.

Đâu, chính nghĩa nó là ở chỗ nào, trong câu có nó thường cho được dấu hỏi. Truyện Kiều dùng nó theo nghĩa ấy như những câu này:

  1. Lòng đâu sẵn mối thương tâm;
  2. Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần;
  3. Sự đâu chưa kịp đôi hồi, duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ;
  4. Kiệu hoa đâu đã đến ngoài, quản huyền đâu đã giục người sinh ly;
  5. Duyên đâu ai dứt tơ đào, nợ đâu ai đã dắt vào tận tay.

Năm câu đó, chữ "đâu" đi với danh từ lòng, nhạc vàng, sự, duyên, kiệu hoa, quản huyền, duyên, nợ thì nghĩa nó là thế. Nhưng nó là chữ có ý hỏi, cho nên khi nó đi với một động từ, phó từ, hình dung từ nào có sức làm cho cái ý hỏi của nó càng mạnh lên thì nó thành ra có ý "không" hay là phủ định như trên đã nói về chữ "bao". Xem đây:

  1. Dạy rằng mộng triệu cứ đâu;
  2. Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi;
  3. Nghe thôi kinh hãi xiết đâu;
  4. Nguyên người quanh quất đâu xa,
  5. Hẳn ba trăm lạng kém đâu.

Năm câu đó, chữ "đâu" đi với động từ cứ, nghĩ, với phó từ xiết, với hình dung từ xa, kém, làm mỗi câu thành ra có ý phủ định: không cứ, không nghĩ, không xiết, không xa, không kém. Nhưng chỉ có ý thôi. Khi chữ "đâu" đi với một chữ có ý hỏi khác nữa, như chữ "gì", chữ "nào", lại càng làm bật lên cái ý phủ định rõ ràng, những câu ấy thành hẳn câu phủ định. Như:

  1. Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu;
  2. Trông theo nào thấy đâu nào;
  3. Cơ duyên nào đã hết đâu, vội gì.

Xem đó, chữ "đâu" đã do có ý hỏi dần dần thành ra có ý phủ định. Thật thế, ta đã dùng nó đi theo một chữ phủ định khác để làm cho cái ý phủ định càng gắt hơn. Như nói "không ăn đâu" thì ý phủ định gắt hơn "không ăn", "chẳng chịu đâu" thì gắt hơn "chẳng chịu", "chưa đi ngủ đâu" thì ý gắt hơn "chưa đi ngủ". Truyện Kiều cũng có vài lần dùng như thế.

  1. Lạ tai nghe chử biết đâu.
  2. Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.

Đến trình độ ấy, chữ "đâu" không còn có ý hỏi nữa, mà chỉ có ý phủ định, nó là "chữ phủ định".

Theo phổ ngữ pháp, trong câu dùng hai chữ phủ định thì ý câu thành ra khẳng định (positif) bất kỳ ngôn ngữ nước nào cũng thế.

Ở đây, ta có thể lập ra một cái luật được rồi: Chữ đâu phú định, khi nó đi theo sau một chữ phủ định khác thì nó làm cho ý phủ định của câu càng gắt hơn; nhưng khi nó đứng trước một chữ phủ định khác thì mới kể là hai phủ định làm thành ra kháng định để chỉ cái khả năng tính.

Cái luật đó, phân nửa trên đã thực hiện trong mấy ví dụ vừa kể; phần nửa dưới thì có căn cứ rành rành ở hai câu này:

  1. Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao.
  2. Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh.

Biết đâu chẳng là chiêm bao: là chiêm bao; đi đâu chẳng biết Sở Khanh: là biết. Hai câu đều là câu khẳng định để chỉ khả năng tính, rõ ràng lắm.

Thế mà thỉnh thoảng thấy trên báo hay sách có những câu đặt cách ấy để tỏ ý khẳng định mà chỉ dùng "biết đâu' chứ không có "không" hay "chẳng" theo sau. Như ông Trần Trọng Kim trong cuộc bút chiến về Nho giáo, có viết rằng: Khổng Tử học với Lão Tử, biết đâu cũng theo cái chủ trương "vô" của Lão tử (không đúng hẳn nguyên văn, nhưng cái chỗ hỏng của nó thì đúng hơn). Hơn hai mươi năm nay hôm nay tôi mới dám thò bút chữa lại cho ông thế này: Khổng Tử học với Lão Tử, biết đâu không theo cái chủ trương "vô" của Lão Tử: chữa chỉ một chữ thôi.

Dùng "biết đâu" mà không có "không" hay "chẳng" theo sau thì nó vẫn là câu phủ định, như:

  1. Biết đâu Hợp Phố mà mong Châu về;
  2. Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu;

Có làm sao cắt nghĩa được là biết Hợp Phố, biết địa ngục thiên đường?

