Văn há»cVăn há»c nÆ°á»›c ngoà iXã há»™iÄồng tÃnh luyến ái trong xã há»™i hiện đạiLoạt bài: Phá»ng vấn của talawas
1.1.1990
Michael Sollorz
„Tất cả bắt đầu bằng đối thoại, cả vỠnhững sợ hãi và định kiến của bản thân.“
Phá»ng vấn nhà văn Äức Michael Sollorz
Hồ Phạm Huy Äôn thá»±c hiện
Äặng Hoà ng dịch
Talawas: Thưa anh
Michael Sollorz, anh là tác giả nhiều cuốn sách và hàng loạt bài
báo và bài phát thanh. Sự đồng tính luyến ái của bản thân anh thể
hiện trong các tác phẩm ấy rõ rệt đến mức nào? Việc anh là người
đồng tính có tầm quan trọng như thế nào trong sáng tạo của anh với
tư cách nhà văn?
Michael Sollorz: Từ hai mươi năm
nay tôi có mặt trên văn đàn, công khai với tư cách một nhà văn
đồng tính luyến ái, và sử dụng khuynh hướng tình dục của mình như
một cơ hội để đưa mảng kinh nghiệm sống này vào trong sáng tác của
mình. Theo tôi, mỗi nhà văn nghiêm túc trước hết nên viết về những
điều mà bản thân họ biết rõ nhất. Trong trường hợp của tôi, bên
cạnh tình yêu dành cho người cùng giới, đó là những kỷ niệm sâu
sắc của một thời thanh niên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng như
sự bắt đầu đột ngột của một cuộc sống trong chế độ tư bản sau
chiến thắng bất thần của nó. Tôi xem sự hiện diện của đồng tính
luyến ái trong những tác phẩm của mình như một yêu cầu của tính
trung thực. Nếu tôi đem lòng yêu các cô gái đẹp, chắc chắn tôi
cũng sẽ viết về chuyện ấy. Tôi viết về tình yêu giữa đàn ông, bởi
tôi hiểu nó rõ hơn. Ngoài một số đặc điểm xã hội ra, nói chung
không có gì khác nhau cả. Tình yêu là tình yêu. Hạnh phúc và khổ
đau như nhau. Cuốn sách thành công nhất của tôi, tiểu thuyết
Abel và Joe, kể về một chuyện tình giữa hai người đàn ông.
Abel lớn lên ở Ðông Ðức, còn Joe là người Tây Ðức. Truyện xáy ra
trong bối cảnh của những biến động đầy kịch tính của thành phố
Đông Berlin cũ, và như vậy, cũng đề cập đến nỗi nhớ, nhớ mảnh đất
của một thời thiếu niên nay không còn nữa. Những nhân vật của tôi
không còn coi đồng tính luyến ái là một vấn đề nữa, mà là cuộc
sống bình thường hàng ngày của họ. Những khó khăn của họ là khó
khăn chung của mọi người. Kiếm tiền, theo đuổi lý tưởng, cái chết
- và vô số những khó khăn không tên khác. Nếu như sự đồng tính
luyến ái của tôi có một ý nghĩa đặc biệt cho công việc viết văn
thì có lẽ đó là một sự nhạy cảm cao độ trước đổ vỡ, lừa dối và
nhầm lẫn - những điều đã xảy ra trong quá khứ Đông Đức của tôi.
Lúc trẻ, tôi nghĩ tôi sẽ sống đến già dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa. Nhưng cuộc đời lại không như thế. Lúc trẻ, tôi cũng nghĩ
tôi sẽ sống cùng vợ con đến già. Cả trong điểm này cuộc đời cũng
không như tôi tưởng. Ðược trải qua những thay đổi như thế thật vô
cùng quí giá đối với một nhà văn.
Talawas: Anh có
mong là độc giả cũng ghi nhận và chia sẻ cái tầm quan trọng đó
không?
