30.10.2008
Phạm Miên Tưởng
Họ là những niềm hãnh diện của chúng tôi Đọc xong bài viết của Võ Quốc Linh, tôi muốn nói thêm vài lời. Người Việt Nam định cư trên nước Úc chắc chắn đã đóng góp rất nhiều cho nước Úc và đã đạt được nhiều thành tựu trên nhiều phương diện, nhưng phương diện nghệ thuật là dễ được trông thấy nhất. Tôi tin là nghệ thuật đã đóng một vai trò quan trọng trong việc xoá bỏ rất nhiều những thành kiến tiêu cực của người Úc da trắng đối với người Úc gốc Việt. Sống trên nước Úc, tôi vô cùng biết ơn điêu khắc gia quá cố Lê Thành Nhơn và những nghệ sĩ hôm nay như Hoàng Ngọc-Tuấn, Tạ Duy Bình, Mỹ Lệ Thi, Khoa Đỗ. Với điêu khắc, âm nhạc, kịch nghệ, mỹ thuật, điện ảnh, họ đã xuất hiện trước con mắt của người Úc như những biểu tượng đẹp đẽ của văn hoá, của tâm hồn và tài năng người Việt Nam lưu vong. Lê Thành Nhơn đã qua đời, nhưng một số bức tượng tuyệt mỹ của ông sẽ hiện hữu mãi trong viện bảo tàng của Úc và sẽ còn đứng mãi ở những địa điểm văn hoá trên nước Úc. Với gần hai mươi vở kịch đầy cách tân táo bạo của mình, kịch tác gia Tạ Duy Bình được giới phê bình xếp vào hàng tiền phong của nghệ thuật sân khấu đương đại Úc. Nhiều tác phẩm đầy tính khám phá của nữ hoạ sĩ Mỹ Lệ Thi đã được chính thức mang vào chương trình giảng dạy mỹ thuật ở các trường trung học tại Úc. Khoa Đỗ là đạo diễn trẻ thành công nhất ở Úc và được quốc gia Úc trao tặng danh hiệu "Young Australian of the Year" năm 2005. Hoàng Ngọc-Tuấn là nhạc sĩ gốc Việt Nam đầu tiên và duy nhất có những tác phẩm được giới thiệu trên chương trình MASTERPIECE của đài truyền hình quốc gia đa văn hoá SBS. Vở nhạc kịch Soft Silk Rough Linen của ông diễn tả một lịch sử đầy những cuộc ly tan của dân tộc Việt Nam và thảm trạng vượt biển tìm tự do, đã được lưu diễn tại nhiều nơi bởi The Seymour Group, gồm những nghệ sĩ tiền phong hàng đầu của Úc. Mười năm qua, trong lễ hội Children's Festival, nhiều ngàn thiếu nhi thuộc mọi sắc tộc đã diễn hành theo bản nhạc Children's Festival Parade của Hoàng Ngọc-Tuấn. Đó là bài official anthem của lễ hội, như một thứ quốc ca của thiếu nhi. Hàng năm, trong ngày lễ hội, tôi đưa vợ con tôi đến để vui chơi và ngắm từng đoàn thiếu nhi thuộc nhiều màu da cùng diễn hành trong tiếng hát của các ban hợp xướng và tiếng nhạc của các đội kèn đồng thay phiên nhau trình diễn bài Children's Festival Parade, cho đến lúc lễ hội kết thúc dưới ánh pháo hoa huy hoàng. Những thành tựu đó đã làm cho rất nhiều người Úc da trắng nhìn về cộng đồng Việt Nam với con mắt tôn trọng và hiểu biết. Nhờ những nghệ sĩ gốc Việt Nam đó, chúng tôi có những niềm tự hào để vui sống và ngẩng cao đầu trong nước Úc đa văn hóa.
