© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
2.2.2008
Nguyễn Thị Hoàng
Cuộc tình trong ngục thất
(Truyện dài)
 1   2   3 
 
Ngồi trong khung xe chật hẹp, giữa tiếng mưa rào rào rụng trên mui xe, giữa âm thanh rời rạc buồn lặng của bánh xe nhỏ bé trườn nghiền lên mặt đường ướt át người đàn bà bỗng quên đi giây phút những sự thật não nề che giấu trong lòng mình. Chuyến đi trở lại tính cách bình thường, nhàn hạ của một đôi vợ chồng xa xứ, về thăm quê nhà năm bảy bữa, bây giờ, động máu giang hồ, lại bỏ lìa quê cũ ra đi.

“Anh có quên gì không.”

“Quên gì cũng bỏ.”

“Rồi lại phải mua lần khác những thứ cần dùng.”

“Bây giờ anh không cần gì hết, những tiện nghi, những vật dụng, tất cả mọi thứ khác, không cần gì hơn là có em, và đừng mất đi giờ phút nào với em.”

Vợ thở dài, không vui không buồn, nhưng dây tơ đàn trong lòng đã căng quá đỗi, chợt héo chùng mênh mang. Xa nhau đâu một tuần, một tháng, đã nghe người chồng nói thế. Đánh đổi tất cả để được lại những phút giờ đầy đủ có nhau. Một ý nghĩ, một câu nói nhưng nặng trĩu quyết định của cả một đời người hệ luỵ. Với người đàn bà, thì phải chịu đựng, phải tận cùng khốn khổ, tận cùng cay cực, cũng đành để về sau, tìm thấy những phút hạnh phúc có thực, vẹn toàn, yên ổn, vững chãi, bảo đảm. Còn người đàn ông lại khác. Người đàn ông không thể chờ. Không chịu mất gì cho ai, nhất là sự mất mát thối tha vô nghĩa, đánh gục chính mình nhưng cái chết không đóng góp gì thêm vào những bức tường xây hỏng nát từ nền tảng.

“Em nghĩ gì rồi?”

“Không.”

Nàng nhìn ra ngoài. Xe đang qua con đường trước trường học cũ. Hỡi ngói nâu. Hỡi tường hồng. Hỡi phượng thầm ngày xưa. Im lìm bốn bề mưa rung cửa kín. Nàng nói một mình trong ý nghĩ. Giờ này, em đang ngồi trong lớp học kia, hai tay khoanh trước bàn, hai chân loay hoay dưới đất, nền xi-măng mát lạnh những sáng mưa thật sớm. Hai mắt thỉnh thoảng liếc chừng phía giảng bài, rồi lại mông lung ngó ra ngoài cửa. Khung cửa sổ thật rộng trong tầm mắt nhớ nhung những quê hương xa vời chưa biết mặt. Vòm trời rộng và thấp, màu bạc đục, những sáng vừa dứt cơn mưa đêm, chỉ còn nhỏ giọt xuống từ hàng mái cao, cái rèm nước long lanh từng giọt châu trắng sáng trong vắt. Qua bức rèm châu long lanh là những tàn lá phượng xanh rờn, vừa thở hơi nước mát, thức dậy, vươn cao mình, phe phẩy đón chào giờ ra chơi trống đánh ba dùi. Tiếng chân rào rào tuôn ra từ các cửa lớp. Áo trắng phấp phới đầy sân, như bầy ngỗng trắng rong chơi dưới bãi cỏ xanh mọc lên phơi phới như ngày tháng mới hoài sau mỗi sáng mưa, sau mỗi chiều nắng. Hình như còn nghe lạnh nỗi lạnh lùng xưa thơng nhớ vẩn vơ, mỗi giờ ra chơi, đứng trong hiên mưa khoanh tay nhìn trời, đếm những trái phượng già đầy cành lủng lẳng. Bây giờ… Chỉ còn trong chiêm bao, chỉ về trong chiêm bao. Sự im lặng chừng như hất hủ, chừng như lừa lọc gian dối.

Cánh cổng trường xưa vẫn còn mở rộng, nhưng làm sao để vào. Làm sao để đi vào nhưng đừng thất vọng buồn rầu hổ tủi đi ra. Như mãi mãi em không thể lớn lên, không thể trưởng thành, không thể già nua cằn cỗi. Mãi mãi vẫn mơ tưởng mình là con học trò bé nhỏ ngày xưa, mơ mộng và điên cuồng với ước mơ hơn là chữ nghĩa.

“Một ngày kia, em phải về thăm trường.”

“Những ngày vừa rồi, sao em không tới thăm trường?”

Nàng cười không đáp. Mỗi bước ra đi là một lần thù hận. Mỗi chuyến trở về phải là một chuyến phục thù. Ở đâu cũng thế. Bao giờ cũng thế. Và nếu không đủ phương tiện, cách thế để phục thù… thì thà chết đi trong nhớ nhung, mà không bao giờ nhìn lại chính mình là kẻ trở về chiến bại.

“Gần tới ga rồi.”

Nàng nhìn ra khỏi rèm xe. Qua màn mưa giăng mù dòng sông trắng, con đường sắp sửa tận cùng. Bên kia là khu vực của nhà ga, những con đường rẽ về đời sống khác.

Thỉnh thoảng một tiếng còi của lính kiểm soát gọi xe dừng thét lên lảnh lót. Trong bụng vợ, đứa bé cuộn mình từng vòng tròn như muốn tuôn ra, vùng vẫy.

Dù sao con đường từ nhà lên tới sân ga ngắn ngủi như một chút bình yên không mong cầu cũng đã tới, thản nhiên.

Chiếc xích-lô chậm chạp trườn vào phía sân ga, day trở một lúc rồi dừng lại. Rèm xe cất lên, trời như được vén khỏi màn mưa dày trắng xoá, cao và sáng hẳn lên trong tầm mắt nhìn bỡ ngỡ lo âu.

Trong sân, mấy chiếc xe ca không tài xế còn im lìm trống trải đợi chờ. Khách đi máy bay lũ lượt kéo tới từ bao giờ, ngồi chen chúc từ cửa vào tới phòng trong. Đồ đạc, gánh gồng, xách bị, đủ các thứ lôi thôi quanh đám hành khách áo mũ lùm thùm như xưa kia trong toa xe lửa hạng chót.

Người chồng nhấc cái va-li ra khỏi chiếc xích lô, hai người trả tiền xe, nói vài lời nhắn nhủ thân tình với người phu xe quen thuộc, rồi quay vào ga. Chiếc xích lô trống quay ra khỏi vùng sân ga, ha người cùng trông theo, cùng cảm thấy đường về, dù cách nào, cũng đã cắt đứt. Lối sau cùng là ra đi, không thể thay đổi, dù muốn dù không.

Bây giờ, họ đã đứng đầu đường như còn tàu đã lên trên đường sắt, đã được ấn định giờ khởi hành, điểm đi và đến, chuyến tàu suốt không dừng nghĩ một ga nào cứu vớt tiếp sức, chỉ chờ lá cờ đỏ phất lên nhẹ nhàng, là tiếng còi tàu thống thiết cất lên.

