1. Khoan cắt bê tông [1] : một tập thơ hỗn
Một cái tựa bưng thẳng từ vỉa hè: KH CAT BTONG 0919136640. Một cái bìa nâu đen đỏ nguệch ngoạc chữ, con số, hình vẽ cũng chỉ thấy trên các mảng tường công cộng. Một cỡ khổ A4 gấp đôi theo chiều dọc cực
design. Hỗn hợp 54 tác phẩm của 23 nhà thơ không cùng hội nhóm không ai giống ai cả đề tài lẫn cảm hứng, tập thơ đập vào mắt như một mớ hỗn độn, hỗn tạp, hỗn hào. Nhưng chính cái
hỗn là nam châm níu kéo tôi.
Những cái tựa bí hiểm, ngông cuồng. Những cái tựa làm bừng sáng cả bài thơ. „Tháng Tư gãy súng“ (Bùi Chát), „Đắm bay“ (Đinh Linh), „Đùi tôi lông lá tại“ (Đỗ Kh.), „Bọn mày tưởng tao là ai“ (Lý Đợi), „Vẻ đẹp hùng hổ“ (Lynh Bacardi), „4 bài không thơ“ (Nguyễn Đăng Thường), „Đụ vỡ sọ“ (Nguyễn Quốc Chánh), „Rất nhiều đồ chơi, rất nhiều em bé“ (Phan Bá Thọ), „Ghét-nhìn a(I) tao cũng muốn đánh“ (Vương Văn Quang)…
Những kỹ thuật thường thấy trong các trường phái hậu-hiện-đại: vắt dòng, nhại giọng, giễu nhại, cut up,... Những hình thức phóng túng: thơ xen lẫn văn xuôi (Bùi Chát), ảnh kèm bình luận (Đỗ Kh.), căn cước với
ngày sanh định hướng tình dục tình trạng gia đình… và ảnh (rởm) (Đỗ Kh.), kinh thánh (rởm) (Lý Đợi), thư
email (Nguyễn Đăng Thường),
từ điển tiếng Việt phổ thông (Nguyễn Tôn Hiệt),
tâm thư đánh số từ 1 đến 7 (Nguyễn Tôn Hiệt)…
La liệt những ký hiệu tối kỵ trong thơ truyền thống vốn mượt mà thuần khiết:
dada cheets yeeur vee, dấu * % # $ &, tiếng Anh
condom,
freedom,
Game Modes, những từ vô nghĩa
lauli lonni,
sisi911, các con số, các dấu ngoặc ( ) [ ], chữ viết thẳng viết nghiêng viết hoa, dấu chấm phảy xuống dòng không theo qui luật.
Loang loáng những cái nháy mắt, những tiếng gọi nhau:
Đặng Đình Hưng [the „dada“ Bird] Và con thuyền đã gặp „bến lạ“ trong một chiều mưa… (Đặng Thân),
a… xiu ha đang chút chích tôi viết tặng cho thi sĩ Bùi Chát (Huỳnh Lê Nhật Tấn),
Ê, tao đây… bọn mày đâu? Với N.Q.C (Lý Đợi),
Từ bức collage âm nhạc Từ một giọt nước của Hoàng Ngọc-Tuấn. Để dỗ dành Nguyễn Quốc Chánh và Đinh Linh – hai ông thầy dạy tôi làm thơ (Miên Đáng),
Đinh Linh viết „Vesicle“ là chữ đẹp nhất trong Anh ngữ… (Nguyễn Quốc Chánh),
…vang vọng trong đầu lời ca: đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt… (Nguyễn Quốc Chánh).
Một tinh thần
bên lề và một cơn khát sáng tạo: biến
Khoan cắt bê tông thành một phòng thí nghiệm thơ. Với các tác giả của tuyển tập, đưa các chất liệu, hình thức, kỹ thuật mới vào thơ truyền/chính thống (hay ôm mộng truyền/chính thống), không phải để cạnh tranh với nó, mà để lật đổ nó. Cự tuyệt chính trị xã hội đạo đức, trước hết
Khoan cắt bê tông cự tuyệt thơ. Không mang cho người đọc nghỉ ngơi lẫn bình yên, nó buộc họ xem lại bản chất và định nghĩa thơ. Phải chăng thơ vẫn là
hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh, có nhịp điệu, vần điệu để thể hiện ý tưởng và cảm xúc [2] ? Nói cách khác, với
Khoan cắt bê tông, văn học Việt Nam đang trở nên
đa nguyên [3] , để câu hỏi
thơ là gì không có lời giải đáp duy nhất.
