© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học Việt Nam
Loạt bài: 240 năm sinh Nguyá»…n Du (1765-1820)
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12 
2.12.2005
Nguyễn Huệ Chi
Trở lại câu chuyện so sánh Kim Vân Kiều truyện với Truyện Kiều của ông Đổng Văn Thành
2 kì
 1   2 
 
4. Với những thêm bớt của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Đổng Văn Thành tỏ ý không hài lòng, cho rằng Nguyễn Du đã đem chủ quan của mình vào, hạ thấp nhân vật của nguyên tác. Nhiều chi tiết ông Đổng Văn Thành chê bai, cứ chịu khó suy nghĩ chắc ông cũng có thể tự phản tỉnh, chẳng hạn việc Nguyễn Du tô đậm “dòng dõi thư hương” của gia đình Thúy Kiều ở một số tình tiết, theo ông là không đúng vì vào đầu truyện, tác giả đã giới thiệu đó là một gia đình “thường thường bậc trung”. Nhưng xin ông hiểu cho, truyền thống gia đình cổ xưa và cả hiện đại ở Việt Nam (và hẳn Trung Quốc cũng thế thôi), “thường thường bậc trung” không có nghĩa là thiếu nền nếp, thất học, trái lại phần lớn những nhân vật hiển hách về chữ nghĩa vẫn xuất thân trong các gia đình không giàu có song luôn luôn giữ được “nếp nhà” tức là nếp học hành lễ nghĩa mà ta có thể đổi cách gọi là “tầng lớp trung lưu” cho dễ hiểu. Phải bắt nguồn từ một gia đình thanh bạch có học thì nết na và tài năng của mấy chị em họ Vương mới làm người ta yêu mến, và mới có được những phẩm cách ưu trội của một Thúy Kiều làu thông cả thi ca nhạc họa, nhập thần đến mức “Tay tiên một vẩy đủ mười khúc ngâm”, “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”, được Hoạn Thư khen là “Ví chăng có số giàu sang/Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên”... chứ. Thêm nữa, về sau Vương Quan chẳng đỗ Tiến sĩ và làm quan to đấy sao. Bắt bẻ chữ nghĩa tiểu tiết như ông chẳng là quá câu nệ ư? Rồi việc Kim Vân Kiều truyện ghi thành phần của Kim Trọng là “chàng tú sĩ nhà giàu trong làng 里 中 富 家 秀 士” (Đổng Văn Thành giải thích rõ hơn là “con trai một tài chủ nhà quê”) nhưng Nguyễn Du lại đã biến cải chàng thành dòng dõi trâm anh, họ Đổng cho là vô lý, vì theo lôgic của ông, đã là nhà trâm anh thế phiệt thì sao khi gia đình họ Vương gặp nạn “nhà kia lại không đem tiền bạc, thế lực ra giúp bạn cũ mà đành trơ mắt nhìn họ Vương bán đứt con gái yêu của mình?” [1] . Đọc lại Truyện Kiều, chúng tôi đâu có thấy giữa hai nhà Kim-Vương từng có mối thâm giao bằng hữu. Thì ra, vì dựa vào bản dịch, ông đã hiểu câu thơ 153 “Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân” (bạn học thân thiết) thành ra “Hàng xóm nhiều đời giao hảo”. Cũng đành phải “thông cảm” với ngộ nhận của nhà học giả chứ biết nói sao. Nhưng không chỉ thế, Nguyễn Du còn cho Kim Trọng lên Bắc Kinh “du học” thì quê quán của chàng tuy không xa Bắc Kinh đi nữa, tất không phải ở ngay Bắc Kinh, trong làng nơi gia đình Thúy Kiều cư ngụ, như trong Kim Vân Kiều truyện. Mà quan hệ giữa Kim và Kiều dẫu đã thề nguyền hẹn ước song đâu có công khai cho hai gia đình biết; trong một tình thế khẩn cấp, chàng Kim lại đang đến Liêu Dương hộ tang chú, “sơn khê cách trở”, thời bấy giờ chưa có điện tín, hỏi làm cách nào báo tin cho chàng được để về cứu nạn Thúy Kiều? Vả chăng, đòi hỏi nhà họ Kim quý phái phải bỏ tiền ra cứu giúp nhà họ Vương chẳng hóa đâm ra lẩn thẩn, coi đường dây phát triển nội tại của tiểu thuyết cũng dễ dãi như truyện cổ tích thần kỳ, cứ ước gì được nấy, gặp cảnh ngộ không may là có người hiện ra giải thoát, cuối cùng bọn bất nhân bị đánh đổ, người phúc hậu được hưởng giàu sang, thì còn gì là tiểu thuyết? Vân vân... Từ một vài chi tiết bắt bẻ của Đổng Văn Thành, suy ra, họ Đổng chỉ muốn Nguyễn Du không được tham gia phần ý tưởng của riêng mình trong khi cải tạo lại cốt truyện mà ông phóng tác. Về phương pháp luận, cách nghĩ ấy khỏi phải nói cũng thấy là bất ổn. Sản phẩm nghệ thuật bao giờ cũng mang tính chủ quan của nhà nghệ sĩ trong khi nhìn thế giới, nó là bằng chứng cá tính sáng tạo của nghệ sĩ, để một nghệ sĩ thật sự tài năng khẳng định sự tồn tại của mình, không thể lấy một mẫu gốc nào đó ra để áp đặt cho cái đi xa mẫu gốc. Nguyễn Du không phải là típ nhà văn mà ông Đổng Văn Thành quan niệm.

Chính từ đây, chúng tôi muốn nói đến sự khác nhau trong xây dựng nhân vật giữa Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân. Nhìn chung, cuốn tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân được triển khai theo dòng tiểu thuyết đạo lý. Tính cách của nhân vật ngay từ đầu đã được định sẵn, mọi biến cố của cuộc đời chỉ làm cho tính cách ấy có dịp bộc lộ ra bằng hành động theo dạng này dạng khác, bằng ứng xử lúc cương lúc nhu tùy tình thế bắt buộc, bằng đối thoại thường khi là phát ngôn của tác giả nên không tự nhiên như ngôn ngữ của người trong cuộc, quá nhiều lý lẽ, và cũng rất dài lời. Tính cách đó không thay đổi, cũng không phải là thuộc tính có một không hai của những con người cá thể, mà là một tập hợp thang bậc theo loại của hai hệ thống đạo đức không điều hòa với nhau: một bên là những cái tốt, cái đẹp theo chuẩn mực chính thống của xã hội được thêm bớt, pha phách đậm nhạt chỗ này chỗ khác bởi nhà văn, và bên kia là những cái xấu xa, hèn mọn dồn đọng lại dưới đáy xã hội cũng được nhà văn loại hình hóa. Trình độ của tiểu thuyết đạo lý nói chung ít khi tạo nên được những nhân vật thực sống mà nhiều lắm cũng chỉ tạo nên những “tấm gương”, biểu tượng của từng loại hình đạo đức xã hội nào đấy. Người kể chuyện trong tác phẩm thường đứng bên ngoài nhân vật, chỉ đạo nhân vật vượt qua hết nạn nọ đến nạn kia để chứng tỏ cho độc giả thấy hạng người như Thúy Kiều là người giàu tài năng và đức hạnh, càng được “mài xát” thì càng sáng rỡ.