Họ như chuyến tàu và cũng như người giương cung trước kẻ thù sống chết. Mũi tên đã lắp vào cánh cung, kẻ thù đã chờn vờn trước mặt. Không còn một thứ khí giới nào khác, hai vợ chồng, hai người đâu lưng nhau, chỉ còn là một hoà nhập, biến thành một, sắp sửa bắn đi mũi tên cuối cùng, độc nhất. Mũi tên sẽ về trúng đích, và sống, hay mũi tên chếch nhẹ ra ngoài mục tiêu, và chết. Không, nào phải giản dị, dịu dàng như cái chết tức thì, với một viên đạn, một lát dao, một đường tên bay. Mà con đường từ cái sống tới cái chết phải đi qua bao nhiêu hàng rào kẽm gai, bao nhiêu rừng mưa đạn, bao nhiêu sông máu đầy, bao nhiêu đợi chờ và nước mắt, bao nhiêu khổ nhục và mồ hôi, bao nhiêu đoạ đày và thống khổ, ngoài sức chịu đựng có hạn của xác và hồn, kiên nhẫn vô biên của con người đã thách đấu với đời, thách đấu với hư vô.

*



Phòng kiểm vé, cân hành lý của hãng máy bay bây giờ là nhà ga xe lửa xưa kia. Khu vực khổng lồ rộng rãi của nhà ga xưa kia, gần như hoang phế hư hoại hết vì chiến tranh, vì thời gian, chỉ còn lại mấy phòng tương đối kín đáo tươm tất vừa đủ cho công việc thu xếp đến và đi của những chuyến xe ca đưa tiễn và tiếp nhận hành khách của hãng máy bay giữa thành phố và phi trường.

Đám hành khách đi máy bay, từ thành phố buồn thiu mưa gió này, đi Đà Nẵng đi Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, cũng không khác đám hành khách nghèo cực vất vả gánh gống bồng con bế cái đi xe lửa hạng ba ngày xưa là bao. Vẫn cái vẻ lôi thôi, lếch thếc, đói rách lầm than, cùn mằn khổ nhọc, của từng người, của từng gói hàng, của từng vết tích của chuyến di chuyển nặng nề mệt mỏi.

Người đàn ông và người đàn bà cảm thấy lộ liễu khác thường giữa đám hành khách lao xao với hành lý nặng nề, con cái đông đảo, vội vàng tất tả ngược xuôi kia.

Từ khi đến sân ga, hai người nhìn mãi ra khoảng sân vắng xe ca đậu mong ngóng bóng dáng người tài xế. Nửa giờ sau hắn mới tới. Đám khách lục tục đứng dậy dồn ra phía cửa, xuống thềm. Người tài xế bước vào khệnh khạng.

“Chưa nghe, còn lâu mới đi.”

“Đi đâu trước đó, bác?”

“Quy Nhơn.”

“Còn Sài Gòn?”

“Còn lâu.”

“Chừng mấy giờ xe ca rước khách đi Sài Gòn chạy vậy bác.”

“Chưa biết. Rảnh ngồi chơi, gấp gì.”

Hai người ngồi xuống chiếc ghế dài cứng nhắc. Mấy người bán mè xửng và nem, dầu, vây quanh mời mọc. Một lúc khác, có lẽ người vợ sẽ mua lấy một ít nem, mang theo. Không dễ gì ở Sài Gòn có thể tìm thấy một cái nem chua giòn và thơm như ở đây. Chỉ nhão nhoẹt, ngọt lừ, không mùi vị. Những miếng mè xửng căng tròn từng hột đậu phụng nổi gò lên trên mặt mè đường láng mướt dẻo dắng. Nếu cần, nàng đã mua một chai dầu nhỏ xíu. Nàng biết trước, một lúc nào đó, tay chân sẽ nhũn xuống, người sẽ lạnh ngắt và ngất đi không chừng, trong chuyến đó còn lâu mới có thể khởi hành. Nhưng nàng cũng đã phòng xa trường hợp bất trắc nên mang theo đủ dầu lẫn thuốc. Nếu thấy choáng váng, vì mọi chuyện vượt quá xa sức chịu đựng vừa dẻo dai vừa mong manh của mình, sẽ che giấu, sẽ im lìm chữa trị lấy. Nhất định không để người thứ hai thấy mình ngã xuống. Tránh làm ồn. Tránh kinh động. Tránh tất cả mọi chú ý xung quanh. Nếu cơn đau tới, nếu sự mệt mỏi tới, hay gì đi nữa, ta cũng sẽ nghiến răng im lìm chịu đựng, cho qua. Mọi điều đều do nơi ta cả. Hãy cố mà chịu đựng, nàng tự nhủ. Hãy trả giá thật đắt đi, rồi mỗi phút của đời sống đánh cướp được từ đây sẽ là những phút giây vàng.

Vợ hỏi chồng:

“Anh liệu xem có đi được chuyến đặc biệt không?”

“Chắc chắn là được. Trời mưa, nhiều người bỏ chỗ.”

Nàng định hỏi thêm, những câu hỏi mà nàng biết là người chồng cũng có cùng câu giải đáp như chính mình đang nghĩ đến. Nhưng nàng muốn nói, muốn khuấy động sự im lặng, muốn xác nhận với chính mình với nhau, những điều thỉnh thoảng lại lung linh chao chọng bởi một thoáng lo âu nặng trĩu vất vưởng, tưởng là mơ hồ không một lý do, nhưng có thực, bền vững, như một trái núi đè lên miền đồng bằng còn xanh xao chút hy vọng mùa màng:

“Em đến ghi vé, nhé?”

“Có cần không?”

“Người ta ghi đó, thà ghi trước còn hơn để người ta gọi. Cho xong, để xe gọi, là đi nhanh ngay, càng nhanh càng tiện.”

“Thì em đi ghi đi.”

“Anh ngồi một mình, có sao không?”

Chồng vỗ nhẹ bàn tay lạnh và chai cứng những ngày nhọc nhằn xa cách lên bàn tay mềm mại của vợ.

“Nhảm quá, là sao. »

"Rời anh một bước, em cũng thấy không yên tâm."

Chồng cười, rút thuốc, châm hút. Vợ bước đi một bước, nhìn lui, ngập ngừng. Người đàn ông tóc ngắn, mặt gày gò, rám nắng, hai con mắt sáng, cái nhìn quả quyết, lạnh lẽo nhưng nồng nàn ở mỗi chớp mắt, mỗi long lanh ưu tư suy nghĩ. Điếu thuốc cháy đỏ, nhả khói xám mờ nhẹ nhõm, như một hơi thở ra khoan khoái, trút bỏ ưu phiền.

Khói thuốc u nhã, trang trọng, dịu dàng bình thản vươn lên, nửa u uất đìu hiu, nửa mênh mang khoan hoà, thở lại nhịp đời tưởng đã bình yên đầm ấm vẹn toàn năm tháng. Có đâu ngờ hoạn nạn tiếp tai ương. Có đâu biết gian nan sau điên đảo. Có đâu ngờ sự lặng lẽ không cùng của một thái độ là sóng gió quay cuồng của một đời người chưa dứt oan khiên.

Người ghi vé ngồi sau khung lưới sắt lỗ vuông lõ mắt kính nhìn lên. Ngày tháng làm cho ông ta trở nên hiền lành mệt mỏi từ lười biếng.

“Ghi vé hả, đi đâu?”

“Bác ơi, liệu chuyến đặc biệt có bay không bác.”

“Tới phi trường mới biết được. Đã mấy tuần mới có lại chuyến đặc biệt là may lắm rồi. Đi thì cứ đi không có thì lên xe ca đón về, có đi bộ đâu mà sợ.”