2. Nguyễn Quốc Chánh: „Những công dân toàn cầu bị kẹt đạt ở hẻm 47“
Trong cả tập, bài thơ này của Nguyễn Quốc Chánh hiện lên như điển hình của
không-thơ. Một cái tựa quá dài, cấu trúc như một câu hoàn chỉnh với lần lượt chủ ngữ động từ bổ ngữ, lại ở thể bị động. Hai dấu huyền, ba dấu nặng, hai dấu hỏi liên tiếp không cho nó cái bay bổng thường thấy trong thơ. Viết dưới dạng văn xuôi với một khổ duy nhất, „Những công dân toàn cầu…“ không mang dáng dấp của một bài thơ, thơ vắt dòng cũng không, thơ tự do cũng không. Đó là tập hợp của những câu dài, đôi khi rất dài, ví dụ câu đầu tiên:
Chúng tôi là những công dân toàn cầu, bởi đứa nào cũng có tóc, răng, một vài đứa còn bày trò nuôi râu, bày đặt trọc đầu và hầu hết đều lủng lẳng điện thoại. Cũng vẫn những cấu trúc sơ đẳng, ngay cả khi chúng lê thê với chủ ngữ, động từ, bổ ngữ:
Chúng tôi cực kỳ thính mũi, nhất là đánh hơi các loại mùi thúi. Chúng tôi hả hê với chữ Being lắm, vì nó là ngôn ngữ 13 Cách Của Con Chim Đen. Chúng tôi hãnh diện với chữ Trảm vô cùng, vì nó là ngôn ngữ của Tam Quốc Chí. Nhưng chúng tôi cực kỳ hổ thẹn với chữ Bác âm ỉ, vì nó là ngôn ngữ Chí Phèo. Từ vựng thuần Việt, khô khốc, tầm thường, đôi khi thô tục: các danh từ -
tóc,
răng,
râu,
điện thoại,
cặc dái, các động từ -
là,
có,
đọc,
ăn,
uống,
mần tình,
biết. Đặc biệt, nó gồm những từ
đáng ghét theo André Breton, một trong những nhà sáng lập thơ dada và siêu thực:
bởi,
vì,
tất nhiên,
không chỉ,
mà cả,
chẳng hạn,
đáng lẽ,
chứ không phải,
tuy,
nhưng. Không hề thấy một cố gắng tu từ.
Vậy cái gì làm cho „Những công dân toàn cầu…“ trở thành THƠ? Hệ thống nghịch lý mà nó chuyển tải.
Tác phẩm của Nguyễn Quốc Chánh được xây dựng trên những tương phản. Trong sự tồn tại của nhiều thể loại khác nhau nhưng xâm thực, chuyển hóa nhau: tự sự và tiểu luận, văn xuôi và thơ. Trong tính đa âm điệu của một giọng buồn buồn đều đều nhưng xen lý luận và giễu cợt, tự trào. Trong cách đặt song song các từ thuộc những phạm trù trái ngược như cao quí/dân dã, trí tuệ /dung tục, tinh thần/thể xác, trừu tượng/cụ thể:
trong đầu không đủ phép biện chứng, nên cặc dái dù có săn và cứng cũng không tới đâu, hay
chữ Bác âm ỉ (…) là ngôn ngữ Chí Phèo.
Chưa hết, đó còn là sự đối lập nội tại của
chúng tôi. Giữa giấc mộng
toàn cầu và tình thế
kẹt đạn. Giữa
hả hê với chữ Being,
hãnh diện với chữ Trảm và
hổ thẹn với chữ Bác. Giữa
những thứ đáng lẽ vứt và
nhét vào đầu. Giữa
hớn hở ra ngoài (New York, Angkor) và
thèm phở,
nhớ làng Vũ Đại,
thèm thịt chó,
nhớ hẻm 47. Giữa
thèm toàn cầu và
nhớ (…) một lỗ chân trâu. Giữa
con hẻm (47)
rộng và cụt với con hẻm
hẹp và sâu của thẩm mỹ lãng mạn. Trong
bà chúa (lẽ ra phải đẹp) nhưng lại
mãn kinh gắt gỏng. Giữa tình yêu
giang hồ và thực tại
đã hoa mắt tê chân. Quan hệ đối lập đó được thể hiện qua sự có mặt của các cụm
tuy… nhưng,
mặc dù… nhưng,
đáng lẽ… thì. Tóm lại,
chúng tôi của „Những công dân toàn cầu…“ luôn ở trong tình trạng bị động, ngoài ý muốn, bị bắt buộc, không thoả mãn, không lối thoát.