Michael Sollorz: Có chứ. Trước tiên tôi mong
muốn hàng ngàn độc giả đồng tính của tôi tìm thấy một phần của
hiện thực cuộc sống, cũng như những trải nghiệm của họ. Một mặt
khác, tôi cũng muốn những độc giả dị tính của tôi nhận ra nhiều
điểm của bản thân và đồng thời nhận biết rằng những hình thức tình
yêu khác nhau thực ra không có gì khác nhau cả. Tôi mong rằng
những độc giả dị tính cũng đọc chuyện tình giữa hai người đàn ông
một cách hiển nhiên như những độc giả đồng tính từ bao thế kỷ nay
vẫn đọc „Romeo và Julia“ vậy. Trong văn học Mỹ chẳng hạn thì ngày
nay sự phân chia này đã ít đi rất nhiều.
Talawas:
Văn chương đồng tính, nói như vậy có ổn không? Ở Đức có loại văn
chương ấy không?
Michael Sollorz: Tôi cho rằng chỉ
có văn hay hay văn dở mà thôi. Từ xưa tới nay, nhiều tác giả đồng
tính luyến ái chưa bao giờ lấy khuynh hướng tình dục của mình làm
đề tài viết. Và cũng có một loạt những tác giả đồng tính nổi tiếng
và quan trọng, như André Gide và Thomas Mann, đã viết về đề tài
này. Ở Ðức và Áo có một số nhà văn đồng tính được công nhận, có
sách in ở những nhà xuất bản lớn hàng đầu, và phần tác phẩm đồng
tính của họ cũng được không ít độc giả dị tính biết đến. Tuy
nhiên, đa số những tác giả đồng tính viết về đồng tính luyến ái
thường ra sách tại khoảng năm, sáu nhà xuất bản chuyên về đề tài
này, cả trong lĩnh vực khoa học và lịch sử. Những nhà xuất bản này
chủ yếu phục vụ thành phần độc giả đồng tính - theo tính toán thì
chỉ riêng ở Ðức đã có khoảng 8 triệu độc giả, một nhóm độc giả
tương đối lớn.
Talawas: Nó có nguy cơ tự phong toả
mình không? Hay nguy cơ tự đắm mình và vong thân trong cái mác
khác thường, trong cái thế quyết tồn tại của nó?
Michael Sollorz: Sách hay và có chất lượng văn học,
bất kể với nội dung gì, bao giờ cũng chỉ tồn tại bên lề thị trường
sách. Khi một tài năng lớn, bất kể đồng tính hay không, trong tác
phẩm của mình vượt qua những vấn đề cá nhân mà hướng tới thế giới,
hướng tới những giá trị muôn thuở mà tất cả mọi người đều quan
tâm, thì sự tự phân chia ranh giới sẽ kết thúc. Đây cũng là một
câu hỏi của thời gian. Ðến một lúc nào đó những nhìn nhận khác
nhau về sở thích tình dục sẽ biến mất, rồi văn chương hay sẽ chỉ
còn được nhìn nhận là văn chương về con người và cuộc sống mà
thôi. Người ta sẽ thôi không hỏi: tác giả làm tình với ai, mà chỉ
hỏi: tác giả có thông điệp gì cho độc giả không?
Talawas: Trong sáng tạo nghệ thuật, ít nhất là tại
các xã hội phương Tây ngày nay, thì khác-người vừa là một tiền đề
đã thành thông lệ, và nhiều khi cũng vừa là cứu cánh. Anh cảm nhận
việc mình khác-người ra sao?
Michael Sollorz: Thật
ra, tôi hầu như không còn thấy mình khác biệt với mọi người nữa.
Có thể vẫn có người coi tôi là khác-người, nhưng họ đã nhầm. Tôi
cảm nhận sự khác biệt trước hết theo lý trí. Chẳng hạn khi tôi
nhìn những đặc quyền của bản thân tôi. Ðặc quyền được biến công
việc tôi vẫn xem là quan trọng nhất thành nghề nghiệp của mình.