Không có thì về. Nàng tưởng chết đi từng khúc ruột, từng đường gân máu khắp người. Nhưng nàng tỉnh táo, thản nhiên như người bình thường đối đáp với đời ung dung trước mắt.

“Phải, không có thì lộn về, ăn vài ba bữa bún bò nữa, có sao đâu. Mà này bác, có phải ghi vé hay không?”

Người nhân viên già xua tay:

“Thôi khỏi, có đi thì ghi, không thì thôi lên trên ấy mới biết đi hay không chớ.”

Nàng hỏi và thấp thỏi nhìn ra sân.

“Gần có xe ca chưa bác.”

“Tài xế tới thì đi liền.”

“Sài Gòn hả bác?”

“Sài Gòn.”

“Nhưng chuyến nào?”

“Giành được chỗ thì cứ đi. Chuyến nào cũng đi cùng xe ca kia cả, lên trên kia mới phải chờ, còn đây thì ăn thua chi.”

Lên trên ấy, phi trường, sẽ phải chờ. Chờ. Bao lâu. Một giờ. Nửa ngày. Hay suốt cả ngày. Có chuyến bay. Hay suốt cả ngày. Có chuyến bay. Hay không. Có, là đi. Đi, được không? Không có, quay về. Về được không. Quay lốc từng câu hỏi. Quay lốc từng chữ trả lời. Cuộc đối thoại im lìm và căng thẳng trong từng đường gân mạch máu, làm cho trái tim thắt bóp không đều, làm cho thần trí nhức nhối mỏi mê. Từng phút xê dịch rã rời của kim đồng hồ. Từng phút như không muốn vượt qua cái mốc ngập ngừng rình chực của định mệnh. Thời gian bỗng chết đứng, ngày bỗng treo cao. Mọi sự như ngừng đọng lại hết trong câm nín, lặng lờ, tai hoạ…

Bên ngoài, trời mưa vẫn mưa. Những sợi nhỏ thưa đan nhau nghiêng chiếu soi dãy phố bên kia sân ga đìu hiu đợi khách. Và chiếc xe jeep đổ xuống đám sĩ quan. Mấy cái xe nhà binh khổng lồ thả xuống hấp tấp một toán lính, cảnh sát.

Nàng thu hai tay cầm vé vào túi áo mưa, trở lại, kéo áo che nửa mặt, ngồi sát cạnh chồng. Chồng nói, nhẹ như khói thuốc đang bay tản.

“Bọn kia có lẽ cùng đi máy bay cả.”

Nàng không muốn nói gì nữa, im lặng theo dõi từng người, từng chiếc xe di chuyển chậm chạp trong khu sân mưa bay. Mọi người như có vẻ đi tới để đi qua. Nhưng mọi người cũng như có vẻ đi tới, xốc xáo, kiếm tìm, sục sạo một cái gì đâu đó quanh vùng.

Miệng nàng khô đắng. Bao nhiêu nước trong cơ thể chừng như rút khô đi. Vì lo âu. Vì căng thẳng. Vì những thứ không thể diễn tả ra bằng bất cứ lời lẽ nào của người sống ở trần gian. Ta đang ở địa ngục. Địa ngục. Không ai biết. Chen qua từng kẽ hở của lũ quỷ hung dữ, tìm một vệt ánh sáng, một chút không khí, tiến tới phía có sinh khí. Rồi sẽ đi qua, đi qua. Và qua đi qua đi.

Nàng vẫy, vô hồn, một người bán kẹo và lấy một thỏi cao su bạc hà, im lặng đặt bốn mươi đồng xuống cái khay đầy dầu và kẹo, không thèm lấy tiền thối. Nàng nhìn qua bên kia. Lẽ ra, hai ta về thăm quê hương cũ, như ngày nào mơ tưởng, một lần, du nàng dăng dung dẻ khắp cùng những vết tích tan hoang của quá khứ vàng son. Lẽ ra sáng hôm nay, trước khi bỏ đi về với đời sống huy hoàng có thật của chúng ta ở một phương trời nào khác, ta đã chọn một cái bàn sạch sẽ trong dãy quán ăn bên kia đường, gọi một chút rượu nồng, một món ăn thích, một chút gì nhấm nháp trước giờ lên đường, chúc phúc cho nhau, mừng rủi cho nhau, hứa hẹn cùng nhau quãng đường đời cùng nhau còn lại can đảm và sum họp tới cùng. Có phải như thế không anh. Có là bao nhiêu. Vài ba trăm bạc, năm mười phút ngắn. Bước vài ba bước, lên thềm quán kia, gọi người hầu bàn, chờ một lát, ta có thể thưởng thức thi vị của đời đôi lứa, trên đường đời, trên chuyến đi, cái khoảnh khắc mong manh chỉ tới một lần, biền biệt một đời đi khuất thiên thu. Vậy mà ta ngồi đây, co ro, cô đơn, cô đơn cùng cực, cô đơn của cả hai người nhập lại làm mặt trận còn xót xa và lạnh lẽo gấp trăm nghìn lần cô đơn của một người chưa hệ luỵ, chưa san sẻ đời, chưa ghép trao tìm. Ta ngồi đây, hai tay thong dong, thân thể vẹn toàn, đầu óc tỉnh táo, thời gian thênh thang, tiền bạc còn thừa, nhưng ta ngồi đây, trông ngóng từng phút từng giờ một người tài xế tiểu tốt vô danh, trông chờ từng phút từng giờ một chuyến xe đưa đẩy kiếp người từ biên cương cõi chết về bến bờ an toàn của đời người còn rạng rỡ hoan mê. Ta ngồi đây, xin tạ ơn đời, xin khẩn cầu trời, một chút may mắn cuối cùng, một chút gió đưa cuối cùng, cho mũi tên cuối cùng đừng chếch hướng bay.

Vợ gỡ miếng kẹo cao su màu đất sét khỏi tấm giấy bọc màu cỏ non, cuộn tròn lại, vươn tay lên, đút vào miệng chồng. Những ngón tay nàng dừng lại, lâu, một thoáng yên tĩnh, nghe ngóng trên đôi moi cũng khô se nhưng ấm áp của người đàn ông. Nàng bàng hoàng khắp người đón nhận cảm giác quen thuộc của đôi môi cuốn nhẹ lấy một số kẹo mỏng từ ngón tay mình đưa đẩy. Nỗi xúc động bất chợt, rưng rưng như giọt nước mắt ngập ngừng giữa mừng tủi và lo âu, giữa khóc thương và hoan hỉ, chỉ chớm thấy, rồi trôi tan vào lòng không ai biết ngoài thầm kín, thâm tâm.

“Hình như xe đến, em.”

Tiếng người chồng thốt lên, như một hồi chuông vui lảnh lót.

Một chiếc xe ca từ đâu tới, lừng lững đến gần cửa lạng một vòng bán nguyệt trong sân rồi sắp hàng bên cạnh những xe trống khác. Người tài xế vui vẻ nhảy xuống. Hắn bước vào trong phòng, nhìn quanh một lượt, rồi loan báo tin vui cho những người ruột gan đã dài thêm mấy tấc đợi chờ.

“Ai đi Sài Gòn, lên xe đi!”

Vợ nắm tay chồng. Cái va-li trong người đàn ông chợt nhẹ tênh. Đứa con trong bào thai người vợ chừng như duỗi dài ra khoan khoái, với những nhịp tim tí hon bắt đầu lại nhịp đập bình thường.