Đặt trong một không gian thơ trật hẹp của 1771 từ không một lần xuống dòng
, hệ thống nghịch lý đó tiềm ẩn, nhưng cô đọng, dữ dội. Chính nguy cơ nổ tung là
tempo, là nhịp điệu của tác phẩm, là chất keo giữa các con chữ, làm vận hành „Những công dân toàn cầu…“, biến nó thành THƠ. Đó là thẩm mỹ của Nguyễn Quốc Chánh, cũng như phần lớn các tác giả khác trong
Khoan cắt bê tông: từ chối thơ để trở thành THƠ, không
rả rích gieo vần không
truyền cảm âm vang [4] không quyến rũ không thỏa hiệp, đi tìm những hình hài mới cho thơ.
Không-thơ vì vậy phải được hiểu như một chiến lược.
Khác với „Đụ vỡ sọ“ khiêu khích và gây hấn
, „Những công dân toàn cầu…“ chán nản mệt mỏi. Đó không phải là nỗi buồn kêu thành tiếng của Xuân Diệu –
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn – mà là cái tuyệt vọng của Trần Dần:
Có gì an ủi được hơn thơ? Có mộng tưởng? Cho tôi một ngụm? Ở Trần Dần và Nguyễn Quốc Chánh, tuyệt vọng tạo nên sức mạnh, sức mạnh của những kẻ cùng đường không còn cứu cánh khác ngoài thơ. Nhưng ngay cả thơ cũng bị họ đưa ra hành hạ, và chính khi
làm đau chữ, họ được nhận diện như những thi sĩ đích thực. Mở đầu với
kẹt đạn, kết thúc với
tiếng nổ và
cướp cò, kèm điệp khúc
chúng tôi có tóc, răng và râu, bài thơ của Nguyễn Quốc Chánh được thiết kế trên những đường vòng, đường trái tuyến. Nó chạy theo nhịp của dòng nghĩ đang dò dẫm chộp bắt những khoảnh khắc, những mảnh vỡ, những dao động:
hả hê,
hãnh diện,
hổ thẹn,
hớn hở,
thèm,
nhớ. Là hơi thở của tự do và sáng tạo, nó không chấp nhận bất cứ qui luật hay kỹ thuật nào, dù đó chỉ là vần điệu hoặc vắt dòng. Ngay cả cái được gọi là thơ tự do dường như vẫn còn gò bó: thơ-văn-xuôi có lẽ là hình thức hợp với tác phẩm này hơn cả.
Tiếng nói của đám thi sĩ
lạc loài, „Những công dân toàn cầu…“ không thể không gợi đến „Phương xa“ của Vũ Hoàng Chương sáng tác hơn nửa thế kỷ trước:
Lũ chúng ta, lạc loài, dăm bẩy đứa,
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh,
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa,
Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh…
Tuy nhiên đó chỉ là cảm giác ban đầu. Về bản chất, hai bài thơ khác hẳn nhau, thậm chí đối chọi nhau. Đặt chúng cạnh nhau, tôi có cảm giác Nguyễn Quốc Chánh đang chọc ghẹo Vũ tiền nhân. “Phương xa” bi ai hùng tráng còn “Những công dân toàn cầu…” giản dị khô khan. Trong khi Vũ Hoàng Chương lãng mạn với
trăng gió thuyền bể quê hương giống nòi thế kỷ, thì Nguyễn Quốc Chánh miêu tả cuộc sống như nó vốn có, không ước lệ, không cảm thán, không lý tưởng hoá, không đại tự sự. Anh lựa thứ ngôn từ chính xác cụ thể đến mức tối đa, cởi bỏ cho chúng những vỏ bọc hoa mỹ sáo rỗng thường có trong thơ. Thơ Nguyễn Quốc Chánh làm bằng
râu tóc răng rác điện thoại phở thịt chó internet tiền vệ talawas web sex Honda Yamaha bus. Nhưng có lẽ yếu tố
lũ chúng ta và
chúng tôi dựng nên biên giới gai góc nhất chia cắt hai bài thơ. Nếu Vũ Hoàng Chương chọn lời tâm sự giữa các bạn thơ, Nguyễn Quốc Chánh mong đối thoại với độc giả, vô hình nhưng hiện hữu trong thơ anh, qua
chúng tôi, qua lời nhắn gửi
Khi có tiếng nổ thì đừng tưởng ở đây có khủng bố.