Mặt khác, tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân đồng thời cũng là kiểu tiểu thuyết truyện kể, rất ly kỳ ở tình tiết, ly kỳ đến độ nhiều chi tiết vẽ ra quá tỷ mẩn, ví dụ kể chuyện Vương Viên Ngoại bị bọn sai nha hành hạ thì tả rõ “bốn chân tay bị treo quặt lên, mặt và bụng ở phía dưới, trên lưng đè một hòn đá, ba trăm sáu mươi đốt xương, đốt đốt rời lìa, tám vạn bốn nghìn lỗ chân lông, thảy đều đổ mồ hôi, mặt mày tái mét” [2] . Tình tiết ly kỳ làm cho nhân vật càng phơi bày tính cách có sẵn bằng những hành vi cụ thể, nên trong truyền thống thưởng thức nghệ thuật của phương Đông xưa cũng có một sức hấp dẫn đáng kể. Dưới ngòi bút của Thanh Tâm Tài Nhân, Thúy Kiều là một con người rất chủ động. Trong cơn gia biến, nàng hầu như làm hết mọi việc. Nàng hoàn toàn tỉnh táo, chạy vạy khắp đây đó, lo vực dậy tinh thần cho em cho mẹ, lo bàn tính với đám sai nha, nhờ vả Chung Công để cứu cha cứu em ra khỏi vòng nước lửa, rồi kế đó dứt khoát bán mình, tự ngã giá cho đến khi được 450 lạng bạc mới ưng thuận, lại thăm dò gia thế Mã Giám Sinh để tính con đường làm lẽ sau này. Khi gặp được Từ Hải, nàng cũng chủ động dựa vào thế lực của Từ để trừng phạt kẻ thù và trừng phạt đến nơi đến chốn, không bỏ sót một ai, như quấn chiếu lại, đâm nát nhừ thân thể Bạc Hạnh “khiến người xem kinh hoàng muốn chết 觀 者 驚 得 半 死”, và sai trộn xương thịt của y vào cỏ cho ngựa ăn; lột sạch quần áo Hoạn Thư chỉ chừa một cái khố, quấn tóc lên xà nhà, cho hai cung nữ đánh đủ một trăm roi, “một người từ trên quất xuống, một người từ dưới quất lên, đánh cho như cá rơi than nóng, lươn phải nước sôi 一 個 從 上 打 下 。 一 個 從 下 打 上 。 打 得 如 鰍 落 灰 塲 。鱔 逢 湯 鼎”; dựng ngược Tú Bà lên, tẩm dầu thông từ chân đến cổ, căng người Mã Giám Sinh trên một cái giàn, nấu một vạc dầu nhựa thông sôi sục rồi cùng lúc đốt cây sáp người Tú Bà, dùng dao nhọn róc gân Mã Giám Sinh, lấy móc sắt lôi hết gân ra và dội nhựa thông sôi bỏng vào mình Sở Khanh, lóc từng mảng da mảng thịt của y cũng bằng móc sắt, “chỉ một chốc lát lóc sạch thân thể Sở Khanh, còn lại hình dạng một cục máu nhầy nhụa 那 消 半 個 時 辰 。將 楚 卿 割 得 赤 利 利 的 一 個 血 塊 模 樣”... Người đọc, nhất là người đọc bình dân vốn mê truyện dân gian, sẽ rất khoái trá, cảm phục trước tính cách tiết liệt của Thúy Kiều, một tính cách “đại trượng phu”, có “phẩm chất sát phạt, quyết đoán” [3] đúng như ông Đổng Văn Thành nhận định. Nhưng cũng phải nói đây là một kiểu tính cách tiết liệt được đẩy tới cùng, đoan chính cũng đoan chính cùng tột, ham muốn cũng ham muốn cùng tột, oán thù cũng oán thù cùng tột, không còn là một con người với tất cả những trở trăn hai ba phía, cao cả và hèn yếu, mạnh dạn và rụt rè, hăm hở và chán chường, lo toan và buồn nản... như ta thường gặp trong đời. Vì thế, khi ông Đổng Văn Thành cho rằng nhân vật Thúy Kiều là “một điển hình nữ tính giàu nội hàm tư tưởng” [4] , một hình tượng “cao hơn hẳn cuộc sống hiện thực và có ý nghĩa điển hình tương đối lớn” [5] , thậm chí một “tính cách hướng nội” [6] thì khó ai có thể đồng tình. Khái niệm “hướng nội” chỉ một nhân vật thường sống nhiều với thế giới bên trong. Xét toàn bộ Kim Vân Kiều truyện, tính cách Thúy Kiều không hề biểu hiện ở một chỗ nào khuynh hướng “quay vào” ấy. Nàng là người luôn luôn hành động, rất giỏi suy nghĩ, toan tính, đối thoại có lý có lẽ, nhưng hiếm có một lúc nào nàng tự đối diện với chính mình. Lỗi hiển nhiên không phải do nàng mà do tác giả, đúng hơn, do thời đại quy định. Nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ mới là nhân vật truyện kể, người kể chuyện trong tác phẩm chỉ mới đứng từ ngoài hay đứng từ trên để chỉ đường đi nước bước cho nhân vật, thủ pháp sử dụng độc thoại nội tâm chưa được biết tới, thì làm sao nói đến nhân vật hướng nội ở đây? Ngay chỉ một chỗ ở hồi thứ tư, tác giả tả Thúy Kiều trong cái đêm đầu tiên gia đình rơi vào khốn quẫn, nàng nằm mơ thấy Kim Trọng đang đuổi theo con ngựa chở mình đi, giấc mơ khá thú vị nhưng cũng chỉ gói gọn trong một ước vọng duy nhất: Kim Trọng bất thình lình trở về cứu nàng và gia đình nàng. Nói cho đúng, cũng có một số bức thư, tờ cung, và không ít bài thơ bài ca được tác giả xen vào trong trần thuật, thế nhưng chúng lại thường quá nặng về từ chương học nên không liền mạch với tình cảm nhân vật cho lắm, dường như là cách tác giả khoe tài văn chương của Kiều thì đúng hơn. Cho nên, nói hình tượng Thúy Kiều là “một điển hình tương đối lớn” “cao hơn hẳn cuộc sống hiện thực” có phải là đánh giá Thanh Tâm Tài Nhân đã đạt đến một chủ nghĩa hiện thực ở mức cao? Đánh giá thế nào là quyền của ông Đổng Văn Thành, còn chúng tôi thì cho rằng không thể đặt Kim Vân Kiều truyện cũng như Tam quốc diễn nghĩa, Tây du ký, Nho lâm ngoại sử... - là những tác phẩm được ông xếp vào hàng tiêu biểu, vượt trên Kim Vân Kiều truyện nhiều - vào phạm trù chủ nghĩa hiện thực được. Không phải cứ chủ nghĩa hiện thực mới là sáng giá, song đã nói đến chủ nghĩa hiện thực nhất thiết phải có những tiêu chí rõ ràng trong khắc họa tính cách, đặt vào những hoàn cảnh thích đáng cho tính cách ấy phát triển, chứ không thể muốn nói sao thì nói.

Trong xây dựng nhân vật, Nguyễn Du đã tham bác, kế thừa mặt mạnh của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng ông không đi theo hướng của Thanh Tâm Tài Nhân. Nhân vật của ông cũng có nhiều nét ước lệ, tượng trưng, vì bút pháp của nhà thơ trước sau không phải là hiện thực chủ nghĩa. Rất nhiều chi tiết rườm rà của Kim Vân Kiều truyện đã được Nguyễn Du lược gọn lại. Thi ca không cho phép kể lể rậm rạp đã đành, cái chính là giữa Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân có một khoảng cách trong khuynh hướng miêu tả nghệ thuật. Tuy thế, cũng không nên cạn nghĩ rằng cứ tượng trưng ước lệ là yếu tố tự sự nhất định phải yếu kém. Sự trần thuật của thơ khác với trần thuật của văn xuôi là ở chỗ, bằng thủ pháp tượng trưng ước lệ, nhiều khi thông báo nghệ thuật của thơ có giá trị liên tưởng cao hơn hẳn văn xuôi. Cũng vì cứ bám vào cách kể chuyện tỷ mỉ theo kiểu Thanh Tâm Tài Nhân mà ông Đổng Văn Thành tưởng lầm là hiện thực, ông đã dẫn ra một đoạn khá dài trong Kim Vân Kiều truyện kể chuyện Từ Hải giáp chiến với quân lính triều đình, thấy họ đùn đẩy nhau, Từ vừa “hét vang một tiếng như sấm rền” vừa một mình một ngựa xông lên vung búa chém đứt đầu viên phó tướng Không Hỗn và đuổi các tướng Bốc Tế, Cừu Nhiêu chạy dài... rồi so sánh với đoạn thơ Nguyễn Du mô tả chiến công của Từ Hải:

Câu 2439
Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài.
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.
Đòi phen gió táp mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi Nam

và nói dứt khoát rằng “tiểu thuyết nguyên tác phơi bày không nể nang và châm biếm chua cay sự bất tài của tướng soái quan quân” [7] , còn “dưới ngòi bút của Nguyễn Du, ưu thế áp đảo tuyệt đối quân đội triều đình của Từ Hải [vốn có trong Kim Vân Kiều truyện] bị giảm nhẹ rất nhiều” [8] . Chẳng lẽ lại phải giải thích để họ Đổng hiểu rằng lối đặc tả chiến trận giữa các tướng soái địch và ta, có hò hét, có vung kiếm vung đao, có khích bác chê bai bên địch, có chém băng đầu một vài đối thủ và cuối cùng có một bên thắng một bên bại như Kim Vân Kiều truyện tả đấy thì còn kém xa Tam quốc diễn nghĩa, giỏi lắm cũng chỉ như các “miếng tuồng” trên sân khấu kinh kịch, sân khấu hát bội của người Việt là cùng, làm sao sánh được với sáu câu thơ hàm súc ca ngợi không chỉ chiến công mà cả khí thế cuồn cuộn, uy danh lừng lẫy của Từ Hải của nhà thơ Việt Nam? Bút pháp ước lệ là thế, trúc chẻ ngói tan là đi đến đâu kẻ thù nát vụn đến đấy; binh uy ran như sấm thì còn gì chấn động và vang xa hơn được nữa; rạch đôi sơn hà là đã chiếm được cả một vùng rộng lớn đối trọng hẳn với triều đình; gió táp mưa sa là thế quân như trận bão Katrina vừa mới rồi đổ vào nước Mỹ, cái thế không cần phải vung giáo vung gươm mà đạp đổ năm tòa thành dễ như trở bàn tay. Nguyễn Du không mô tả cụ thể tình cảnh luống cuống của quan quân trong khi đối phó với Từ Hải nhưng chỉ bằng bấy nhiêu mỹ từ hoán dụ và ám dụ người đọc cũng đã dư sức hiểu đội quân nhà vua hèn nhát và thất bại như thế nào rồi, cần gì phải thêm một vài lời châm biếm mới đủ tăng sức nặng cho uy thế của họ Từ.

Một chỗ khác, ông Đổng Văn Thành còn kỳ công trích dẫn cả một đoạn dài không kém để làm bằng chứng cho hình tượng Từ Hải “ôm chí lớn ngút trời” trong Kim Vân Kiều truyện: “Có một hảo hán họ Từ tên Hải, hiệu là Minh Sơn hòa thượng, người đất Việt đến chơi. Người này có lòng ưu ái, phóng khoáng đại lượng, ôm chí lớn lao, coi giàu sang nhẹ tựa lông hồng, xem người bằng vai như cỏ rác. Khí tiết hơn hẳn người cùng lứa, cao lớn hùng vĩ trùm đời, hiểu rõ lược thao, giỏi giữ ngay thẳng. Thường nói: “Trời cho ta tài năng ắt cho ta sử dụng. Hữu tài vô dụng là trời phụ ta vậy. Nhược bằng hoàng thiên phụ ta thì ta cũng phụ lại hoàng thiên. Đại trượng phu ở đời phải làm sao cho được lỗi lạc, lập được những sự bất hủ trên đời, sao có thể chết già bên cửa sổ như những kẻ sống vì miếng ăn? Còn nếu có tài mà vô mệnh, anh hùng không có đất dụng võ, không để lại được tiếng thơm cho trăm đời thì phải tự mình tạo ra mệnh. Khinh suất gây binh đao nơi ngòi đầm chỉ tổ để lại nỗi sỉ nhục đến vạn năm. Nếu không được như thế thì bầu nhiệt huyết trong người này làm thế nào sử dụng được?” Hồi nhỏ học hành nhưng không thành đạt bèn bỏ đi buôn, của cải sung túc, thích kết giao với bạn bè” [9] . Trích xong, ông đem so sánh với đoạn Nguyễn Du mô tả Từ Hải trong Truyện Kiều mà theo ông, từ một người “chí lớn ngút trời” đã bị “thay đổi thành võ sĩ giang hồ lưu lạc khắp nơi”:

Câu 2165
Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi.
Râu hùm hàm én mày ngài,
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Đội trời, đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng

Về phần chúng tôi, cân nhắc giữa cả hai đoạn, chúng tôi thấy dụng ý của hai nhà văn có chỗ khác nhau. Giới thiệu Từ Hải, Nguyễn Du trước tiên chưa muốn để lộ thân thế của Từ mà hãy để Từ đột ngột hiện ra với diện mạo và phong thái một con người phi phàm, gây một ấn tượng đặc biệt cho cả Thúy Kiều và người đọc. Chỉ bằng mấy câu thơ ước lệ ông đã làm điều đó hết sức thành công. Để cho hình tượng của Từ càng được thăng hoa, nhà thơ không chịu trần tục hóa người anh hùng thành kẻ đi buôn như Kim Vân Kiều truyện, vì đi buôn thì có khác gì Thúc Sinh là người “quen thói bốc rời”, Kiều đâu có lạ. Ông cấp cho họ Từ một hành tung đi mây về gió, một con người đầy lãng mạn, nâng cao thêm trí tưởng tượng của độc giả: “Giang hồ quen thú vẫy vùng/Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo”. Về phần Thanh Tâm Tài Nhân, nhà văn lại làm ngược với những thao tác của Nguyễn Du. Ông không bận tâm gì nhiều đến hình dạng, cốt cách của Từ Hải (đó cũng là đặc điểm chung dễ thấy ở tất cả mọi nhân vật khác trong Kim Vân Kiều truyện), nhưng chỉ sau vài câu vào đề ngắn gọn, ông cho Từ nói ra một lời bộc bạch chí khí, tỏ ra mình luôn ôm ấp trong lòng ý muốn “vá trời lấp biển”. Hiềm nỗi, câu nói đầy khí phách, ý tứ tiền hô hậu ủng kia lại không phải là diễn ngôn “sống” của một Từ Hải bằng xương bằng thịt, chỉ là lời nói lặp lại trong sách vở, kể từ Mã Viện đời Hán cũng đã nói không khác là bao, nên trở thành một thứ văn lắp ráp khuôn sáo, nghe ra vẫn có vẻ “phường tuồng”, cũng giống như đoạn tả cảnh Từ đánh nhau với quan quân mà họ Đổng đã soát xét kỹ càng mới chọn trích. Điều kỳ hơn nữa là tiếp ngay sau lời bộc bạch, nhà văn nói toẹt luôn nghề nghiệp của Từ Hải là “học hành dang dở nên đành bỏ đi buôn, của cải sung túc, thích kết giao bầu bạn”. Thế thì những lời “thổ lộ can tràng” của Từ cũng chưa có gì làm bằng cứ, mới chỉ nằm trong mộng ước mà thôi. Về mặt nghệ thuật, một cách “tỏ chí” ồn ào kiểu đó làm sao thể hiện được khí phách vừa ngang tàng vừa tự nhiên bằng một cái vẫy tay và một lời nói đầy tự tin của chàng Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du khi đứng trước Thúy Kiều: “Lại đây xem lại cho gần/Phỏng tin được một vài phần hay không”. Có cần tự giới thiệu gì nhiều về mình đâu, song chỉ một cử chỉ thế là đủ chứng tỏ con người ấy rồi đây sẽ làm nên một sự nghiệp kinh thiên động địa.