29.10.2008
Nguyá»…n Mai SÆ¡n
Thưa ông Nguyễn Đăng Thường, Đọc đến câu “ Sự hoài nghi của chủ nghĩa hậu hiện đại là cốt để đặt lại các vấn đề và tạo ra một cái/cách nhìn mới. Nếu đem sự hoài nghi ấy để hoài nghi lại giá trị của chủ nghĩa hậu hiện đại thì ta sẽ bị mắc vào cái vòng luẩn quẩn hay bị rơi vào ngõ cụt. Nói cách khác, chủ nghĩa hậu hiện đại không thể là con rắn tự cắn đuôi. Sự hoài nghi của chủ nghĩa hậu hiện đại lại càng không nên hiểu là ‘muốn nói sao cũng được’ một cách thô thiển” của ông, tôi nhớ đến câu tục ngữ của người Việt: “Dao sắc không cắt được chuôi”. Cho nên không cần phải “nói cách khác” bằng việc khẳng định “ Chủ nghĩa hậu hiện đại không thể là con rắn tự cắn đuôi”. Có nghĩa rằng, bằng tinh thần hoài nghi, anh có thể hoài nghi tất cả, chỉ trừ anh ra thôi vì anh là “hậu hiện đại”. Nếu chủ nghĩa nào cũng tự cho phép trừ mình ra thì thưa ông Nguyễn Đăng Thường cái “context” xã hội trên thế giới này sẽ như thế nào nhỉ? Bất khả tri chăng? Biết người mà không biết mình chăng? Mặt người có lọ nghẹ thì chê mặt mình có lọ nghẹ thì… chăng? Và nếu nói một cách đơn giản rằng: “ Sự hoài nghi của chủ nghĩa hậu hiện đại” chỉ “là cốt để đặt lại các vấn đề và tạo ra một cái/cách nhìn mới”, tôi nghĩ, thiền học đã đặt ra vấn đề này từ mười hai thế kỷ về trước. Vậy “Chủ nghĩa hậu hiện đại” có gì mới trong vấn đề này? Khi dùng từ “chủ nghĩa hậu hiện đại”, tôi xin ông Nguyễn Đăng Thường có thể cho độc giả biết “cha đẻ” của chủ nghĩa hậu hiện đại là ai, như vậy thì mới biết rằng cái “không thể cắn đuôi” là không thể cắn vào “cha đẻ” nào. Vì rằng tôi thấy những người “có quyền” đứng vào “hậu hiện đại” trên thế giới nhiều quá và còn đang lan cả sang Việt Nam, và hình như họ nói chẳng giống nhau về chính “hậu hiện đại”, nội chỉ có cái “nguyên nhân đầu tiên” của khái niệm thôi đã đầy rối rắm và nhiều “hoài nghi” đến độ mà có người phải hiểu “mỗi thời đại đều có chủ nghĩa hiện đại của riêng mình” rồi. Tôi chú ý đến ý kiến ngắn của ông Trần Văn Tích: “ Dẫu vậy, vẫn chưa có ai, hình như kể cả ông Hoàng Ngọc-Tuấn, xác định được người khai sinh và niên đại chào đời của các từ postmodern, postmodernism . (Vì phần trích dẫn tài liệu liên quan đến hai từ này quá nhiều, nên nếu đã có ai trong quí vị góp ý trên talawas chỉ rõ được tác giả nào đã “đăng bộ“ các từ này vào năm nào thì xin vui lòng tha lỗi cho người góp ý hôm nay, vì đã sơ sót không đọc thật kỹ.) Dường như hoàn cảnh chào đời của hai từ postmodern và postmodernism không giống hoàn cảnh của từ cybernetics…” Thưa ông Nguyễn Đăng Thường, “chủ nghĩa hậu hiện đại” là “chủ nghĩa” kiểu gì khi ngay cả khái niệm, định nghĩa, “cha đẻ” của nó còn nhiều “hoài nghi” như vậy? Phải chăng còn nhiều từ dùng khác chính xác hơn như “Hoàn cảnh hậu hiện đại”, “Tinh thần hậu hiện đại”, “Trào lưu hậu hiện đại”…? Trong ý kiến trước, tôi có nói: “ Tôi không bàn về lịch sử ra đời của từ “hậu hiện đại” cũng như chuyện chữ nghĩa (càng bàn càng xa) của nó, vì khái niệm “hiện đại” vẫn còn là cái “đương là”, cái “đang ở”, thì cái gì có “hậu” ắt có “tiền”, tức có đối đãi, phân biệt”. Nếu ông Nguyễn Đăng Thường có thể “xác định” được như ông Trần Văn Tích nói thì cái hoài nghi kia mới “tạm thời” lắng xuống, bằng không thì chính “Chủ nghĩa hậu hiện đại” với những–gì–liên–quan đến “khái niệm” của nó đang tạo ra sự “ muốn nói sao cũng được” bằng tinh–thần–của–chính nó. Và khi ở trong tình thế “dao sắc không cắt được chuôi”, mọi sự không cho phép “muốn nói sao cũng được” đã đi ngược lại với tinh thần của chính nó mới trở nên thô thiển một cách không đáng có, tức ngụy tín. Phải chăng theo cách nghĩ của một số người, có một thứ “chủ nghĩa hậu hiện đại” hiện ra để đánh đổ “độc quyền” nhưng lại độc quyền chính mình, nếu không ông Nguyễn Đăng Thường tại sao phải đặt vấn đề “muốn nói sao cũng được” khi đưa ra những “hình nhộng” mà không chỉ có “chủ nghĩa hậu hiện đại” mới có quyền nắm giữ (mọi người có quyền “đúng/sai” hiểu rằng chẳng có “hậu hiện đại” gì trong những hình ảnh ấy được không?)?