Ðặc quyền có một thân thể lành lặn. Đặc quyền được sống ở một khu
vực trên trái đất không có chiến tranh, nơi mọi người no đủ. Chỉ
với ba đặc quyền này thôi tôi đã có thể liệt mình vào một thiểu số
nhỏ, có một cuộc sống khác hẳn với đa số mọi người trên trái đất
này. Mỗi buổi sáng tôi lại tâm niệm điều này và cố gắng sống một
cách biết ơn. Còn sự khác biệt vẫn được áp đặt cho người đồng tính
thì phải nói là bản thân tôi không còn cảm nhận nữa. Ðược như thế
cũng nhờ Berlin, một thành phố lớn và rộng lượng. Tôi không gặp
phải thái độ thù địch, không ở thành phố này, cũng không trong
giới bạn bè, những người như một gia đình lớn của tôi, không trong
công việc cũng như trong môi trường các nhà xuất bản và ban biên
tập - trong guồng máy văn hóa văn nghệ, đồng tính luyến ái từ lâu
đã không còn là điều gì đặc biệt nữa.
Nhưng bạn gợi cho tôi một
suy nghĩ. Thật sự trong một khía cạnh tôi vẫn còn có cảm giác bị
phân biệt đối xử. Một số tờ báo tư sản lớn hầu như không muốn biết
đến các tác phẩm của tôi. Các tác giả viết về đồng tính luyến ái
một cách công khai khác đều gặp vấn đề này. Nếu tôi viết về tình
yêu nam nữ thì chắc tôi sẽ dễ dàng được công nhận và đánh giá cao
hơn. Qua đó có thể khẳng định lại: sự khác-người trước hết là một
áp đặt của người khác.
Talawas: Anh hâm mộ những
nhà văn đồng tính nào?
Michael Sollorz: Thật khó
trả lời câu hỏi này. Có biết bao nhiêu nhà văn đồng tính luyến ái.
Hồi còn là một độc giả trẻ tôi rất mê những tác phẩm của James
Baldwin. Và đến giờ những vở kịch của Tennessee Williams vẫn còn
đầy hấp dẫn đối với tôi.
Talawas: Tác phẩm của họ
có gì khiến anh lưu ý nhất?
Michael Sollorz:
Baldwin là da đen và đồng tính luyến ái, lúc đương thời ông luôn
có cảm giác bị kỳ thị gấp bội. Vì thế nửa cuối cuộc đời mình ông
gần như sống hẳn ở Âu châu, nơi cởi mở hơn. Vấn đề chủng tộc và
vấn đề đồng tính luyến ái có rất nhiều điểm tương đồng. Kinh
nghiệm của sự bị chối bỏ này đã giúp ông có được một sự nhạy cảm
nghệ thuật cao độ. Thêm vào đó ông là một người hết sức sùng đạo,
nhìn cuộc đời đa dạng với sự khiêm nhường và bao dung, luôn gắng
coi những người quanh mình như anh em và coi mình có trách nhiệm
với họ. Những tác phẩm của ông luôn đầy hơi ấm và sự buồn bã khôn
tả, trái hẳn với rất nhiều tay khuyển nho khôi hài. Tôi rất quí
cái nhìn tâm lý sắc bén ở Tennessee Williams. Với rất ít thủ pháp,
ông đưa sự đày ải nhục nhằn của đời người, tham vọng, sự cô đơn,
tình yêu, sự nghiện ngập, quá trình lão hóa và cái chết lên sân
khấu và bao giờ cũng nêu rõ những vấn đề của bối cảnh xã hội: ai
có tiền tài và ai có quyền lực.
Talawas: Anh có một
cô con gái đã sắp đến tuổi trưởng thành. Vậy là mãi đến khi có
quan hệ với người khác giới thì khuynh hướng tình dục đồng tính ở
anh mới được khẳng định?