Xin nói thêm, cũng do không chú ý đến ước lệ thi ca, khi đọc câu thơ “Một tường tuyết trở sương che” ông Đổng Văn Thành tưởng là Nguyễn Du đang tả cảnh mùa đông thật, liền chê nhà thơ tả sai thời tiết [10] , có biết đâu đấy cũng là một biện pháp tu từ để nói về những ngăn trở do phép nhà nghiêm ngặt khiến Thúy Kiều và Kim Trọng chỉ sống cách nhau một bức tường mà không biết được tin nhau: “Tin xuân đâu dễ đi về cho năng”. Không nắm được ngôn ngữ tượng trưng của thi ca thành ra cứ lâm tình trạng “ông chằng bà chuộc”, âu cũng là một nỗi khổ tâm trong đối thoại với ông.

Nhưng ước lệ trong xây dựng nhân vật không ngăn trở Nguyễn Du có những đổi mới thật sự trong khi tiếp thu Thanh Tâm Tài Nhân. Nhà thơ đã chuyển đổi có ý thức loại hình tiểu thuyết đạo lý sang loại hình tiểu thuyết tâm lý. Các nhân vật của Truyện Kiều không phải là cái cớ để Nguyễn Du thuyết minh một quan niệm về đạo đức, mặc dù ở cuối truyện ông có nói “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Bút lực của nhà thơ giúp họ sống giữa cuộc đời như những con người chịu mọi xô đẩy của hoàn cảnh thực, trong đó có các biến thái của quá trình tâm lý bên trong. Không những ông hơn Thanh Tâm Tài Nhân trong việc tìm kiếm các dạng thái tinh tế của độc thoại nội tâm, dường như người kể chuyện trong thơ ông cũng không đứng ngoài nhân vật mà có lúc nhập thân vào nhân vật, từ phía trong nhân vật mà phát ngôn; không đẩy nhân vật đi theo phác đồ định sẵn mà tự nhân vật “ma đưa lối quỷ dẫn đường” vô thức tìm lấy. Thúy Kiều gặp Kim Trọng, “Người quốc sắc kẻ thiên tài/Tình trong như đã mặt ngoài còn e”, đấy mới là thông báo khách quan của người kể chuyện, nhưng “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê/Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn” thì đã là hoạt động tâm lý xẩy ra ngay trong thời khắc hiện tại của cả đôi bên, người kể chuyện đã đứng ở điểm nhìn bên trong nhân vật mà nói. Trong cuộc hội ngộ giữa Kiều-Kim bên nhà Kim Trọng, tình yêu cũng theo tâm lý mà thay đổi. Lúc đầu Kiều còn nói những lời kiểu cách, tỏ ra nàng còn e ngại: “Nàng rằng: Trộm liếc dung quang/Chẳng sân ngọc bội cũng phường kim môn”. Kim Trọng cũng hứa một cách kiểu cách không kém: “Ví dù giải kết đến điều/Thì đem vàng đá mà liều với thân”. Nhưng rồi sau một ngày trò chuyện không dứt, cả hai đã bước được một bước rất dài, mọi e dè lo lắng không còn, tâm trạng giữa đôi bên thật sự cởi mở: “Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng”. Lời thông báo này cũng không còn là lời thông báo bên ngoài mà đã nằm ngay trong nhân vật. Kiều quay về nhà, thấy cha mẹ chưa về, lại “xăm xăm băng lối vườn khuya” trở sang. Nhìn thấy Kim Trọng đã thiu thiu ngủ trong khi mình vẫn một lòng một dạ vì yêu, nàng không khỏi có chút hờn dỗi: “Bây giờ rõ mặt đôi ta/Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”. Người kể chuyện đến đây tế nhị ẩn hẳn đi, để cho nhân vật tự phơi trải lòng mình. Cho đến sau khi hai bên đã thề nguyền, Kiều đã đánh đàn cho Kim Trọng nghe, không còn chút mặc cảm nào giữa trai tài gái sắc, người kể chuyện lại xuất hiện trở lại, thông báo tiếp một bước biến đổi tâm lý cao hơn: “Hoa hương càng tỏ thức hồng/Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu”...

Quả là với quan niệm tính cách được biểu hiện thông qua các trạng thái tâm lý, Nguyễn Du đã không cố định hóa tính cách nhân vật như Thanh Tâm Tài Nhân. Ông Đổng Văn Thành thắc mắc: vì sao nàng Kiều trong Truyện Kiều đối với Thúc Sinh và Từ Hải vẫn nặng tình như đối với Kim Trọng, mà lẽ ra theo đúng nguyên tác Kim Vân Kiều truyện, “Thúy Kiều chỉ thực sự yêu có một mình Kim Trọng, còn đối với Thúc Sinh và Từ Hải thì chủ yếu chỉ cảm cái ơn họ chuộc mình ra khỏi lầu xanh” [11] . Đây cũng chính là lý do khiến ông chê nhiều đoạn trữ tình ngoại đề của Nguyễn Du “đã làm tổn hại đến sự hoàn chỉnh và thống nhất của nhân vật” mà ở trên chúng tôi nói phần sau sẽ xin lý giải [12] . Bây giờ đã đến lúc có thể nói rõ: Nguyễn Du không hề buộc chặt nhân vật Thúy Kiều vào một thứ “phẩm tiết kiên trinh” như Thanh Tâm Tài Nhân. Được Hoài Thanh coi là người “đi guốc trong ruột nhân vật”, Nguyễn Du hiểu hơn ai hết mối tình với Kim Trọng dầu sao cũng chỉ là mối tình đầu của Kiều. Với thời gian xa cách chừng ấy năm, lại trải biết bao nhiêu bầm dập, trong tâm lý Kiều ví thử vẫn cứ còn giữ nguyên vẹn tình cảm với Kim Trọng như thuở nào để suốt ngày mình dằn vặt mình thì thật ít ai hiểu nổi. Chúng tôi khác ông Đổng Văn Thành, không thể nào coi Kim Vân Kiều truyện là một tác phẩm hiện thực, một phần cũng chính vì lẽ ấy. Nhưng Nguyễn Du thì mới đúng là một ngòi bút hiện thực tâm lý, khi ông cho nàng Kiều nhớ đến Kim Trọng như nhớ đến một kỷ niệm cũ, không còn thắm nữa nhưng vẫn chưa phai: “Xót thay chút nghĩa cũ càng/Dẫu lìa ngó ý còn vương tấc lòng”. Nguyễn Du cũng không thể buộc Thúy Kiều hờ hững với Thúc Sinh vì trong hoàn cảnh đang sống dưới địa ngục trần gian của nhà mụ Tú Bà, Thúc Sinh không chỉ là người phò nguy cứu nạn, mà còn là con người hết sức đa tình, đã hiến dâng cho nàng cả tâm hồn và của cải, cả tình yêu “đá vàng” lẫn tình yêu xác thịt: “Miệt mài trong cuộc truy hoan/Càng quen thuộc nết càng dan díu tình”. Kiều giờ đây không còn ở cái tuổi cài trâm e lệ như thuở mới yêu Kim Trọng. Nàng đã thất thân với Mã Giám Sinh rồi với Sở Khanh, lại đã lăn lóc chốn lầu xanh, mùi đời đã trải. Bắt nàng cứ thờ ơ lạnh nhạt trước một mối tình chứa chan hạnh phúc như của chàng Thúc e chỉ là giả dối nếu không là ngốc nghếch về tâm lý. Thế nhưng mối tình của Thúy Kiều đối với Thúc Sinh, cũng như sau này đối với Từ Hải, vẫn khác mối tình đầu giữa nàng với Kim Trọng. Một bên e ấp, trong sáng, thuần túy tình yêu platonique, một bên dạn dĩ, tỉnh táo, vừa là ơn nghĩa, vừa biết tính toán thiệt hơn, nên tuy có nhớ nhung: “Cầm tay dài ngắn thở than/Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời” vẫn đinh ninh những chuyện rất thực tế: “Đôi ta chút nghĩa đèo bòng”. Cũng vậy, với Từ Hải, người đã cứu mình khỏi chốn bùn nhơ một lần thứ hai, lại giúp mình đền ơn trả oán phân minh, cho mình được sống những ngày hả hê nhất, mà nói Kiều lấy Từ không phải vì tình thì dễ chỉ có Thanh Tâm Tài Nhân mới nghĩ ra được, và cũng dễ chỉ có Đổng Văn Thành mới coi đó là một “tính cách nhất quán” đáng trọng của nàng Kiều. Kiều của Nguyễn Du phát triển theo xu thế tâm lý cuộc đời thực đã không thể làm như vậy. Nàng yêu Từ Hải với tấm lòng của người tri kỷ: “Khen cho con mắt tinh đời/Anh hùng đoán giữa trần ai mới già”, cũng là với cái nghĩa của người chịu ơn sâu nặng: “Thưa rằng lượng cả bao dung/Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”. Vì thế nàng vẫn dành cho Từ Hải một góc trong trái tim thương nhớ sau khi đã hồi tưởng hết cha mẹ, các em, đến người tình cũ:”Cánh hồng bay bổng tuyệt vời/Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”. Không thể nói với những mối tình gắn bó sau này, Kiều đã tự đánh mất mình, như cách nói “làm tổn hại đến sự hoàn chỉnh và thống nhất của hình tượng nhân vật” của Đổng Văn Thành. Chính Kim Trọng là người hiểu rất rõ tâm hồn của nàng trước sau vẫn toàn vẹn: “Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”. Đặt vấn đề “tính nhất quán” của tính cách Thúy Kiều không trên cơ sở nhìn sâu vào những va động của hiện thực đã vùi dập nàng xuống tận bùn đen và nàng đã phải chống trả bằng mọi cách để tìm đường sống, tình cảm cũng ba chìm bảy nổi, có lẽ về mặt thấu tình đạt lý còn thua cả một người chỉ biết sách vở mà ít trải đời như Kim Trọng. Đó là vấn đề thứ tư chúng tôi thấy bất cận nhân tình trong lập luận của ông Đổng Văn Thành.