Họ muốn nói câu gì đó với nhau, trước khi cùng bước lên xe, cùng ra đi. Nhưng nỗi vui mừng chợt tan khi họ cùng nhớ ra, trong im lặng, chuyến đi chưa tới chặng khởi đầu, và đường trở về đời còn cả trùng dương sóng gió mông mênh.

*



Chiếc xe ca chở đầy khách đi lạng một vòng chậm chạp quanh sân ga rồi thẳng đường mưa bay loáng loáng. Một vòng vừa đủ cho người đàn bà trong cửa kính mù mưa nhìn thấy lại hình ảnh hôm nào như hôm nay, đã ra đi một mình, và người đàn ông đứng lại dưới kia, không còn một người nào phải ra đi, đường xa, một mình. Mà bây giờ, cả hai, đôi ta cùng đi, cùng bỏ, cùng đến, những chặng đường đời, những khúc tang thương. Cùng nhận chịu. Và cùng chia sẻ. Cùng xót xa và cùng đắm say. Liều thân với đời. Gửi thân cho trời. Quỷ dữ, từ địa ngục mà đi, rồi sẽ phải trở về địa ngục. Còn ta, những kẻ đoạ đày, từ thiên đường tới, nếu chẳng thể trở lại thiên đường, ta sẽ trôi về vắng vẻ sương sao an nhàn tịch mịch. Giữa cái chết của đời này, và cái chết của một đời khác, chắc hẳn là trời sẽ muốn cho ta chọn lối bỏ đi. Nhắm mắt, che tai, hãy đi trong què quặt tận cùng này của thân phận, để tới vùng sương sao ảo diệu của hồn mình lựa chọn, lẻ loi cùng nhau bay lượn cùng nhau, ru êm cùng nhau cái chết lang thang trên chín tầng mây khói tuyệt vời.

Hai người ngồi băng ghế sau cùng, hai chỗ trống cuối cùng còn lại trong khung xe chật hẹp đầy người và đồ đạc xách tay. Qua khung kính mờ, dòng sông, con đường, nhà cửa hàng cây, những vết tích mông lung của một thời mù sương buồn bã, qua dần, xa dần cho đến khi chỉ còn là con đường thẳng tắp khấp khểnh chạy ngoằn ngoèo giữa hai bờ ruộng khô cằn sũng nước.

Xe càng chạy, họ càng cảm thấy nhẹ bớt những lo âu nặng trĩu trong lòng, những nỗi hoang mang về quãng đường trước mặt càng xốn xang thêm, như mỗi một bước qua đi của chuyến xe nặng nề, là một hơi thở được tiếp sức từ sự chết thoi thóp.

“Em mệt không?”

“Không.”

“Trời sắp hết mưa.”

“Em lại mong trời mưa.”

“Cũng vậy thôi. Nhưng trời sáng hẩng ra rồi đó. Mọi sự rồi sẽ như trời.”

“Anh ạ.”

“Gì em?”

“Có sao không?”

“Không. Sao tay em lạnh ghê thế?”

“Thai động, đường nhiều ổ gà quá.”

“Em đừng nghĩ đến gì cả xem.”

“Em đang không nghĩ gì hết.”

“Láo.”

“Thiệt mà.”

“Em nhìn gì thế.”

“Con đường.”

“Yên ổn.”

“Biết đâu.”

“Lại thế nữa. Em ngủ đi một chút, có được không?”

“Nhắm mắt, em càng nghĩ ra nhiều chuyện. Kìa, trời lại mưa, vẫn còn mưa.”

“Mấy giờ rồi anh?”

“Tám giờ rưỡi.”

“Chừng một giờ nữa tới sân bay.”

“Không biết mình có chuyến đi trong buổi sáng hay chưa?”

“Chắc là có."

"Sao anh biết?"

"Đám khách này đi Sài Gòn cả. Có khách thì có chuyến bay chứ.”

"Em cảm thấy như anh bỏ quên cái gì."

“Nhiều thứ. Nhưng anh vứt luôn. Sắm cái khác.”

“Không chỉ đơn giản như vậy.”

“Thế còn cái gì nữa?”

“Một phần đời, cắt đi.”

“Phải cắt đi. Như bác sĩ giải phẫu cắt bỏ để cứu sống nhân mạng.”

“Không phải như thế.”

“Thôi, em đừng nói gì nữa.”

Họ im. Những tiếng nói trong xe chợt nổi lên rào rào. Người đàn bà quấn tang trắng ngồi phía trước giở một tờ thư ra đọc. Thư của một người thân ở xa gửi về chia buồn. Sao bà lại lớn tiếng và cười giòn giã như thế được? Người đàn bà bên cạnh ghé đầu xem chung bức thư. Họ bàn với nhau cái gì trong thư viết và cùng phá lên cười.

Họ nói với nhau.

“Mang theo hết đồ đạc à.”

“Ừ, cái dao cái thớt cũng đem theo.”

“Tới đâu lo đó, hơi đâu.”

“Để lại, bà con họ hàng chiếm hết, đâu còn khi về. Đem theo, đỡ tiền mua sắm các thứ mới. Và cho họ khỏi xâu xé.”

“Chị định đi luôn?”

“Chỉ cầu đi luôn.”

“Còn mồ mả ai trông nom nhang khói.”

“Có mấy chú, mấy bác cha nó lo. Mình lo mòn xương khi anh ấy sống rồi. Không đủ sao.”

Đời sống khốn nạn đến nỗi hai gò má của người đàn bà nhô cao trên khuôn mặt, đôi mắt lõm sâu, đen ngòm, và hai cánh mũi hốc lên, như đánh hơi chút tiền còn vét thấy đâu đó trong xó nhà ẩm mốc, cái miệng rộng, với hàng răng mọc thẳng trắng hếu dưới khoảng nướu đỏ tím, nổi gồ từng đường gân máu xanh. Và bây giờ người đàn ông nằm xuống, bà ta vẫn còn tiếp tục cay chua, đắng xót một mình kể lể.

“Giấy bổ nhiệm của chị mới gởi ra.”

Bà ta chỉ người đàn ông ngồi băng bên kia.

“Anh nhà tôi lo hết, đâm đơn, chờ tin, gọi tôi. Anh ra đem tôi vào.”

“Còn mấy cháu?”

“Chúng đi sau. Tôi vào dọn nhà cửa chỗ đằm đã.”

“Từ nay chị nhẹ gánh, nhỉ.”

Người đàn bà so vai.

“Hết chồng, tới nhà chồng. Nhẹ sao được. Không chừng lại nặng thêm. Ôi, chồng với con.”

Người vợ ngạc nhiên nhìn người đàn bà. Tại sao mụ ta như thế. Trông mắt mụ quen quen. Nàng nghĩ một hồi vẫn nhớ ra. Nhà mụ trước ở trong con hẻm nhỏ. Ông chồng đi dạy áo quần bẩn thỉu. Thỉnh thoảng say rượu. Vợ chồng kéo nhau ra đánh lộn đầu giếng. Chửi toe toét, nước mắt nước mũi, đôi khi máu be bét. Tại sao như thế. Không dứt bỏ nhau đi. Để chịu đựng cho tới chết còn đay nghiến, rủa nguyền. Cái gì lôi kéo họ lại gần nhau? Điều kiện vật chất. Quyền lợi. Thói quen. Những ràng buộc do con cái. Cái gì? Không còn tình. Chẳng còn nghĩa. Vợ chồng là thế hay sao. Thương yêu thì quấn quít, hùng hục. Giận hờn thì cấu xé nghiến ngầm nhau. Đến chết còn chưa nguôi. Đến chết còn căm thù hay sao? Không cách này thì cách khác, những cặp vợ chồng, trong hoàn cảnh không sáng sủa, đầy đủ, đại khái đều đối đãi nhau như thế cả, hay sao?