Michael Sollorz: Vâng. Con
gái tôi năm nay 19 tuổi, cháu đang thi tú tài. Vào tuổi 15 tôi bắt
đầu quan hệ với cả nam lẫn nữ, như thế vài năm mà không bị ép buộc
phải quyết định cho giới nào cả. Mãi khi đã chớm hai mươi và đang
chung sống với mẹ cháu, tôi mới rõ là đàn ông hấp dẫn tôi hơn. Tôi
yêu cô ấy, muốn xây dựng gia đình cùng cô ấy và chúng tôi quyết
định có con với nhau. Nhưng khi tôi thấy rằng tôi nghĩ đến đàn ông
trong những lúc ngủ với cô ấy, tôi đã chấm dứt tình trạng gian dối
đó và chia tay với cô ấy và cháu. Quyết định còn có những nguyên
nhân phụ nữa. Vào thời điểm đó tôi đã trải qua hai nghề, thợ lợp
nhà và nhân viên nuôi thú ở thảo cầm viên, và sắp phải thi hành
nghĩa vụ quân sự. Tôi đã quyết là sau khi xuất ngũ sẽ không đi làm
ở bất cứ công sở nào nữa mà tôi muốn sống với nghề văn. Như vậy
cuộc chia tay nói trên chỉ là một phần trong nhiều thay đổi cực
đoan. Tôi cần phải sống một mình để có thể trả lời được cho bản
thân: tôi có khả năng làm gì và tôi là ai. Cô ấy bị xúc phạm rất
nặng, vì thế nhiều năm liền chúng tôi không có quan hệ gì ngoài
việc tôi trả khoản tiền cấp dưỡng cho cháu. Giờ đây chúng tôi đã
hòa giải với nhau và gặp nhau thường xuyên, nhất là cháu và tôi.
Talawas: Quan hệ tình cảm giữa những người đàn ông
đồng tính nhìn chung cũng dựa trên những giá trị như ở quan hệ hôn
nhân dị tính, hay còn có những yếu tố khác biệt gì rõ rệt?
Michael Sollorz: Tôi quen nhiều người đồng tính
sống độc thân. Nó có nhiều ưu điểm, chẳng hạn người ta không phải
thề nguyền chung thủy với ai cả và có thể hưởng thụ tự do tình
dục, điều rất hấp dẫn với những người ở thành phố lớn. Tuy nhiên
tôi cũng nhận thấy rằng ngay cả những người tuyên bố thích sống
một mình cũng rất khao khát có được một người bạn. Trong khi cuộc
sống chung của các cặp vợ chồng dị tính thường được gắn bó bởi con
cái và trách nhiệm nuôi con, thì sự bền vững của các quan hệ đồng
tính phần lớn chịu chi phối của ý muốn cá nhân. Bản thân tôi là
một người có khuynh hướng trung thành và muốn có những quan hệ lâu
dài. Người bạn trai sau cùng của tôi đã chung sống với tôi tám năm
trời. Chúng tôi đã chia tay nhau nhưng vẫn là bạn chí cốt của
nhau. Tôi quen người bạn đời hiện nay đã gần sáu năm rồi. Mỗi lần
ngắm anh ấy, tôi lại thấy đam mê như ngày đầu, có khi còn hơn thế
nữa. Ðôi khi tôi tin rằng anh ấy là mối tình lớn của đời tôi. Ngay
từ đầu chúng tôi đã cố gắng xây dựng một mối quan hệ dựa trên cơ
sở sự đùm bọc che chở, tính sáng tạo, sự tin tưởng và tôn trọng
nhau, chứ không dựa trên sự gò bó của chung thủy tình dục. Chúng
tôi thấy rằng về lâu dài ham muốn sinh lý không thể chỉ gói gọn
cho một người duy nhất được. Nhiều người khác cũng có kinh nghiệm
như thế. Chúng tôi có hai người bạn đã lớn tuổi, sống với nhau đã
40 năm và cũng cùng chia sẻ quan điểm. Tôi ghét dối trá và đạo đức
giả. Mỗi người đều có quyền tự quyết định mình làm tình với ai,
với điều kiện anh ta không dối trá bạn mình và không quên nguy cơ
của các bệnh sinh lý.