29.10.2008
Một độc giả
Nói như ông Nguyễn Đăng Thường thì chủ nghĩa hậu hiện đại hơi bị giống… chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa hậu hiện đại hoài nghi tất cả các cái khác trước nó thì được, người ta hoài nghi nó thì lại… không được. Chủ nghĩa cộng sản phủ nhận tất cả các chế độ trước nó thì được, người ta muốn phủ nhận nó thì lại… không được. Thế thì nhân loại chỉ còn mỗi chọn lựa là sống muôn năm trong chủ nghĩa cộng sản + chủ nghĩa hậu hiện đại! * Ông Võ Quốc Linh mở đầu bài viết thế này (tôi in đậm để nhấn mạnh một số ý): “ Trong lúc cuộc tranh luận học thuật về mỹ thuật hậu hiện đại trên talawas đang sôi nổi thì đột nhiên có một bài viết ngoài chủ đề xuất hiện, tôi thiển nghĩ, thật đáng tiếc, bởi vì nếu không cẩn trọng và cảnh giác, thì chúng ta có nguy cơ trượt vào một cuộc khảo sát lý lịch nhân thân của một người cầm bút.” Đọc hết bài này thì tôi phải đặt ra mấy câu hỏi: 1. Bài của ông Linh có đóng góp / tham gia gì vào “cuộc tranh luận học thuật về mỹ thuật hậu hiện đại” không? Câu trả lời là KHÔNG. 2. Bài của ông Linh có "ngoài chủ đề" không? Câu trả lời là CÓ. 3. Bài của ông Linh có là "một cuộc khảo sát lý lịch nhân thân" không? Câu trả lời là CÓ.
29.10.2008
Nguyá»…n Äăng ThÆ°á»ng
Chiến tranh [xuất xứ] và hòa bình [hậu hiện đại] 1. Vâng, nếu có thêm được Nghiêm Quang [và vài độc giả talawas] ủng hộ khuynh hướng hậu hiện đại thì Nguyễn Đăng Thường đã/sẽ... toại nguyện. Vì đó vẫn là mục đích đầu tiên và cuối cùng của tôi khi viết. Vâng, chúng ta chiến đấu cho... một ngày mai sáng tươi... trong nước. Một ngày mai tươi sáng sẽ có... muôn chim hậu hiện đại... đua hót. Một ngày mai tươi vui sẽ có... muôn hoa hậu hiện đại... đua cười. 2. Góp ý với Đào Nguyên, thiển nghĩ của tôi là chúng ta có thể xích gần sự hoài nghi của chủ nghĩa hậu hiện đại với cái "cool" (thiền) của thiền đạo. Chúng là những phương tiện có thể giúp ta... giác ngộ. Tuy nhiên - xin cho tôi được phép nhắc thêm một lần nữa - ta không nên áp dụng sự hoài nghi của chủ nghĩa hậu hiện đại để hoài nghi lại toàn thể chủ nghĩa hậu hiện đại, hay, chẳng hạn, để phủ nhận thực tế của... trái đất và vũ trụ. Như mọi trò chơi, như các bộ môn thể thao, chủ nghĩa hậu hiện đại cũng có những tiền lệ mà ta phải chấp nhận nếu muốn tham dự. Hơn nữa, nếu trái có vỏ nếu cá có vẩy, chủ nghĩa hậu hiện đại cũng có những cái cần phải bỏ khi ta muốn... nhai. 3. Hậu hiện đại là một chủ nghĩa tuy xuất hiện hơi lâu rồi nhưng tương đối nó vẫn còn khá mới mẻ. Nếu muốn châm biếm chuyện "cũ người mới ta" của chủ nghĩa hậu hiện đại trong nước thì Hàm Anh cũng nên cười cợt luôn các chủ nghĩa hoa hậu, chủ nghĩa sân golf, chủ nghĩa kinh tế thị trường, chủ nghĩa xe máy, chủ nghĩa mũ an toàn, chủ nghĩa chung cư, chủ nghĩa cao ốc, chủ nghĩa xa lộ... vân vân và vân vân, ở quốc nội bây giờ.
29.10.2008
Äà o Nguyên
Sau bài viết của Tôn Thất Quỳnh Du chất vấn sự “chính danh” và “đại ngôn” về học lịch, học vị và chức nghiệp của Hoàng Ngọc-Tuấn, và sau đó là bài viết của Võ Quốc Linh về Hoàng Ngọc Tuấn như một người bạn thân thiết chẳng đại ngôn chút nào, tôi chắc chắn là còn rất nhiều độc giả talawas vẫn chưa nhận ra được chân dung và vẫn còn nghi ngờ tài năng thật của Hoàng Ngọc-Tuấn. Tôi biết chút đỉnh về ông qua những luồng tin tức về các sinh hoạt văn nghệ của cộng đồng người Việt tự do tại Úc. Bên cạnh việc viết văn, làm thơ, nghiên cứu văn học và âm nhạc và hoạt động kịch nghệ, ông còn là một nhạc sĩ trình tấu tây ban cầm điêu luyện (xin kính mời vào trang web dưới đây để xem video về các khía cạnh văn nghệ này của ông: http://www.vietnamlibrary.net/ vào trang Văn nghệ và chọn đề tài “Hoàng Ngọc Tuấn giới thiệu nhạc Việt Nam”). Cũng xin nhấn mạnh là tôi và ông Hoàng Ngọc-Tuấn không biết nhau và chẳng có liên hệ gì hết trong bất cứ lãnh vực nào, ngay cả thành phố nơi cư ngụ cũng chẳng cùng, dầu cả hai đều định cư tại Úc.
|