5. Sau tất cả những lời chỉ trích Truyện Kiều nặng nhẹ tùy lúc tùy nơi, ông Đổng Văn Thành dồn sự phê phán của mình vào một mục tiêu lớn nhất: ông “kết tội” Nguyễn Du đã xuất phát từ lập trường giai cấp quý tộc của bản thân mà có những “xuyên tạc và xóa nhòa mối quan hệ đối lập giai cấp” vốn rất rõ trong Kim Vân Kiều truyện. Ông đưa ra khá nhiều “thiết chứng”: a. Kim Vân Kiều truyện nói việc bán mình của Thúy Kiều là do “bọn cướp bị bắt câu kết với quan lại” “bóp nặn bức hại gia đình họ Vương mà sinh ra”, thế mà nhà thơ lại “sửa thành thằng bán tơ”, biến câu chuyện “đòi đút lót” vốn là “hành động tàn bạo của lũ công sai và người đầu bọn” thành một “việc nghĩa” của ông lại già họ Chung: “Cũng trong nha dịch lại là từ tâm/Thấy nàng hiếu trọng tình thâm/Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay/Tính bài lót đó luồn đây/Có ba trăm lạng việc này mới xuôi[13] ; b. Đem việc Hoạn Thư vả miệng bẻ răng hai tên gia nô mách lẻo tiêu biểu cho hành động “áp bức giai cấp” đổi sang vả miệng bẻ răng hai người quen chỉ còn thuần ý nghĩa ghen tuông [14] ; c. Ngay hai tên Ưng, Khuyển, trong nguyên tác gọi rất rõ là Hoạn Ưng và Hoạn Khuyển để “ngụ ý chúng là lũ ưng khuyển của nhà quan” mà Nguyễn Du cũng đang tâm bỏ mất chữ “Hoạn” ở đầu, “làm mờ nhạt hàm nghĩa phê phán thân phận chó săn cho kẻ quyền quý của chúng” [15] ; d. Nguyễn Du còn “giảm tội” cho mụ mẹ Hoạn Thư và Hoạn Thư bằng thủ pháp miêu tả giảm đẳng hành vi thâm độc của họ đối với nàng Kiều; bà mẹ không “đánh nàng đến máu chảy trôi chày” (“Hai bên thị nữ dạ ran, tức thì vật Thúy Kiều xuống đất, người giữ tay để đánh vào tay, người giữ chân để đánh vào chân, kẻ đè đầu để đánh vào đầu, một người át giọng quất đánh, một người quỳ xuống ghi số. Một gậy vụt xuống Thúy Kiều kêu lên một tiếng, mông đít như lửa đốt, hồn xiêu phách tán. Cái gậy tre vô tình kia cứ dồn vào một chỗ, chỉ dăm ba gậy thì Thúy Kiều đã nứt da bật máu” [16] ) mà chỉ truyền đánh ba chục roi; cô con cũng không dọa nàng một cách hùng hổ: “Nếu mày còn loanh quanh giấu giếm nữa, ta sẽ cho mày một trận đòn ở đây đã, rồi tống cổ trả mày về bên cụ lớn đánh cho kỳ chết” [17] , lại không trực tiếp đứng ra tra vấn nàng về lai lịch mà để cho Thúc Sinh tra hỏi, và khi nghe đến tiếng đàn tuyệt kỹ của nàng thì lại “Khôn uy dường có bớt vài bốn phân[18] ; đ. Nhưng tệ hại nhất là ở đoạn báo ân báo oán của nàng Kiều, một dịp “trả thù giai cấp” rất đắc địa thì Nguyễn Du lại “nhẹ nhàng bỏ qua Hoạn phu nhân, căn bản không hề cho người đi bắt mụ đó” [19] . Riêng “đối với “thủ phạm” bức hại Thúy Kiều là Hoạn Thư, Nguyễn Du lại cũng khoan dung, để cho lọt lưới: ... Tha ra thì cũng may đời/ Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen/ Đã lòng tri quá thì nên/ Truyền quân lệnh xuống trướng tiền thả ngay”. Đến nỗi “lần bị điệu đến này, Hoạn Thư chẳng những không xây xát một mảy lông mà còn nhờ chồng là Thúc Sinh được thơm lây. Hai vợ chồng nhận “gấm trăm cuốn bạc nghìn cân” của Thúy Kiều trả ơn Thúc Sinh, chở nặng mà về” [20] . Ông Đổng Văn Thành phân tích “khuyết điểm” của Nguyễn Du ở phần cuối cùng này rất sát sao, chặt chịa: “Sở dĩ Nguyễn Du viết như thế đương nhiên xuất phát từ sự đồng tình với những nhân vật thuộc giai cấp quý tộc là giai cấp xuất thân của mình. Ông đã tìm mọi cách che đậy cho tội áp bức của giai cấp ấy, sửa chữa cuộc đấu tranh giai cấp nghiêm túc đó thành cuộc tranh chấp thuần túy giữa vợ cả vợ lẽ ghen tuông với nhau trong gia đình. Thúy Kiều đòi hỏi trả thù nhưng khi thấy kẻ thù thì lại khâm phục tài ăn nói và khen ngợi cô ta biết sửa lỗi lầm” [21] . Sau hết, ông dành cho Nguyễn Du một lời “kết án” nghiêm khắc: “Cách cải biên ấy rõ ràng đã bóp méo, xuyên tạc nghiêm trọng nội dung có tính chính trị sâu sắc của nguyên tác” [22] .