Còn mình. Ôi đôi ta. Có phải trời đày để bù trừ hạnh phúc quá vẹn toàn, trong xác hồn trong ý chí trong lý tưởng chung cao vời chôn kín tâm can. Tại sao trời cho những người không biết sống một đời sống trôi chảy, dễ dàng, trọn vẹn, bình yên như thế. Tại sao trời cất giấu khỏi đời mình những nấc thang đi đến cùng đích, đi đến với nhiệt tình, với tham vọng, với phấn đấu kiên trì và bất khuất như thế.

"Em xem này.“

Người vợ nhìn theo tay chỉ của chồng. Không thấy gì ngoài đồng ruộng chơ vơ. Những mái nhà lụp xụp vắng người, mấy dãy hàng rào đổ nát. Một đồn canh bỏ trống.

"Gì đâu, anh?"

"Vắng tanh. Không bóng người."

"Sao thế?"

Chồng cười, qua khói thuốc lan man thơm bay.

"Cho ta đi qua."

Nàng im nghe tim đập nhịp đều, nhẹ nhàng, ấm áp. Sắp tới sân bay. Phải tới sân bay. Có con đường nào đi máy bay mà khỏi phải tới sân bay hay không. Không. Phải tới đó. Tất nhiên rồi. Và chờ đợi. Bao lâu? Ra sao? Chuyến bay sẽ có? Mấy giờ? Có? Hay không có? Có. Và không có.

*



Người đàn bà chống tay vào quầy bán vé nhìn ra ngoài. Sân bay trống vắng, đìu hiu. Cơn mưa còn vướng vất lại một màn hơi nước mỏng đục mờ trong không ảm đạm. Những người ngồi đợi chuyến đi tản mác ngoài sân, trong hành lang hay trong phòng ăn chật hẹp. Mọi người im lặng, chờ đợi trong không khí có vẻ gì như nín thở ngột ngạt, chờ đợi một thay đổi, diễn biến bất ngờ vào phút cuối.

Thỉnh thoảng, một nhân viên hàng không từ đâu tới, đi tạt qua khoảng hành lang gió lộng, tiếng nói lẫn tiếng giày xôn xao rồi tắt chìm trong im lặng bất thường.

"Bà lại phòng ăn ngồi chờ. Có tôi sẽ mời đi."

"Cô liệu có thể có máy bay trong buổi sáng hay không?"

Người ghi vé nhìn lên đồng hồ treo tường:

"Mọi khi là buổi sáng có chuyến đặc biệt. Hôm nay mọi chuyện đều bị thay đổi xáo trộn hết nên không biết ra sao. Nhưng cũng có thể."

"Sắp tới là chuyến nào?"

"Chuyến thứ nhất đi Sài Gòn."

"Nếu trên chuyến này có chỗ trống, tôi có thể đi được không?"

"Không bao giờ có chỗ trống trên những chuyến bay thường."

"Cô có cách nào giúp?"

"Trừ khi có một hành khách bệnh bất ngờ vào phút chót, và huỷ vé tại đây. Nhưng trường hợp này cũng không xảy ra."

Người đàn bà cau mặt nhìn ra. Chừng như có tiếng ù ù cuối chân mây tối vắng.

"Máy bay nào tới vậy cô?"

"Chuyến từ Quy Nhơn."

"Rồi sẽ cất cánh ngay à?"

"Vâng, cho những người đi Quy Nhơn."

"Sau chuyến đó."

"Là chuyến Nha Trang."

"Rồi chuyến Sài Gòn tiếp theo."

"Vâng."

"Sau chuyến thường đi Sài Gòn sẽ là chuyến đặc biệt."

"Có thể."

Người ghi vé hết kiên nhẫn trả lời. Cô ta không muốn buồn lòng khách, quay lưng lại phía ngoài loay hoay tìm kiếm cái gì trong tủ hồ sơ.

"Tôi lại đàng kia ngồi, có tin cô cho biết ngay nhé."

"Tôi sẽ mời bà."

Nàng rời khỏi quầy ghi vé, đi qua phòng đợi rộng thênh thang và trống trải, gió lùa dào dạt, trả lời chỗ ngồi của mình ở trong phòng ăn.

Mùi bún bò cay thơm tản mác khắp căn phòng nhỏ chỉ đủ bày không quá mười chiếc bàn nhỏ. Những đầu người cúi xuống ngẩng lên lô nhô trên bàn ăn. Tiếng nói chuyện xì xào xen lẫn tiếng xuýt xoa vì cay ớt.

Ngoài sân, chiếc máy bay đã sắp đáp xuống, một đám người nhôn nhao đứng lên. Nàng nghe rõ người ta nói với nhau.

"Chuyến đi Quy Nhơn đó."

Không phải là Sài Gòn. Máy bay Sài Gòn chưa tới, nhưng nếu tới rồi thì cũng chưa phải là chiếc dành cho chuyến bay đặc biệt tăng cường trong ngày. Và nếu là chuyến đặc biệt được tăng cường, thì cũng chưa hẳn là có hai chỗ ngồi cho loại vé dự khuyết.

Hai bàn tay nàng lạnh ngắt vặn xoắn vào nhau.

Người chồng ngồi lặng yên nhả khói thuốc. Khói thuốc ấm áp toả vòng tròn trên hai con mắt nâu đã đục vàng vì những đêm liên miên mất ngủ. Thỉnh thoảng, những ngón tay dài đã gầy gò lồng trong mái tóc cắt ngắn lô nhô sợi buồn rã rượi, cào một vòng, trút bỏ bụi mù của đường xa đã đi.

Chồng không nói gì. Vợ cũng im hơi, nhưng hai người nghe rõ trong nhau những tiếng thở dài thầm kín pha lẫn những tiếng kêu gào náo nức quắt quay của phút đợi chờ phập phồng kéo dài tưởng đến hết một đời người chưa dứt.

Bỗng nhiên nàng thấy hoảng kinh. Hoảng kinh tất cả mọi thứ, trong im lìm không nói. Mình chịu đựng được sự chịu đựng cay nghiệt và kéo dài của mình, nàng tự nhủ, nhưng còn đương sự, còn người kia ra sao? Im lìm. Thản nhiên, ung dung, kiên nhẫn. Có vẻ như thế thật đấy. Nhưng nàng đoán biết biển dầu đang sôi. Đại dương đang sóng. Đất trời đang bão nổi trong đầu óc thanh thản im lìm đóng kín đó. Đời sống như đã hoàn toàn vắng mặt, hoàn toàn bỏ đi. Chỉ còn lại những phấn đấu mù quáng và tê liệt, cuối cùng, trong một thân phận một đầu óc đã tưởng nổ tung vì sự chịu đựng ngoài sự chịu đựng, vì vượt qua nhiều thứ ngoài tầm nhảy vọt của xác thân và ý chí. Rồi sẽ ra sao? Nàng tưởng tượng, một phút, bất ngờ, bùng nổ, người đàn ông sẽ đứng dậy, sẽ đi tuôn như gió bão ra ngoài kia, phía đám lính gác. Và nói một câu gì đó. Làm một điều gì đó. Một điều chính người đàn ông, và người đàn bà, cũng không thể quan niệm, chấp nhận hay tưởng tượng được. Một điều gì xáo trộn hoàn toàn chương trình đã hoạch định quyết liệt từ đầu. Chuyến đi có thể huỷ bỏ và mọi điều có thể rơi vào trong vòng lưới vô hình tối tăm cũ của định mệnh.