Talawas: Anh công khai bộc lộ
(coming out) vào thời Cộng Hoà Dân Chủ Đức còn tồn tại, mà thời đó
thì đồng tính luyến ái không được hoan nghênh lắm thì phải. Cụ thể
anh đã làm gì? Và hậu quả ra sao?
Michael Sollorz:
Thật sự dư luận Ðông Ðức đã im lặng một thời gian dài về đề tài
này, tận đến những năm 80. Tôi cho rằng điều đó không xứng đáng
với một nước xã hội chủ nghĩa luôn luôn quảng bá đại đồng không
loại trừ một ai. Vào những năm 80 bắt đầu có những chuyển biến
cùng lúc trên nhiều lĩnh vực. Chẳng hạn ở những thành phố lớn đã
xuất hiện những nhóm hoạt động đồng tính luyến ái dưới sự đỡ đầu
của các hội sinh viên Tin lành. Ở đây những người đồng tính gặp gỡ
và trao đổi với nhau về cuộc sống của họ. Khi người ta có cảm giác
cô đơn và bị cô lập thì sự trao đổi này đã là một bước vô cùng
quan trọng. Ðối với tôi cũng thế. Việc những nhóm này được nhà thờ
đỡ đầu có thể xem là một trò đùa của lịch sử, vì đa số thành viên
và khách đều không theo đạo, thậm chí còn là đảng viên, và không
hề quan tâm gì đến tôn giáo. Họ chỉ cần một địa điểm phòng ốc để
gặp nhau mà thôi. Thoạt đầu chính quyền không cho họ sử dụng phòng
ốc, nghi ngờ họ theo đuổi những mục đích chống nhà nước. Sau này
họ nhận ra sai lầm và cho phép những nhóm mới được hoạt động,
chẳng hạn trong phạm vi của Đoàn thanh niên FDJ. Sự nghi kỵ của
chính quyền dẫn đến việc Bộ an ninh quốc gia tuyển mộ một số người
làm tay trong tường trình về hoạt động của những nhóm này. Chuyện
này cũng xảy ra với tôi, và tôi cũng tường trình lại những điều
tôi vừa nói: không có phong trào chống nhà nước nào hết, mà chỉ có
nhu cầu trao đổi giữa những con người đang thấy mình bị coi khinh
và cho ra rìa.
Ðồng thời tôi cũng thôi không giấu diếm sự đồng
tính luyến ái của mình nữa, kể cả trong đời tư lẫn trong nghề
nghiệp. Tôi đã gặp những phản ứng rất có thiện ý. Nỗi lo sợ trước
khi công khai tuyên bố thường rất lớn, nhưng sau đó người ta sẽ
thấy nhẹ nhõm, và thường sẽ gặp những quan tâm thật sự của người
xung quanh. Chẳng hạn, hồi đó tôi là nhà báo, cộng tác viên ở đài
truyền thanh. Sau khi tôi bộc lộ, ban biên tập đã nhanh chóng giao
cho tôi tất cả những việc liên quan đến đồng tính luyến ái, chẳng
hạn phê bình sách, xem kịch, hoặc thực hiện phỏng vấn. Trong những
năm 80, sự câm lặng trong xã hội Ðông Ðức đã được phá vỡ.
Talawas: Theo anh, những thành tựu quan trọng nhất
của phong trào đồng tính luyến ái cho đến nay là những gì?
Michael Sollorz: „Phong trào“ có nghĩa là người ta
cùng nhận ra và tuyên bố công khai những đòi hỏi của mình. Qua đó,
dần dần đồng tính luyến ái được chấp nhận hơn. Trong 20 năm vừa
qua đã xuất hiện nhiều phim ảnh, sách báo cũng như các hiệp hội.