Về nhiều chi tiết Đổng Văn Thành “mời ra” làm đối chứng trước “tòa án văn chương” do ông thụ lý, phải nhắc lại, ông lại rơi đúng vào cái vòng “bất kham” của chữ nghĩa mà chúng tôi đã gọi là “ông chằng bà chuộc” ở một phần trước. Câu chuyện thằng bán tơ chẳng hạn, thì giữa Kim Vân Kiều truyện nào có thấy khác gì Truyện Kiều? Kim Vân Kiều truyện nói thằng bán tơ vốn là ăn cướp giả danh, trọ trong nhà ông dượng, khi bị bắt thì khai liều, liên lụy đến gia đình ông dượng và cả gia đình Vương Viên Ngoại bấy giờ đang ăn giỗ ở đấy. Nguyễn Du cũng chỉ nói “Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ”, ta hiểu thằng bán tơ là đầu mối, chứ nhà thơ có đổ tất cả tai họa của gia đình Kiều cho thằng bán tơ đâu. Xem lại các bản Kim Vân Kiều truyện hiện lưu giữ tại Việt Nam, chủ yếu là bản do Quán hoa hiên tàng bản (A.559) chúng tôi không thấy có đoạn sau đây được ông Đổng Văn Thành dẫn xuất: “Dương Binh mã thuộc Ty Binh mã trong thành chỉ dựa vào lời phạm nhân khai là có dính dáng đến Vương Viên Ngoại, không cần xét thật giả đã lập tức lợi dụng khẩu cung gian dối này làm cớ, sai ngay bảy tám tên sai nha xông vào nhà họ Vương vơ vét của cải, dùng cực hình tra hỏi” [23] . Phải chăng nói như Nguyễn Đăng Na, có hai loại văn bản Kim Vân Kiều truyện khác nhau, loại in từ trước thế kỷ XX và loại in từ thế kỷ XX về sau, trong đó, loại thứ hai như “các bản do Đinh Hạ hiệu điểm hoặc bản do Xuân phong văn nghệ xuất bản... về cơ bản cũng gồm 20 hồi như các bản Quán hoa hiên, Đại Liên [in trước thế kỷ XX]... nhưng dài hơn, có nhiều chi tiết hơn” [24] , “điều này tạo nên sự phức tạp, thậm chí rối loạn khi nghiên cứu so sánh giữa Đoạn trường tân thanh [Truyện Kiều] với Kim Vân Kiều truyện[25] . Duy trong trường hợp đang bàn thì chẳng phải vì Nguyễn Du dựa vào một bản thuộc loại thiếu nhiều chi tiết (do ông sống trước thế kỷ XX không được tham khảo các bản đầy đủ in về sau) mà đi đến “rối loạn nhận định” như ông Đổng Văn Thành. Nguyễn Du vẫn lên án quan lại sai nha gay gắt đấy chứ:

Câu 575
Hàn huyên chưa kịp dãi dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước kẻ tay đao,
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,
Một dây vô lại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung cửi, tan tành gối may.
Đồ tế nhuyễn của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham

Thậm chí, nhà thơ còn châm biếm bọn chúng sâu cay nữa là khác:

Câu 997
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền

Trong yêu cầu cô đúc của nghệ thuật thi ca, thiết tưởng thế là quá đủ, còn nếu thấy liều lượng “chưa đã” thì... cũng đành phó mặc sở thích riêng của mỗi người, miễn ta chấp nhận với nhau không phải Nguyễn Du cố tình giảm nhẹ tội cho đám công sai. Có điều, trong bọn “đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi” ấy lại nẩy ra một Chung Công (Chung công sai = Chung Sự) có tấm lòng từ ái. Việc vòi vĩnh ba trăm lạng, theo Kim Vân Kiều truyện đúng là do bọn lính tráng đến nhà Vương Viên Ngoại đề xuất trước. Nhưng chính Thanh Tâm Tài Nhân cũng khẳng định vai trò quyết định của Chung Công trong việc tính liệu “lót đó luồn đây” với ba trăm lạng bạc đó: “Già Chung này tuy làm việc chốn quan nha nhưng suốt đời ăn chay, việc gì làm được mới làm, việc gì không làm được thì nhất quyết không dám làm xằng [...]. Đồng tiền của cô là đồng tiền thế nào mà tôi dám phung phí. Ba trăm lạng bạc này hãy để ở nhà tôi, tôi đưa hai ông con nhà đến tận mặt quan, xin giấy chiếu làm chứng cho nhà cô được vô can, rồi sau mới đem tiền đến. Gặp mấy tên cướp, tôi sẽ bảo rõ không được vướng đến nhà cô, rồi cho chúng một số. Còn bọn chúng tôi có mười người đầu mục liên quan đến tra xét vụ này, tôi sẽ chia bạc cho họ, và bảo cho họ biết việc ở nhà họ Vương do tôi đảm bảo, nếu có hơi tăm gì ở nha môn thì nhờ họ che giấu” [26] . Thanh Tâm Tài Nhân còn để cho Chung Công ân cần giúp đỡ Thúy Kiều nhiều việc trong những ngày gia đình nàng bấn loạn, và vào hôm nàng cùng Mã Giám Sinh về Lâm Truy, chính Chung Công đã đến tận trường đình đưa tiễn, mở một tiệc nhỏ thết hai người cùng gia đình họ Vương rồi mới ra về. Nguyễn Du không chủ tâm biến Chung Công từ người xấu thành người tốt (hay ngược lại) khác với Kim Vân Kiều truyện; nếu việc ấy là có lỗi, xin ông Đổng Văn Thành cứ trách cứ Thanh Tâm Tài Nhân.

Cả việc Nguyễn Du gọi hai tên gia nô của Hoạn Thư là Khuyển, Ưng chứ không gọi dài dòng là Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển có lẽ một phần cũng do sự ràng buộc của câu thơ lục bát: “Sửa sang buồm gió lèo mây/Khuyển Ưng lại chọn một bầy côn quang”. Một phần nữa, dùng hai chữ Khuyển và Ưng vừa đủ nói rõ thú tính của hai kẻ tay sai vừa hàm ý chúng là chó săn chim mồi của họ Hoạn, thế thì bỏ tiền tố “Hoạn” trong tên của chúng không có hại, mà đưa vào thơ đôi khi lại giảm ý vị, có thể bị coi là “bới bèo ra bọ” cũng nên. Một nhà thơ như Nguyễn Du tất biết “bỏ” và “lấy” như thế nào thì mới thích hợp với ngôn ngữ của thơ.

Một tình tiết nữa là việc Hoạn Thư bẻ răng hai tên mách lẻo. Đấy là hai tên gia nô hay hai người quen của họ Hoạn thì cũng đều chứng tỏ uy thế gớm ghê của cô con gái viên quan Bộ Lại, xét cho cùng cũng đều là “áp bức giai cấp” như ông Đổng Văn Thành nói cả. Mà bẻ răng hai tên gia nô là chuyện trong nhà họ Hoạn, thời Trung cổ các gia đình quyền quý Trung Hoa làm việc đó nào có gì lạ, có khi họ còn gây nhiều tội ác tày trời nữa ấy chứ, bẻ răng vẫn còn là quá nương tay. Song đến người quen mà cũng đè nghiến ra bẻ răng thì cái hành vi hống hách của cô gái họ Hoạn này mới thật là quá quắt. Thử hỏi giữa Thanh Tâm Tài Nhân và Nguyễn Du, ai xử lý tình tiết thâm trầm hơn ai?