Nàng hỏi, run sợ thực tình.

"Anh sao vậy?"

"Có sao đâu em. Em mệt lắm không?"

Nàng chớp mắt. Chưa bao giờ người đàn ông nghĩ đến và hỏi han vợ mình bằng thái độ và giọng điệu ấy. Kể cả những lần nàng sinh đẻ dậy một hai hôm đã phải làm lụng việc nhà, tính toán việc ngoài, va chạm với nhiều khó khăn rắc rối điên đầu lại bại óc nhất. Mà bây giờ đã hỏi. Rất băn khoăn. Rất lo nghĩ. Rất ăn năn.

Điều ấy chứng tỏ sợi dây đang căng thẳng đến tận cùng trong thời gian, sự việc và trí não của mỗi người. Và cả hai đang đi bằng hơi thở đứt quãng chính mình trên sợi dây căng sắp đứt kia, ở trên một vực thẳm chứa đầy gai nhọn. Nàng lắc đầu, nhắm mắt lại, và bàng hoàng với ý nghĩ là không dễ gì an toàn qua tới đầu núi bên kia vực thẳm cheo leo này bằng đường dây mong manh căng đứt này. Không dễ gì lại có một thứ may mắn kỳ diệu cứu rỗi đời người qua bờ bên an toàn một lần thứ hai. Lần thứ hai ư? Cũng có thể lần thứ nhất. Hay một lần nào đó. Hình như họ đã ném đời sống mình qua cửa sổ, và sự sống nát bét dưới kia những tầng lầu ngây ngất cheo leo. Những mớ xác hồn được vớt lên từ cái chết, đã sống lại, và phải chết đi lần nữa, nhiều lần khác, riêng tư, thầm kín, và lạ lùng nhau hoàn toàn. Nàng bỗng nhận ra và hoảng kinh một sự thật quái dị. Mỗi người không phải chỉ được chết một lần, thật êm đềm trọn vẹn, cuối đời, mà cứ mỗi đoạn đời, qua mỗi biến chuyển, mỗi khúc quanh lịch sử của đời người trầm luân, đều phải bị chết đi một lần. Một đời người, bao nhiêu lần biến động, là bấy nhiêu lần chết. Sau mỗi lần chết ấy, đời sống chừng như bi thảm hơn, nhưng cũng từ đó, rõ ràng và hưng thịnh hơn lên, ít ra là trong tính chất bi thảm đặc biệt của nó.

Vậy thì em đang chết. Anh cũng đang chết. Ta đang chết bên nhau. Đừng thắc mắc băn khoăn gì về điều sắp tới, về điều sẽ xảy ra, thái độ mình hay đối đãi từ người ngoài đưa dẫn tới. Bất cần hết rồi. Ta đang chết. Mà đã chết thì còn cần cái gì nữa. Sự liều lĩnh. Nguy hiểm. Mọi đe doạ khác, từ bốn phía. Bất cần nữa. Hãy ngồi im. Hãy chết, lặng lẽ, riêng tư, một mình, với thảm kịch dịu dàng của đời mình là không ai hay biết. Thảm kịch đó là một cánh phượng hoàng đã gãy. Một cánh phượng hoàng lê lết trên vũng bùn lầy của thế nhân. Cho yêu ma ào ào ném đá. Hãy lết tới cõi chết im lìm. Chết, hay không chết. Gục xuống, hay ta về, chắp cánh, bay lên trời vàng rực rỡ ngôi xưa. Ta đang bay về hay ta đang chết. Ta đang chết hay ta về. Chừng như cả hai đồng nghĩa. Về và chết. Vậy thì đừng nghĩ nữa. Nắm tay nhau, và lặng im. Hãy yêu cái đẹp tuyệt vời còn lại, của con chim phượng hoàng gãy cánh lết lê về trời, không bằng con đường của mây ngũ sắc, mà bằng vũng lầy tanh tưởi của người đời thù hằn, của bất khuất truyền kiếp.

"Em nghĩ gì, em?"

"Đến anh."

Người đàn ông tìm bàn tay vợ ở trên mặt bàn. Hai người đã bỗng xa lạ và mất mát nhau, quá lâu, trong biến cố. Bây giờ chợt tìm thấy nhau. Chợt nhận ra nhau, chợt ấp ôm nhau một lần cuối cùng này, trong hai con mắt nhìn lệ ứa long lanh khát thèm hạnh phúc tìm hoài chẳng tới.

*



Bây giờ, trong đầu óc người đàn ông, chỉ còn mỗi một tiếng kêu âm thầm và thống thiết, làm thế nào để có thể đi được. Đi ngay, tức thì, không chờ đợi. Mỗi phút giây tới và qua là một cơ hội bỏ lỡ, mất đi, đưa dẫn người tới chân tường, tới đường cùng. Một rồi hai chuyến bay đã tới, đã cất cánh. Một rồi hai đám khách, đã chờ, và đã đi. Đến gần trưa thì hình như những người mong muốn ra đi, những người đáng được ra đi, đều đã bay cả lên trời. Những người còn lại, là những kẻ rớt rơi, từ thượng tầng không khí xuống, và sắp sửa bị lùa vào tấm lưới khổng lồ của mặt đất tối tăm phía dưới, để đời đời không còn cơ hội nào ra thoát. Thoát. Đời sống còn lại, chỉ chừng này. Thoát. Đời sống có hay không, chỉ chừng này thôi. Thoát. Đời sống hết hay còn, chừng này thôi.

Cố không nghĩ gì đến những điều sắp tới, có sự mong đợi chờ chực kéo dài, héo mòn ray rứt nhức nhối từng tích tắc đồng hồ nhỏ nhoi.

Nhưng không nghĩ đến. Thì cái gì? Cái gì trong đầu óc nóng hơn lửa, khô hơn đá, lạnh hơn băng, thê thảm hơn tang ma và phập phồng hơn hấp hối.

Nghĩ đến cái gì? Đó. Chúng nó lại ùa ngập đến khắp cùng trí nhớ. Cái đám bùn đen lênh đênh. Chúng nó vây kín bốn bề hồn hoang tịch mịch.

Ta thấy ta ngồi trên chót núi cao, giữa đêm dài không dứt, với mưa phủ đầy trời, với gió rút xương da, với tuyệt vọng không cùng, với hoang mang không bến. Ta chết ngoài sự chết. Ta sống ngoài sự sống, ta lửng lơ bằn bặt giấc chiêm bao nặng nề, u uất kéo dài này. Chúng nó đốt lên một vầng lửa mọn. Ôi vầng lửa. Có đâu đủ ấm hai bàn tay run. Có đâu đủ sôi một nồi nước lạnh. Chẳng là gì cả. Chỉ là chút khí núi lạnh lùng u uất soi chiếu đêm gầy đỉnh núi chon von. Ta ngồi đây, nhớ em điên cuồng. Ta ngồi đây, nhớ phố vui xưa, ta ngồi đây, nhớ thương đời mình không bao giờ được sống đúng và đầy nghĩa sống như ước mơ, như mong muốn, như hình dung. Ta khoanh tay ngồi đó mặc cho ngọn gió lạnh lùng cắt da thổi tới. Mặc cho cơn lốc thổi bay ta lên cao, ném bung ta xuống đất, dằn vặt hành hạ ta quanh vũng bùn nhầy nhụa của vực thẳm trùng trùng. Làm gì thì làm đi. Ta mặc, ta khoanh tay. Hết rồi. Chỉ là còn trong hồn nỗi thù hằn không nguôi vơi và nếu sống còn, sau cơn biến động bây giờ, ta nguyền dành cả đời mình để phục hận.