Lấy ví dụ bệnh SIDA, tai họa xuất hiện từ đấu những năm 80. Giới
đồng tính nam, nhóm có nguy cơ lây bệnh cao nhất, lần đầu tiên trở
thành những người cộng tác quan trọng của nhà nước, vì họ được xem
là những người thích hợp nhất để tổ chức việc tuyên truyền phòng
chống bệnh này một cách chuyên nghiệp trong cộng đồng của họ. Nhà
nước đã đầu tư rất nhiều vào các dự án và tổ chức tự giúp của giới
đồng tính. Qua công việc phòng chống bệnh, dư luận cũng tranh luận
công khai và rõ ràng hơn về phong cách sống và tình dục, cả trên
báo chí và truyền hình. Bầu không khí tự do hơn cũng làm nhiều
nhân vật tên tuổi hoạt động nghệ thuật và chính trị, ví dụ gần
nhất là ông thị trưởng Berlin, tự tin bước ra công nhận trước quần
chúng sự đồng tính luyến ái của mình. Bầu không khí này cũng hổ
trợ cho lớp trẻ khi họ bắt đầu khám phá bản thân và sự đồng tính
luyến ái của mình. Lớp trẻ ngày nay không còn đơn độc nữa - giờ
đây đời sống đồng tính luyến ái đã hiện hình công khai với một sự
đa dạng muôn màu muôn vẻ.
Talawas: Hai năm trước
anh có đến miền Nam Việt Nam và tiếp xúc với xã hội chúng tôi, là
nơi không ai công khai nhắc đến đồng tính luyến ái, mặc dù một số
tụ điểm tương đối có quy mô của giới gay Việt Nam đã bắt đầu hình
thành ở các thành phố lớn, và bây giờ họ còn có cả một vài trang
web rất đông người truy cập. So sánh với tình hình ở Cộng Hoà Dân
Chủ Đức trước đây, anh thấy có điểm gì khác và điểm gì tương đồng?
Michael Sollorz: Sự câm lặng, sự dằn vặt kinh khủng
của người đồng tính phải dấu mình làm tôi nhớ đến Ðông Ðức rất
nhiều. Các disco và quán xá cũng giống như ở Ðông Ðức vậy, chỉ có
điều so với mức thu nhập bình quân những quán đồng tính hồi đó ở
Ðông Berlin không đắt đỏ bằng và không có nhiều khách du lịch
phương Tây như ở Việt Nam. Theo tôi một sự khác nhau quan trọng là
vai trò rất lớn của gia đình ở Việt Nam, sự kính trọng và tuân
phục bố mẹ, và sự mong muốn bản thân sẽ có con cái. Ở Ðông Ðức tất
cả những yếu tố này không còn mạnh như thế nữa. Ở Sài gòn, tôi hỏi
một thanh niên vì sao cậu không kể cho bố mẹ biết cậu là đồng tính
luyến ái, cậu đáp: “Tôi không muốn làm bố mẹ tôi khổ.” Ở Ðông Ðức
ngày xưa chắc tôi sẽ chẳng bao giờ nhận được một câu trả lời đầy
quan tâm và tôn trọng như thế. Ngay hồi đó sự ích kỷ phương Tây đã
lớn hơn. Lớp trẻ không phục tùng cha mẹ lắm và đặt nhu cầu bản
thân lên trên hết. Mọi cái đều có ưu điểm và nhược điểm. Tôi cho
rằng một quan hệ gia đình gắn bó sẽ rất tốt đẹp, nếu như qua đó
một thiếu nữ có thể khóc và kể với bố mẹ rằng cô ấy yêu phụ nữ, và
bố mẹ cô vẫn thông cảm và nói: dù thế nào đi nữa thì con vẫn là
con của bố mẹ. Ðược như thế thì thật hay, một sự đùm bọc che chở
ngay cả khi một cá nhân khác biệt với số đông. Sự đùm bọc che chở
này có thể đem lại hạnh phúc cho biết bao nhiêu thanh niên trên
thế giới, và ngăn được biết bao nhiêu cuộc tự vẫn. Một điểm khác
nhau nữa là điều kiện nhà cửa. Hồi 20 tuổi tôi đã có một căn hộ
nhỏ, qua đó tôi có thể sống mà không bị quấy rầy. Rồi khả năng di
chuyển chỗ ở. Xét về mặt tài chính, những thanh niên đồng tính ở
nông thôn Ðông Ðức chắc sẽ dễ dàng chuyển đến những thành phố lớn
như Berlin hay Leipzig hơn, nơi mà họ được sự vô danh của một
thành phố lớn bảo vệ. Tóm lại đây là một điểm khác nhau trong khả
năng kinh tế.