Dầu, dẫu, mặc dầu - Theo chữ Nôm "dầu" viết bằng chữ "du" (chữ Hán) nghĩa là "dầu" (một chất lỏng), nơi thì đọc là dầu, nơi thì đọc là dù, nhưng hoàn toàn đồng nghĩa; còn chữ "dẫu" cũng đồng nghĩa với dầu, dù chỉ khác là khi nói "mặc dầu" thì chỉ nói được mặc dầu chứ không nói được "mặc dẫu".

Xét theo Truyện Kiều đã dùng thì dầudẫu là như vậy. Khác nhau một thanh bình một thanh trắc là chỉ để tiện cho khi làm vận văn cũng như đà, đã, chưa, chửa mà thôi; ngoài sự mặc dầu không nói mặc dẫu được thì hai chữ ấy vẫn đồng nghĩa.

Cũng xét theo Truyện Kiều, dầu hay dẫu cũng trong hai trường hợp khác nhau, mỗi trường hợp một nghĩa khác.

Một là dùng trong câu giả thiết:

Trước hết phải lấy làm lạ rằng trong Truyện Kiều không hề có chữ "nếu" một lần nào. Thì ra, bao nhiêu chỗ theo chúng ta bây giờ đáng nói "nếu" thì Truyện Kiều đều nói dầu hay dẫu cả. Hình như về thời đại Nguyễn Du, trong tiếng ta chưa có chữ "nếu" hay là có rồi mà chưa được thông dụng. Xem đây:

  1. Dẫu chăng xét tấm tình si;
  2. Lượng trên dầu chẳng dứt tình;
  3. Sau dầu sinh sự thế nào;
  4. Thế trong dầu lớn hơn ngoài;
  5. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.

Những câu như thế đều là câu giả thiết. Nghĩa là một sự, chưa biết nó có xảy ra hay không xảy ra, nhưng mình thử đặt ra một cảnh ngộ hoặc nó sẽ xảy ra, hoặc nó sẽ không xảy ra. Như câu 1, tấm tình si chưa biết có xét đến chăng, hẵng đặt ra một cảnh ngộ chẳng xét; câu 4, thế trong chưa biết có lớn hơn ngoài chăng, hẵng đặt ra một cảnh ngộ lớn hơn. Những câu giả thiết như thế tiếng Việt Nam ngày nay đều dùng chữ "nếu": nếu chẳng xét... nếu lớn hơn... nhưng Truyện Kiều đều dùng dẫu hay dầu. Vậy biết rằng cái nghĩa của dẫu hay dầu dùng trong trường hợp ấy tức là "nếu".

Một là dùng trong câu nhượng bộ, như những câu:

  1. Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ;
  2. Chị dầu thịt nát xương mòn;
  3. Dẫu bằng xương trắng quê người quản đâu;
  4. Dẫu sao bình đã vỡ rồi;
  5. Dẫu trong nguy hiểm dám dời ước xưa.

Những câu như thế này đều là câu nhượng bộ. Một sự, chưa biết nó xảy ra như thế nào, nhưng mình cho đi rằng nó sẽ xảy ra thế nọ hoặc thế kia và định trước cách đối phó. Như câu 1, cho đi rằng mái tóc có thay đi nữa, lòng tơ cũng không dời; câu 3, cho đi rằng xương trắng quê người cũng không quản. Nhượng bộ ở đây có nghĩa là: trong khi nói, cái ý mình lùi lại một bước, nhường cho cái sự đi quá một bước.

Trong tản văn, khi ta dùng chữ dầu hay dẫu ở trước thì thường có chữ cũng theo sau. Vận văn vì số chữ và âm điệu trói buộc nên có khi không đưa chữ cũng vào được, nhưng câu nào đã có dầu hay dẫu theo nghĩa nhượng bộ thì đằng sau nó đều hàm có ý chữ cũng cả. Như hai câu trên mới vừa nát ra thành tản văn, câu nào cũng phải có chữ cũng thì nghĩa mới đầy đủ.

Tuy vậy, Truyện Kiều không phải là toàn những câu không có chữ cũng đi theo dầu hay dẫu đâu, có nhiều câu có, như những câu này:

  1. Dầu khi lá thắm chỉ hồng, nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha;
  2. Dẫu là đá cũng nát gan lọ người;
  3. Dẫu sao cũng ở tay người biết sao;
  4. Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên;
  5. Dẫu rằng sông cạn đá mòn, con tằm đến chết cũng còn vương tơ;

Trong tản văn, ta hay nói "dầu muốn dầu không cũng...", "dầu sớm dầu muộn cũng...", trong một câu dùng chữ dầu hai lần và có chữ cũng theo sau, Truyện Kiều cũng có khi dùng như vậy: Phận hèn dầu rủi dầu may tại người, ta có thể thêm chữ cũng vào đó lắm: dầu rủi dầu may cũng tại người.