Tờ điện tín màu xanh từ em đã tới, dịu dàng, xa vắng hắt hiu, nỗi nhớ bùi ngùi của mắt dõi trông theo ngàn cây xanh khuất, em sẽ về, sáng thứ ba. Sáng thứ ba. Là ngày mai. Là ngày tới. Là sau đêm dài mù mịt tối tăm này. Rồi em sẽ về. Sẽ mở toang những cánh cồng hoàng thành rêu mốc thời gian. Sẽ cho ta nghe lại nhịp đập êm ái mơ mòng của trái tim khô bao lần thao thức, từ tiếng nói gần, từ đôi môi chín, từ cánh tay nhung.

Nhưng nửa đêm. Nửa đêm lệnh hành quân chuyển tới từng giấc ngủ chập chờn. Gió đồng thổi bạt tóc khô phiên gác lạnh lùng. Lùa vội hành trang nặng nề lên vai, đi ra ngoài, tập họp. Chuyến xe rùng rùng lên đường, xé tan bóng tối. Ngày lên bàng hoàng, như một thời gian nào khác, một đời sống xa lạ, hãi hùng chợt vén lên đâu đây, trong không gian mù đục sương dày, trong khí gió âm u rét buốt, trong tiếng xe băng đường lướt bụi về xa.

Mặt trời không mọc nữa. Ngày âm u như địa huyệt. Mưa không âm vang phủ trùm bụi nước khắp vùng hoang vu gió thổi. Qua những đồi nương. Qua những khe suối. Qua những hầm hố. Qua những bụi bờ gai góc, những vực thẳm cheo leo. Chỉ còn trên là trời dưới là cây, điệp điệp trùng trùng không còn dấu tích đời, không còn dấu tích tôi, không còn chút tương quan mơ hồ giữa chính mình và đời sống bỏ lại sau lưng biền biệt.

Buổi chiều, mưa ào ào như thác đổ. Những sườn núi dốc đứng cheo leo như xé tan ra từng mảnh, trôi tuột xuống từng mảnh đất, từng cành khô, từng bụi bờ héo hon. Gió rít gào bốn phía. Mây chìm khuất trong trời. Chỉ còn màu xám chì nặng nề lạnh ngắt. Tiếng thét gầm cuồng nộ của gió mưa, của sấm chớp ầm ầm dâng lên bốn phía.

Đoàn người đi, lúc nhập thành một con rắn dài ngoằn ngoèo quanh co theo triền dốc núi cheo leo, khi tản mác vì lối đi đã mất hút trong cỏ gai rậm rạp, thỉnh thoảng mỗi người lại cảm thấy chỉ còn lại chính mình trong hoang vu gió mưa rừng chiều, mất bóng đồng đội và hành trình gian khổ.

Và tôi chỉ còn là một hình thù lẻ loi, tách rời khỏi đám đông, tách rời khỉ chuyến đi, một mình hoàn toàn trách nhiệm lấy cái sống cái chết chỉ gần nhau bằng một kẽ tóc sa chân. Không còn vấn đề, không còn trầm tư. Không còn nghĩ tưởng đến lý lẽ này và lý lẽ khác, phải hay trái, kết hợp hay chia lìa, chấp nhận hay chống đối, thoát ly hay ràng buộc, chịu đựng hay bất khuất nữa. Bây giờ thì chỉ còn mình, với mình mình. Cái tập thể đang di động quanh quất đâu đây, đã trở thành những phần tử, bên ngoài, phụ thuộc, tách rời, vô vọng. Tôi, lẻ loi, độc lập và cầm quyền lấy sinh mạng hay sự chết của riêng tôi. Đã thoáng nghĩ tới cuộc đời còn nồng nàn phía dưới. Và em. Em bây giờ đã tới. Đang tươi cười hay lệ ứa lưng tròng, nhìn ra con đường và tự hỏi tôi đâu. Hẳn em đã nghe tin tôi đi hành quân. Và tự hỏi bây giờ trong cơn mưa anh đang chìm ngập miền nào. Có lẽ em đang đêm thời gian, từng giây phút, tự hỏi ngày mai ngày mốt, ngày kia hay một ngày nào vào cuối tuần tôi đã về chưa, tôi có về không. Anh có về không hay không bao giờ nữa. Có, em ạ, cứ tin như thế, dù hai ta, mỗi người đã chết thật rồi, ở cõi bên trời vẫn cố mà tin như thế, ta sẽ công việc về phục hồi lại uy quyền tuyệt đối của đời sống ta và tương quan giữa người với người, giữa người với đời miên man. Chắc chắn là ta phải cùng về. Từ dưới vũng đất đến lên tới mặt đời. Chuẩn bị bằng máu, nước mắt, gian khổ cực nhục của cả một đời người, hy sinh đi mười năm, hai mươi năm, hay nếu cần hơn thế, cho phượng hoàng một ngày lại vẫy cánh trời cao của nó. Sao không? Và không sao. Không sao cả. Anh sẽ nghiến răng lại. Em sẽ nhắm mắt lại. Chịu đựng như ta đã chịu đựng. Chịu đựng như ta sẽ chịu đựng. Cho đến khi tìm lại được cánh thần và ta cùng bay vút trời cao.

Nhưng con đường chừng như tận cùng tôi, trước mặt là dòng suối chảy xiết, lòng suối rộng mênh mông. Không đường nào đi vòng quanh, không cây cầu nào qua bến. Chỉ còn cách là bơi qua, đắm mình xuống dòng sông sâu chảy xiết đó. Loáng thoáng bóng người đồng đội đã tìm lại dấu vết nhau bên kia bờ lau cỏ bùi ngùi. Không còn chút sức nào để chiếm ngự và điều khiển được dòng nước chảy. Nó cuốn trôi ta đi. Ta buông theo dòng đưa đẩy. Dưới kia là vực sâu, trên kia là triền núi, ta đang trôi tuột xuống dưới ấy, vũng chết, đen ngòm, với những mỏm đá nhọn vắt như răng ác thần đợi chờ. Cố nhoai người lên, một chút thôi, để lấy đà chống lại dòng nước xiết. Không được nữa, cái gì tan rồi, chới với quanh mình. Sinh lực hao mòn, ý chí tiêu tan. Thời gian chìm khuất. Đất trời mong manh. Cái gì chao chọng, lảo đảo bốn bề tăm tối. Ta đang quay, như con chong chóng giữa lòng gió độc. Và chảy xuống, xuống dần, xuống mãi phía dưới vực sâu, với nước càng lúc càng gia tăng tốc độ điên cuồng đắc thắng. Với cái gì bỗng nham nháp đầu những ngón tay đã mất hết cảm giác, ý thức. Cái gì dài chắc, và làm rát bỏng làn da. Những ngón tay níu lấy. Những ngón tay tìm thấy sợi dây kỳ diệu ràng buộc đời ta với đời người, giành giựt lấy sự sống từ sự chết. Một cọng cỏ. Có thể nào như thế. Cọng cỏ này. Cọng cỏ dai dẳng và sắc bén này. Nó như cánh cung bẫy ta là mũi tên cuối cùng lên lại cõi đời diệu vợi trên kia. Cọng cỏ bất khuất gìm sức nặng dữ dội và kỳ ảo của một đời người quý giá vô song chuyển hẳn lên cõi sống còn tuyệt vời trên ấy.