Talawas: Ngay tại các xã hội phương
Tây với tất cả truyền thống khai trí, cộng thêm tinh thần cởi mở,
là thứ được ghi trong hiến pháp và cũng đã ăn tương đối sâu vào
nếp văn hoá, mà người ta cũng không thật sẵn lòng yêu mến kẻ đồng
loại, nếu đấy là kẻ đồng tính. Vậy theo anh, phong trào đồng tính
có khả năng gì ở xã hội Việt Nam, là nơi mà đủ thứ truyền thống,
trong đó có những truyền thống rường cột của quốc gia, khó lòng
tạo điều kiện cho một khả năng như vậy, và hơn nữa gần như thiếu
toàn bộ những phương tiện cần thiết để một phong trào như thế có
thể hình thành và được củng cố? Điều gì là tối cần thiết cho phong
trào ấy?
Michael Sollorz: Thật ra tôi không có
quyền phán xét về vấn đề này. Nếu tôi có nói thì chắc chỉ lộ rõ
hơn sự hiểu biết khiếm khuyết của tôi về xã hội Việt Nam mà
thôi.Vì thế tôi chỉ muốn đề cập đến một vài khía cạnh. Tôi cho
rằng vấn đề công luận là vấn đề quan trọng hàng đầu. Mỗi lần bạn
bè dịch cho tôi các bài viết trên báo chí Việt Nam về đề tài đồng
tính luyến ái, tôi lại thấy nó chỉ được đề cập đến cùng với những
chuyện không hay như SIDA, mãi dâm và bệnh tật. Những bài báo này
có tương ứng với kiến thức hiện nay của các nhà báo, các nhà xã
hội học và các nhà tình dục học nữa không? Có những ý kiến khác,
những vốn hiểu biết sâu xa hơn thế không? Nếu có, thì ai có? Và
bằng cách nào, qua những kênh nào để có thể công bố những hiểu
biết này trên sách báo, truyền thanh và truyền hình? Tôi không thể
và không muốn tin là toàn bộ những người Việt Nam có suy nghĩ và
tò mò hiểu biết như các bạn đều sống ở nước ngoài cả. Tôi còn nhớ
ở Ðông Ðức vào năm 1988 đã xuất hiện một cuốn sách trong đó tác
giả phỏng vấn 14 người đàn ông đồng tính với tuổi tác và nghề
nghiệp khác nhau về đời sống thường ngày, về những mơ ước và kinh
nghiệm sống của họ. Cuốn sách bán rất chạy và đã động viên những
người đồng tính rất nhiều, cũng như giúp họ hiểu rằng họ là những
công dân khỏe mạnh đầy đủ phẩm chất của tổ quốc mình. Vào thời
điểm đó hàng chục nghìn người Ðông Ðức đã bỏ nước ra đi, trong đó
có cả những người đồng tính, và không chỉ vì lý do kinh tế. Tôi
cho rằng cuốn sách nói trên đã góp một phần nhỏ làm quê hương tôi
thành một nơi đáng sống cho mọi người. Ai sẽ thu thập những kinh
nghiệm sống hiện nay của người đồng tính Việt Nam vào một cuốn
sách? Nhà xuất bản nào sẽ phát hành cuốn sách này, phát hành tại
Việt Nam, để báo chí có thể bàn luận về cái hiện thực được phản
ánh qua nội dung sách? Những cuộc phỏng vấn như chúng ta đang làm
hôm nay đây rất thích hợp để tiếp cận với hiện thực cuộc sống.