Tuy nhiên, điều chúng tôi mong muốn bàn với ông Đổng Văn Thành ở phần cuối cùng này vượt lên trên những sự tranh cãi lặt vặt về tình tiết. Qua những ý kiến đánh giá của ông về Kim Vân Kiều truyệnTruyện Kiều, Chúng tôi nghĩ, nên trao đổi thêm về phương pháp luận nghiên cứu văn học của ông. Đối với Đổng Văn Thành, bài học rút ra từ các tác phẩm quá khứ tuồng như chủ yếu là vấn đề đấu tranh giai cấp. Từ đầu chí cuối chỉ thấy ông phân loại thành phần cho nhân vật của Kim Vân Kiều truyện và coi đây là cuốn tiểu thuyết “miêu tả rõ ràng, nổi bật sự đối lập giữa các giai cấp” - một “giới hạn chính trị có tính nguyên tắc” [27] của Thanh Tâm Tài Nhân. Xem xét một lĩnh vực vô cùng đa nghĩa như văn học mà chỉ bó hẹp trong một tiêu chí là đấu tranh giai cấp, liệu có phải là dùng một thước đo chưa thích đáng, là dùng “dao mổ trâu” để giải phẫu cơ thể phức tạp của con người hay không? Đành rằng con người không thoát ly quan hệ giai cấp, nhưng con người còn rất nhiều quan hệ khác, là “tổng hòa mọi mối quan hệ xã hội” nói như K. Marx, và ngày nay chúng ta đã có thể bổ sung thêm: không những là sự tổng hòa mọi quan hệ xã hội, con người còn thường xuyên mở rộng giới hạn giao tiếp của mình ra những quan hệ nằm ngoài xã hội nữa. Có bao nhiêu cái chưa biết trong cuộc đời này và vũ trụ này không liên quan gì đến xã hội, con người vẫn cứ phải tham dự như một chủ thể. Đối tượng của tiểu thuyết là con người, là sự sống nhiều mặt của con người, thế nên tiếng nói trong tiểu thuyết rộng hơn quan hệ giai cấp rất nhiều. Cũng không thể coi tiếng nói của tiểu thuyết là một tiếng nói đơn nghĩa mà phải nói như Milan Kundera, nhà văn đương đại nổi tiếng người Pháp gốc Tiệp, đó là một thứ “ngôn ngữ tương đối và nước đôi” [28] trong ý nghĩa tích cực của nó. Con người trong tiểu thuyết có cái phần là con người giai cấp, nhưng còn có vô số phần khác là con người nhân loại, con người mang tính người thuần túy, con người siêu hình, hư vô, con người sinh lão bệnh tử, thậm chí con người sinh vật với các nhu cầu “vật-người” ở giữa thế gian này.

Ông Đổng Văn Thành thích tiếp nhận những nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân dưới góc độ chúng là hiện thân của tính giai cấp, song người khác vẫn có thể tìm ra từ những nhân vật ấy nhiều phương diện đa đoan, lý thú hơn. Đặc biệt, với Nguyễn Du, nhà tâm lý bậc thầy, nhân vật của ông không bao giờ lại là những mô hình khô cứng, thuyết minh cho một tín điều nào cả. Nhân vật của ông là sự sống được cụ thể hóa nên phong phú ý nghĩa. Hoạn Thư vừa có thể ác nghiệt với Kiều vì máu ghen của “con quan Lại bộ” “Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen”, vừa có thể nghe tiếng đàn Kiều gảy mà chợt động tâm, cái phần người trỗi dậy, và biệt đãi với Kiều hơn hẳn đám tôi đòi khác; đến khi xem rõ lời khai về cuộc đời chìm nổi của Kiều thì lại càng động tâm, “ngẩn ngơ chút tình” hơn chút nữa. Lại khi cần tra vặn chuyện chồng cũ của Kiều, là việc cô ta đã biết tỏng, một thoáng xấu hổ nào đó chợt hiện ra ám ảnh khiến cô đành đẩy sang cho Thúc sinh “Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao”... Đó mới là “người”, là “cái hiền minh lưỡng lự” [29] của tiểu thuyết chứ sao? Cũng vậy, khi Kiều trả thù, có thể nàng vẫn căm phẫn bà phu nhân già họ Hoạn, nhưng một bà già tuổi tác như bà ta lại cũng có thể làm cho nàng - vốn là một cô gái hết sức nhạy cảm - động lòng trắc ẩn. Ngay Kim Vân Kiều truyện tuy có cho điệu bà ta đến nhưng rồi cũng tha kia mà. Trong các bộ luật hiện đại của nhiều nước văn minh, có điều luật đặc cách đối với những kẻ phạm pháp đã già nua không bắt phải thi hành án. Thời đại Thúy Kiều là thời Gia Tĩnh triều Minh, luật lệ còn man rợ, nhưng Nguyễn Du cứ để cho Kiều không thèm truy xét bà mẹ Hoạn Thư, chứng tỏ cái nhìn viễn kiến vượt lên trước thời đại của nhà thơ. Riêng Hoạn Thư, trong Kim Vân Kiều truyện bị treo lên xà nhà đánh đủ một trăm roi, thì trong Truyện Kiều lại được biệt đãi. Phải nhìn vào cuộc đối thoại giữa hai con người tình địch và tâm trạng Thúy Kiều trong thời điểm ấy. Khi nói với Thúc Sinh nàng đã hiểu giữa mình và Hoạn Thư là hai đối thủ không vừa “Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau”. Hoạn Thư bị dẫn ra, nàng chủ động lên tiếng trước, lời lẽ xã giao, lịch sự, nhưng chứa đầy thách thức: “Thoắt trông nàng đã chào thưa/Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây/Đàn bà dễ có mấy tay/ Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan/ Dễ dàng là thói hồng nhan/Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”. Nàng có ngờ đâu Hoạn Thư “hồn lạc phách xiêu” mà vẫn trấn tĩnh được, đáp lại thật nhũn nhặn, và lại biết giữ thể diện, nhận phần lỗi về mình “Trót lòng gây việc chông gai/Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”, đồng thời cũng khéo léo nhắm vào những chỗ yếu của lòng người để khơi gợi đối thủ: “Rằng tôi chút phận đàn bà/Ghen tuông thì cũng người ta thường tình/Nghĩ cho khi các viết kinh/Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo/Lòng riêng riêng những kính yêu/Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai...”. Kiều phải thừa nhận Hoạn Thư là người “Khôn ngoan hết mực nói năng phải lời”. Cuộc đối thoại chấm dứt bằng sự tha bổng là điều ai cũng thấy trước, một thách đố cam go, trong đó Hoạn Thư đã đánh rất trúng tâm lý người đối thoại: “Tha ra thì cũng may đời/Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”. Chỉ tiếc vì không hiểu tiếng Việt, ông Đổng Văn Thành đã không thể theo dõi hết các biến thái tâm trạng trong màn đấu lý căng thẳng mà hấp dẫn vốn là một trong những đoạn thành công nhất của Truyện Kiều.