3. Thơ và hẻm 47
Thay đổi vai trò của công chúng là một đặc tính hậu-hiện-đại. Trong khi thơ nói chung muốn trao cho họ vô vàn thông điệp và tư tưởng dưới cái tên Chân-Thiện-Mỹ, các tác giả của
Khoan cắt bê tông đòi độc giả năng động hơn. Thơ với họ là một sân chơi và sự tham gia của người đọc là điều kiện tiên quyết, dẫu hoàn toàn ý thức được tính hi hữu của trò chơi: thường thường độc giả từ chối ký hợp đồng. Rõ ràng khi chọn
Nhà xuất bản Giấy Vụn, các nhà thơ đã đồng ý mất đi số người vẫn hàng ngày đi ra đi vào mấy ngàn hiệu sách Việt trải khắp trong ngoài dải đất hình chữ S. Và tôi đồ rằng, nếu một buổi đẹp trời nào
Khoan cắt bê tông được chễm chệ trong các thư viện từ quốc gia đến tỉnh thành huyện xã, thì số công chúng dành cho nó một cái liếc mắt cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Xứ Việt có thể lên cơn sốt
Bóng đè chứ không bao giờ tăng nhiệt với
Khoan cắt bê tông. Người Việt mong tìm bóng dáng thi vị của mình nơi thứ văn thơ dập dìu tài tử giai nhân. Các nhân vật giáo sư thơm mùi học vị, doanh nhân thơm mùi đô la, Việt kiều thơm mùi nước hoa, thiếu phụ thiếu nữ đa tình thơm mùi tiết hạnh, đôi lúc hứng trí
ẩn dụ còn được Ban Tư tưởng Văn hoá thổi còi, nhưng
thơ-dơ thơ-rác-thơ-nghĩa-địa sẽ chẳng bao giờ có ân huệ ấy. Ít ai muốn nhận ra mình và dân tộc qua bộ mặt
hài hước dí dỏm,
nhếch nhác nham nhở [5] của những chân dung tự hoạ trong
Khoan cắt bê tông :
Mi mần thi
Cũng như mần tình
... dở ẹc
Bụng bự và cặc to
Ẹ quá đi!
(Na Thị Chua)
tao ghét thằng anh ruột
nó khiến tao địt vãi địt
tao ghét lịch sử
tao căm thù vua chúa phương đông
tao ghét lũ con tinh thần
tao phát tởm khi xoa đầu chúng
tao ghét thằng con trai
nó làm tao xấu hổ mỗi khi cầm bút
tao ghét tao
vì bất cứ cái gì
(Vương Văn Quang)
Tôi, nếu có phép thánh thần, sẵn sàng móc trái tim chọi vào bất cứ cửa kính nào cổ kính mấy ngàn năm. I am sorry! Đành làm gã thất tình đi dọc bờ sông Hương, buồn đái thấy mẹ, nhưng dù sao cũng nhường nhịn vì tấm bảng cấm đái bậy. Tôi vào một quán uống bia Huda, ở đây chắc chắn một trăm phần trăm có toa-lét
(Nguyễn Đạt)
còn ta, một công dân ô nhục bậc nhất
một thánh nhân nát rượu bệnh hoạn
một thằng dở hơi ngồi trong hẻm 47 và triết lý
về khoan cắt bê tông
và mơ về những lỗ thủng, điều thay đổi
và viết một bài biền ngẫu [ngôn ngữ cũ rích]
về những điều [mà cư dân ở đây cứ tin là] hiển nhiên như thế!
tưởng có thể kết thúc nhưng tao cần phải nói thêm:
rằng bọn mày vô tư lắm
bọn mày tưởng tao là ai?