Trước đây, sách dịch ở Ðông Ðức được xem là vô giá, không chỉ về
mặt tiền bạc. Tôi tin chắc sẽ có những nhà xuất bản nước ngoài sẵn
sàng không lấy tiền bản quyền để ủng hộ những người đồng tính Việt
Nam.
Theo kinh nghiệm bản thân, như đã kể, tôi nghĩ chính quyền
Việt Nam ban đầu sẽ rất nghi kị những cố gắng gây dựng một công
luận cho vấn đề đồng tính luyến ái, dù họ không có lý do gì để
nghi kị cả. Ðể xóa bỏ sự nghi kị này theo tôi nhất thiết cần phải
có sự đối thoại giữa hai phía, qua đó làm rõ rằng hàng triệu người
đồng tính luyến ái ở Việt Nam cũng là những công dân và họ có
quyền đòi hỏi sự quan tâm ủng hộ của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Những cá nhân nào có khả năng mở đầu và cầm trịch cuộc đối thoại
với phía chính quyền, chẳng hạn với hội phụ nữ hay các hội nghệ
sĩ? Bất cứ phong trào nào cũng bắt nguồn từ những cá nhân, những
người tìm kiếm liên kết và dũng cảm bước ra trước công chúng để
nói về những trải nghiệm của mình. Mọi sự đều bắt đầu bằng trao
đổi, trao đổi cả về những sợ hãi và định kiến của bản thân mình.
Talawas: Xin cảm ơn anh Michael Sollorz.
Michael Sollorz, sinh năm 1962, sống tại Berlin. Sách
đã xuất bản: “Abel và Joe”, “Tiên tri”, “Nhà vô địch Đức môn ngoại
tình”, “Nhật ký của Benjamin”.
Phụ
lục:
Những nhà văn đồng tính hoặc viết về đồng tính tiêu
biểu
James Baldwin (1924-1987), Mỹ
Giorgio Bassani
(1916), Ý
Harold Brodkey (1930-1996)
William S.Burroughs
(1914), Mỹ
George Byron (1788-1824), Anh
Jean Cocteau
(1889-1963), Pháp
E.M. Forster (1879-1970), Anh
Michel
Foucault (1926-1984), Pháp
Jean Genet (1910-1986),
Pháp
André Gide (1869-1951), Pháp
Allen Ginsberg
(1926-1997), Mỹ
Witold Gombrowicz (1904-1969), Ba Lan
Juan
Goytisolo (1931), Tây Ban Nha
Julien Green (1900-1998),
Mỹ/Pháp
Christopher Isherwood (1904-1986), Anh/Mỹ
Jack
Kerouac (1922-1969), Mỹ
Wolfgang Koeppen (1906-1996),
Đức
Michael Kusmin (1875-1936), Nga
Comte de Lautréamont
(1847-1870), Pháp
Klaus Mann (1906-1949), Đức
Thomas Mann
(1875-1955), Đức
Christopher Marlowe (1564-1593), Anh
Herman
Melville (1819-1891), Mỹ
Henry Miller (1891-1980), Mỹ
Yukio
Mishima (1925-1970), Nhật
Robert Musil (1880-1942), Áo
Péter
Nádas (1942), Hung
Pier Paolo Pasolini (1922-1975), Ý
Gaius
Petronius Arbiter (?-66), La Mã
August Wilhelm Graf Platen
(1796-1835), Đức
Platon (427-347 tr.c.n), Hi Lạp
Marcel
Proust (1871-1922), Pháp
Manuel Puig (1932-1990),
Argentina
Arthur Rimbaud (1854-1891), Pháp
Michel Tournier
(1924), Pháp
Paul Verlaine (1844-1896), Pháp
Oscar Wilde
(1854-1900), Ái Nhĩ Lan
Tennessee Williams (1911-1983),
Mỹ
Viginia Woolf (1882-1941), Anh
Marguerite Yourcenar
(1903-1987), Pháp
Stefan Zweig (1881-1942), Áo