Cái khối xách và hồn, nước và máu, nặng ngàn cân chuyển lên sườn núi khô từ cọng cỏ mềm lay lắt. Hai chân đặt mốc lại bờ đời tưởng đã vĩnh viễn biệt từ. Bắt đầu lại những bước nặng nề qua núi. Chỉ một con đường dốc dựng cheo leo về trước, lên trên. Áo quần nhúng nước ướt sũng cái ba-lô chất đầy hành trang chưa mở tháo được một lần xem lại từ đầu chuyến đi, chứa đầy nước ủng, nặng thêm ngàn lần trước. Từng bước không nhấc nổi khỏi mặt đất bám lết trên sườn núi trơn như mỡ đất, đi mãi lên cao, đi mãi lên cõi nào không biết, để làm gì ngoài dự tưởng của một đời đáng lẽ phải huy hoàng bao la.

Sáu giờ chiều mới thấy lô nhô lều trại đã dựng của đoàn người đi trước trên đỉnh núi. Cơn mưa vùi toả bóng tối xuống mau mịt mù.

Rồi là bữa cơm đầu tiên của chuyến hành quân ăn nhờ những người lính vừa nấu xong nóng hổi. Cái võng ướt mềm giăng giữa hai gốc cây nương lưng đau nhức. Nằm chờ đêm qua. Nằm ru mộng buồn. Nằm quên khoảng cách. Nằm vùi gian nan. Muỗi rừng râm ran như ong vỡ tổ. Tiếng gió quật rào rào bên ngoài lều. Tiếng núi rừng uất hận kêu gào thống thiết suốt đêm thâu. Tiếng cười nói vang vang của những người đánh bài và kể chuyện hành quân lần trước bên kia lều. Tên Trung uý ái ngại hỏi:

"Đi lần đầu hả?"

"Vâng."

"Rồi sẽ quen khi đi nhiều lần, cả mọi thứ. Tụi này xem như không. Tới đâu thì tới. Luôn luôn trong tình trạng phòng thủ địch sẽ bất ngờ tấn công, nhưng cũng luôn luôn an ổn xem như sẽ không có gì tới cả."

Xem như núi rừng là nhà mình. Đêm này là thời gian riêng của mình. Uống cà-phê không, hôi khói lắm đấy, nhưng ngon nghìn lần hơn dưới phố. Uống đi rồi đánh bài với tụi tôi. Sao? Không hả, không đánh bài? Không muốn chơi hay là không biết chơi? Không biết. Yếu thế. Thôi đi, gì mà lại không biết, chắc lại nhớ nhà ngẩn người ra chẳng muốn chơi cái gì hết thảy, phải vậy không? Ờ, phải rồi, nhớ bồ muốn chết, muốn trở về, muốn bỏ đi, phải không, tôi nói rồi sẽ quen đi mà. Mặc, cứ ngồi vài ván xem, ơ kìa sao thế?

"Không sao cả."

"Nhớ quá rồi hả "

"Nhà tôi…"

"À, vợ… làm sao? Không sao đâu mà. Không mất đâu."

Giọng trả lời lạnh như nước mưa chảy ngoài lều.

"Sáng nay, nhà tôi từ xa tới. Điện tín đây."

Tên Trung uý nhìn tờ điện tín ướt dính rút từ trong túi người kia.

"Tiếc nhỉ, chắc hành quân chuyến này không lâu. Không chừng mai về."

Hắn nói đùa, mà mai về thật.

Qua một đêm rừng, sáng mai, có lệnh xuống núi. Đường đi lên cheo leo vất vả. Nhưng còn dễ đi hơn lúc xuống, sườn núi trơn như tráng mỡ. Cỏ dập nát nhờn ướt. Không một cái gì bám víu ngoài sức nặng chính mình trì lên hai chân và đầu gối. Mặc, minh đang đi xuống. Đi xuống và trở về. Em dưới ấy. Đời dưới ấy. Hạnh phúc màu xanh mà hồng rõ ràng dưới ấy. Đi mau, mau, mau lên, mau lên.

Cứ trôi xuống. Cứ tuột xuống. Không thể ngã. Không thể chết. Những người chưa được sống thì không thể được chết, dù muốn dù không chắc chắn sẽ là như thế. Xuống, xuống mãi. Nhanh nữa, nhanh thêm nữa. Kia rồi, mặt đất đã bằng. Đường núi đã bớt độ chênh. Con đường quanh co, cây cỏ hiền hoà, buổi mai mưa tạnh, mặt trời long lanh, chim ca gió thổi. Xuống nữa, tới nơi. Chắc hẳn là đoàn xe đã đón dưới kia chân núi. Chừng nửa giờ là tới trại. Chỉ nửa giờ nửa từ trại về nhà. Và em ở đó. Em ra sao. Hôm qua, hôm nay, phút này.

Nhưng không xe nào đón đợi. Từ chân núi về đường cái dưới kia, cũng trên mười cây số. Nhắm mắt, lết mà đi, bò mà đi. Bằng hai tay, bằng hai chân, bằng cả sức còn của thân thể rã rời mỏi mệt nặng trĩu.

Vậy mà cũng đã về được tới trại. Người hâm hấp sốt, trí óc lùng bùng đảo lộn. Mặc. Không kịp thay quần áo ướt nước suối từ chiều hôm qua. Ném súng và ba-lô cho một người bạn cất giữ. Chạy bay với mảnh giấy hai mươi bốn giờ ra cổng trại, cái mũ sắt che từng mảng tóc ướt đầm bùn đất bên trong. Đánh đu trên chiếc xe đò chật ních. Phố xá tới gần, gần mãi. Rồi là bến xe. Còn bao nhiêu phút nữa là nhà, là em. Còn bao nhiêu phút nữa là đời, là trời.

Chiếc xích-lô chậm chạp đi qua đường phố. Đi qua cầu. Đi qua cánh đồng, đi qua đi qua… Con ngõ dài. Bờ sông vắng. Mái nhà im. Và em đứng lên, bàng hoàng, sửng sốt như từ giấc mơ, từ mộng tưởng, và hai con mắt long lanh chừng hỏi im lìm, có phải anh về, bằng phép lạ nào, từ cõi chết, từ bên kia mút địa cầu tan vỡ chia xa.



Nguồn: Cuá»™c tình trong ngục thất. Truyện dài của Nguyá»…n Thị Hoàng. Bìa Nguyá»…n Đồng. Nguyá»…n Đình Vượng xuất bản lần thứ nhất, in tại nhà in riêng của nhà xuất bản, 38 Phạm NgÅ© Lão, Sài Gòn. Phát hành ngày 1 tháng 4 năm 1974, số lượng ấn bản 3.00 cuốn, giấy phép xuất bản số 5630 PTUDV/KSALP/TP, Sài Gòn ngày 22 tháng 12 năm 1973. Tác giả giữ bản quyền. Bản Ä‘iện tá»­ do talawas thá»±c hiện.