tao đang khạc nhổ vào mặt và lương tâm của tao đấy
(Lý Đợi)
Chúng tôi là những công dân toàn cầu, bởi đứa nào cũng có tóc, răng, một vài đứa còn bày trò nuôi râu, bày đặt trọc đầu và hầu hết đều lủng lẳng điện thoại. Chúng tôi cực kỳ thính mũi, nhất là đánh hơi các loại mùi thúi. Chúng tôi hả hê với chữ Being lắm, vì nó là ngôn ngữ 13 Cách Của Con Chim Đen. Chúng tôi hãnh diện với chữ Trảm vô cùng, vì nó là ngôn ngữ của Tam Quốc Chí. Nhưng chúng tôi cực kỳ hổ thẹn với chữ Bác âm ỉ, vì nó là ngôn ngữ Chí Phèo. Tất nhiên là chúng tôi đọc như điên, ăn qua loa, uống triền miên và mần tình rất ít. Chúng tôi biết không chỉ nghĩa thẳng, chéo, mà cả nghĩa lắt léo của những cụm từ. Chẳng hạn Sài Gòn, nghĩa thẳng là Sài Gòn. Nghĩa chéo không có. Nghĩa lắt léo của Sài Gòn là Hồ Chí Minh City. Ngoài ra chúng tôi còn biết vắt dòng, nói ngọng, nhại giọng, móc hầu, giải cấu và chuyên nghiệp lông bông. Vì thế mà những thứ đáng lẽ vứt thì chúng tôi nhét cả vào đầu. Chúng tôi tuyệt đối trung thành với câu: năng nhặt chặt bị. Chúng tôi mất dần khả năng phân biệt thứ gì rác, thứ gì có thể tái chế, nhưng chúng tôi biết chính xác John Cage chết năm 1992, Susan Sontag tóc đen và dày, Nguyễn Cao Kỳ về Sài Gòn được/bị cảnh sát hộ tống vô khách sạn, Nhất Hạnh ghé chùa Già Lam được/bị Tuệ Sỹ bỗng dưng đến kỳ nhập thất. Chúng tôi luôn nâng cấp đạo đức bằng cách thường xuyên truy cập internet, ngoài Tiền vệ, talawas là những trang web sex. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng hớn hở ra ngoài. Xa nhất là New York và gần nhất là Angkor. Ở New York chúng tôi thèm phở và nhớ làng Vũ Đại, ở Angkor chúng tôi thèm thịt chó và nhớ hẻm 47. Chúng tôi đầu thai là để thèm và nhớ. Kiếp này thèm toàn cầu và nhớ một nơi chốn, một lỗ chân trâu. Con hẻm rộng và cụt (chứ không phải hẹp và sâu) dẫn vào nội thất mãn kinh của bà chúa gắt gỏng. Mỗi khi bà chúa xẹt qua là vang vọng trong đầu lời ca: đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Tuy chúng tôi đều có Honda, Yamaha và cả những chiếc Bus. Chúng tôi đỡ mỏi chân hơn tiền nhân hay giang hồ lê lết, nhưng chúng tôi đều đã hoa mắt, tê chân. Chắc vì chúng tôi là những công dân bị/phải toàn cầu. Mặc dù chúng tôi có tóc, răng và râu, nhưng trong đầu không đủ phép biện chứng, nên cặc dái dù có săn và cứng cũng không tới đâu. Khi có tiếng nổ thì đừng tưởng ở đây có khủng bố. Chúng tôi chỉ xớ rớ và bị cướp cò.
(Nguyễn Quốc Chánh, “Những công dân toàn cầu bị kẹt đạn ở hẻm 47”)
Vậy là sau phố Sinh Từ của Trần Dần, thơ Việt lại bám rễ vào một con phố, không phải thứ không gian mờ ảo trữ tình với
những phố dài xao xác hơi may và
thềm nắng lá rơi đầy, mà một địa điểm cụ thể đầy bụi bậm rác rưởi thị thành: hẻm 47
[6] . Nó đồng nghĩa với chuyển động, cuộc sống, cách tân, tự do.
Xin chào những người của hẻm 47.
© 2005 talawas
[1]Khoan cắt bê tông, Nhà xuất bản Giấy Vụn, 2005. Chịu trách nhiệm xuất bản: Bùi Chát. Bản thảo: Bùi Chát – Khúc Duy – Lý Đợi – Phan Bá Thọ. Bìa & Trình bày: MM. In 100 bản photocopy, tại bất cứ nơi nào rẻ & nhanh nhất. Khổ 9.5 x 28cm.
[2]Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, Bộ giáo dục đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1998.
[3]Nguyễn Hưng Quốc, «Chủ nghĩa h(ậu h)iện đại và văn học Việt Nam», trong Nguyễn Hưng Quốc,
Văn hoá văn chương Việt Nam, Văn Mới, 2002.
[4]Xem Đinh Linh, «
Nói chuyện với Nguyễn Quốc Chánh», talawas 11.8.2002
[5]Xem Khánh Hoà, «
Mở Miệng & Hip Hop», talawas, 24.5.2005
[6]Về hẻm 47, còn có bài «Đêm khó ngủ» của Đặng Thân (2005).
…một mùi phân bắc theo hướng gió mùa
qua ba đình xuôi một ngàn bảy trăm
cây số về hẻm 47 dậy mùi
hủ tíu nam vang nơi có 13…