Từ một vài phân giải sơ lược của chúng tôi về giá trị Truyện Kiều của Nguyễn Du, chúng tôi nghĩ, chỗ khác nhau cơ bản giữa chúng tôi với ông Đổng Văn Thành là cách nhìn nhận sức mạnh đích thực của tiểu thuyết. Tiểu thuyết không phải bày ra trước chúng ta một câu chuyện thật ly kỳ để chúng ta thưởng thức cho thỏa thích mà khi đọc xong không cần bận tâm đến nữa vì đó là chuyện đã được nói rồi, không có gì khám phá mới mẻ, và cũng chẳng liên quan đến vận mệnh của một người nào. Tiểu thuyết cũng không phải treo một tấm gương đạo đức cho người ta nhìn ngắm với lòng ngưỡng mộ và noi gương học hỏi, lại cũng không nhất thiết phải là bài học đấu tranh sát sườn giữa thiện và ác, giữa thống trị và bị trị, giữa bóc lột và nô lệ... để rút kinh nghiệm cho “trận cuối cùng” của nhân loại trên con đường hành hương về miền đất hứa. Đó là những loại tiểu thuyết đã từng xuất hiện một thời, dưới các cơ chế toàn trị, nhưng cũng đã biến đi rất chóng. Tiểu thuyết tự nó giữ một vị trí khiêm tốn hơn nhiều lắm. Nó là những chuyện bịa, dắt người ta vào vô số cuộc phiêu lưu không định hướng, và cũng không răn dạy gì to tát cho bất kỳ ai. Nhưng những điều mà nó mách bảo, dù chỉ rất ít vẫn là những điều con người không lường trước. Tiểu thuyết không nói với con người cái tất định mà là cái đang tiếp diễn con người chưa thể biết - “Mỗi cuốn tiểu thuyết nói với độc giả: Sự vật ở đời phức tạp hơn anh tưởng” [30] . Nó nói về sự mong manh của thân phận con người trước rất nhiều ngả của dòng đời tuôn chảy, đặt cho con người những mối hoài nghi, những băn khoăn thấp thỏm về chính cõi người. Nó gợi lên những câu hỏi nước đôi, những giấc mơ và sự thật, hiện hữu và cái phi lý của hiện hữu. Nó giúp con người tự phân thân, tách mình ra để nhìn lại cái bề ngoài của mình tưởng không liên quan đến mình. Nó cũng giúp con người khám phá vào thế giới bên trong sâu thẳm và nhiều khi đối với mình là một sự lạ lẫm. Tiểu thuyết vì thế, không đẩy con người quay về quá khứ mà hướng con người đi tới. Trong một chừng mực nào đó, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã làm được vai trò nhỏ nhoi nhưng thực đáng giá đó của một cuốn tiểu thuyết. Mượn lại một câu chuyện xẩy ra vào triều Minh xa lắc, Nguyễn Du đã làm cho bao nhiêu thế hệ người Việt từ hơn hai thế kỷ nay mê man say đắm, vì ông đã làm cho nàng Kiều hóa thân vào từng thế hệ, trở thành nỗi ưu tư, buồn khổ, thành “cái tôi” dằn vặt, những dấu hỏi về vận số, thành khát vọng sống của mọi giới người, nói như Mộng Liên Đường Chủ nhân: “Tố Như Tử dụng tâm đã khéo, tả cảnh như hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy” [31] . Chính khả năng hướng tới hiện đại của nhà thơ đã quy định số phận khác nhau giữa Kim Vân Kiều truyệnTruyện Kiều. Toàn bộ câu chuyện kể của Thanh Tâm Tài Nhân, không phải không hay, rất hấp dẫn là khác, nhưng đó là một câu chuyện của quá khứ, từ rất lâu rồi không còn để một ngờ vực băn khoăn gì cho con người hiện tại. Số phận của nó đã kết thúc. Còn tác phẩm của Nguyễn Du, mỗi lần đọc vẫn đưa lại một vài khám phá mới, “một mẩu của sự sống” (un fragment de la vie) mà theo Hermann Broch, chỉ có tiểu thuyết mới khám phá ra được. Nó vẫn còn hiện diện ở giữa cõi nhân gian, vẫn là cuốn tiểu thuyết đối thoại được với chúng ta.

Công lao của Thanh Tâm Tài Nhân không nhỏ. Không có Thanh Tâm tài Nhân thì ắt hẳn không thể có Truyện Kiều của Nguyễn Du như cái hình thức mà nó tồn tại cho đến ngày nay, mặc dù có thể có một truyện thơ khác. Nhưng cũng lại phải nói cho công bằng, chính nhờ Truyện Kiều của Nguyễn Du ngày một nổi tiếng, vượt ra khỏi biên giới nước mình, mới là một động cơ để những học giả như ông Đổng Văn Thành cố gắng làm cho Kim Vân Kiều truyện được độc giả trong và ngoài Trung Hoa quan tâm trở lại. Sự đời có nhân có quả chính là như vậy.

Hà Nội ngày 17 tháng 11 năm 2005


© 2005 talawas



[1]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1564.
[2]Nguyên văn: “ 王 員 外 四 肢 反 吊 朝 天 。面 胸 朝 地 。背 上 壓 豈 一 塊 石 頭 。壓 得 三 百 六 十 骨 節 。節 節 皆 離 。八 萬 四 千 毛 孔 。孔 孔 皆 汗 。面 如 土 色 ”.
[3]Minh Thanh tiểu thuyết giám thưởng từ điển. Hàng Châu, 1994; tr. 509-510. Chuyển dẫn theo Nguyễn Khắc Phi, bài đã dẫn; tr. 1576.
[4]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1550.
[5]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1550.
[6]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1571.
[7]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1556-1557.
[8]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1556-1557.
[9]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1553. Trong các bản Kim Vân Kiều truyện chữ Hán ở thư viện Việt Nam, đoạn này có bị lược đi một số câu nên chúng tôi không trích nguyên văn.
[10]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1566.
[11]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1570.
[12]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1570.
[13]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1558-1559.
[14]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1560.
[15]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1561.
[16]Nguyên văn: “ 兩 邊 了 頭 應 一 聲 。把 翠 翹 拖 翻 在 地 。拏 手 的 打 手 。拏脚 的 打 脚 。按 頭 的打 頭 。一 個 喝 聲 打 杖 。一 個 跪 下 記 數 。 劈 空 一 板 打 將 下 去 。翠 翹 呌 喞 喲 一 聲 。臀 上 絕 火 燒 。魂 魄 已 不 失 了 。那 無 情 竹 板 下 下 打 在 一 處 。不 須 三 五 板 。皮 破 血 流 ”.
[17]Nguyên văn: “ 若 胡 支胡 掩 。我 這 裡 上 了 板 子 。 發 還 老 夫 人 處 。 活 活 敲 死 ”.
[18]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1561-1562.
[19]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1562.
[20]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1562-1563.
[21]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1563.
[22]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1563.
[23]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1558.
[24]Xin xem Nguyễn Đăng Na. “Lời dẫn về văn bản”. In đầu bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh, Sđd; tr. 21.
[25]Xin xem Nguyễn Đăng Na. “Lời dẫn về văn bản”. In đầu bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh, Sđd; tr. 21.
[26]Nguyên văn: “ 我 老 终 身 雖 在 衛 門 。却 吃 一 口 長 素 。做 得 的 做 。做 不 得 的 定 不 去 結 案 [...] 姑 娘 你 為 令 尊 賣 身 是 甚 麼 錢 。怎 敢 花 費 。 我 三 百 銀 子 。放 在 我 家 。先 同 令 尊 令 弟 見 了 本 官 。 當 面 討 個 執 炤 。與 你 家 無 干 。然 後 將 銀 送 去 。就 見 响 馬 。我 與 他 説 明 。不 許 攀 址 你 家 。把 銀 子 與 他 。我 們 這 夥 干 理 有 十 個 頭 目 。把 銀 分 他 。説 王 家 事 。是 我 管 的 。凡 各 衛 門 。有 甚 風 聲 。都 求 列 位 遮 葢 ”.
[27]Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1560.
[28]Milan Kundera. Nghệ thuật tiểu thuyết. Nguyên Ngọc dịch. Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001; tr. 13, 14 và 26.
[29]Milan Kundera. Nghệ thuật tiểu thuyết. Nguyên Ngọc dịch. Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001; tr. 13, 14 và 26.
[30]Milan Kundera. Nghệ thuật tiểu thuyết. Nguyên Ngọc dịch. Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001; tr. 13, 14 và 26.
[31]Tựa Truyện Kiều, 1820. Trần Trọng Kim dịch. Nguyên văn: “ 素 如 子 用 心 之 苦 。敘 事 之 神 。冩 景 之 工 。談 情 之 切 。自 非 眼 浮 六 合 。心 貫 千 秋 。未 必 有 始 如 此 力 也 ”.
Nguồn: Tham luận chuẩn bị cho Há»™i thảo ká»· niệm 240 năm sinh Nguyá»…n Du do Viện Văn hoá Thông tin tổ chức ngày 1.12.2005 tại Hà Ná»™i, nhÆ°ng không được đọc tại Há»™i thảo.