Nhân đó ta có thể nhận định rằng: chữ dầu hay dẫu ở trường hợp câu giả thiết với ở trường hợp câu nhượng bộ có sự phân biệt nhau tại chỗ này: trường hợp thứ hai thì có chữ cũng đi theo hoặc tỏ hoặc ngầm, mà trường hợp thứ nhất thì không có.

Đến chữ "mặc dầu". Nó cũng dùng trong câu nhượng bộ nhưng có ý khác một chút. Nó là bởi "dầu thế nào cũng mặc" mà nói tắt đi, chính trong nó đã có chữ cũng rồi, và có ý là "bất luận", không nói tới. Truyện Kiều có hai câu, nghĩa rõ ràng như thế:

  1. Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa;
  2. Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.

"Mặc dầu" dùng như thế gần giống như "mặc kệ". Lại cũng có khi dùng độc một chữ dầu thì nghĩa lại giống như chữ "mặc".

  1. Phận dầu dầu vậy cũng dầu;
  2. Dầu lòng biển rộng sông dài thênh thênh.

Câu 1, chữ dầu thứ nhất có ý nhượng bộ nhưng không nói hết ý, chữ dầu thứ hai lắp lại chữ thứ nhất và chữ "vậy" để chỉ cái ý còn hàm súc đó, chữ dầu thứ ba, nghĩa như chữ mặc. Theo phép viết cho đúng thì phải viết: "Phận dầu... dầu vậy cũng dầu", nghĩa là dầu cái phận có như vậy nữa cũng mặc. Câu 2, dầu lòng tức là mặc lòng.

Theo như trên, trong chữ "mặc dầu" vốn đã có ý chữ cũng; nhưng trong tản văn hiện thời, mặc dầu ở trên ta đã có dùng chữ "mặc dầu" rồi, ở dưới cũng dùng được chữ "cũng" nữa, như nói: mặc dầu trời mưa, tôi cũng cứ đi. Khi nói như thế, chữ "mặc dầu" cũng chỉ như một chữ "dầu" mà thôi.

Tóm lại, chữ dầu hay dù hay dẫu ở trường hợp thứ nhất giống như chữ "si" trong tiếng Pháp, ở trường hợp thứ hai giống như bien que hay quoi que, còn mặc dầu giống như quoi qu'il en soit.



Viết thêm về sau

Về chữ bao chữ bấy:

Trong bài này, về chữ bao, chữ bấy, tôi cho là bởi bằng nào, bằng ấy, mà nói tắt đi. Khi viết ra, tôi chỉ lấy lý mà đoán như thế. Không ngờ đến sau gặp được một cái chứng cứ rất sống, rất sốt dẻo.

Ngày 9-6-1950, là ngày thứ bảy, tôi đi có việc đến Dốc Điệp, chỗ cách Đại Từ ba cây số về phía Nam, không có chỗ nghỉ, gặp một ông già người Thổ (Tầy) đưa vào trong làng. Đến nơi, là nhà ông, nghe ông nói chuyện với người khác, có câu thế này: "Anh ta (chỉ người nào đó) tưởng bằng ấy lâu tôi tiêu số tiền đã hết rồi". Ấy là dùng bằng ấy lâu thay cho bấy lâu.

Lại ngày 5-3-1951, nghe ông Thuyền, chủ nhà tôi trọ tại Cảm Nhân, hỏi một anh thanh niên câu thế này: "Anh bắn nỏ bằng nào xa?". Ấy là dùng bằng nào xa thay cho bao xa.

Hầu hết người Thổ nói tiếng Kinh đều trôi chảy, chỉ có một vài giọng hơi khác. Có người nói tiếng Kinh, lại còn sành hơn người Kinh chúng ta. Nhưng theo tôi thấy đại khái thì họ nói tiếng Việt xưa, còn từ ngữ nào đã đổi mới thì họ chưa biết mà dùng đến. Ấy là nói về tiếng dùng thông thường, chứ những danh từ mới về chính trị v.v... thì họ có học có nghe diễn thuyết nên biết mà dùng được cả.

Bằng nào, bằng ấy là tiếng Việt xưa sau, đã đổi ra bao, bấy rồi, mà người Thổ còn cứ nói bằng nào, bằng ấy.

Gần nay tôi lại còn thấy ra chữ đâu, để thay cho đằng nào, chữ đây thay cho đằng này, chữ đấy thay cho đằng ấy, tuy chưa có chứng cớ, nhưng cũng chắc không sai. Nó cũng theo một công lệ "nói tắt" như bao, bây, bấy.

Hai việc trên, khi gặp được, tôi ghi lập tức. Về sau mới viết thêm vào đây.

(Tại Hán Đà, ngày 2-12-1951)



[1]Lê Cẩm: Quốc ngữ văn pháp.

Nguồn: Nxb Đà Nẵng, 1997