trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Văn học
  1 - 20 / 38 bài
  1 - 20 / 38 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học nước ngoài
Loạt bài: Aleksandr I. Solzhenitsyn (1918-2008)
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10 
20.8.2008
 
Nói sự thật với quyền lực
Hoàng Nguyễn dịch
 
Tấm gương Alexander Solzhenitsyn – và những kẻ thừa kế thất bại

George Kennan, bậc thầy của các nhà ngoại giao Mỹ, đã gọi Quần đảo ngục tù - bản ghi chép của Solzhenitsyn về cuộc khủng bố của Stalin, là “lời buộc tội đanh thép duy nhất dành cho một thể chế chính trị từng được đưa ra trong thời hiện đại”. Mang tinh thần nhân chứng, chắc chắn Solzhenitsyn đã làm tất cả những gì một nghệ sĩ có thể làm để xóa bỏ hệ thống Xô-viết – một con quái vật đã nghiền nát hàng triệu sinh linh. Lòng can đảm mang lại cho ông ngục tù và lưu đày. Nhưng cái chết của ông ngày 3-8 vừa qua đặt ra một câu hỏi. Ngày nay ai là người nói sự thật với quyền lực – không chỉ ở các nước độc tài hoặc nửa tự do như Nga và Trung Quốc mà kể cả ở phương Tây?

Trong trường hợp nước Nga, câu trả lời thật đáng chán. Giới trí thức Nga (intelligentsia) – những người lẽ ra đã đi theo tấm gương của Solzhenitsyn, Sakharov và những trí thức phản kháng trong thời đại Xô-viết – giờ đây không chỉ lười biếng mà còn hèn nhát. Thay vì bảo vệ những quyền tự do mà họ có được với bao hiểm nguy kể từ khi kết thúc chế độ cộng sản, nhiều trí thức Nga đã đồng lõa với công trình của ông Vladimir Putin làm què quặt nền dân chủ và thiết lập cuộc trình diễn của những con rối. Có lẽ một vài người thực sự thán phục công trình của ông Putin làm hồi sinh một nước Nga “hùng mạnh” (bản thân ông Solzhenitsyn lúc về già cũng nghĩ như vậy). Nhưng những người khác thì động cơ nông cạn hơn nhiều.

Dưới thời Xô-viết, để nói sự thật cần có lá gan lớn và chấp nhận những hậu quả đáng sợ. Đó là lý do tại sao những người đối kháng chỉ chiếm một thiểu số ít ỏi trong giới trí thức chính thức mà Liên bang Xô-viết tạo ra chủ yếu để xây dựng nền công nghệ nguyên tử. Ngày nay, nỗi sợ hãi không phải là yếu tố lớn nhất bịt miệng các trí thức tuy nói ra vẫn có thể bị nguy hiểm, chẳng hạn như vụ ám sát bà Anna Politkovskaya, một phóng viên điều tra, năm 2006, cho thấy. Nhưng ẩn đằng sau sự im lặng của nhiều người không phải là nỗi sợ mà là sự thèm muốn: thèm muốn tìm lại niềm hãnh diện và vị trí mà đa số trí thức Nga được hưởng với tư cách những nô bộc trung thành của hệ thống Xô-viết.


Vấn đề của chế độ chuyên chế

Ở Trung Quốc, sự im lặng của trí thức dễ được tha thứ bởi vì những tiếng nói phản kháng vẫn bị kiểm soát gắt gao. Trong cuộc cởi mở mới mẻ của mình, Trung Quốc tạo ra rất ít cơ hội cho những người khổng lồ kiểu Solzhenitsyn nổi lên. Họ đã chấp nhận một vài bài viết về nỗi kinh hoàng của Cách mạng Văn hóa, và rồi giờ đây chính phủ cũng nói rằng Cách mạng Văn hóa là kinh khủng. Tuy vậy, bạn sẽ mất công vô ích khi tìm ở Trung Quốc những tác phẩm văn chương về nỗi thống khổ của thập niên 1950 sau khi Đảng Cộng sản lên nắm quyền, hoặc là cái chết của hàng chục triệu người trong nạn đói đầu thập niên 1960. Cánh cửa hé ra một chút vào thập niên 1980, nhưng vụ đàn áp Thiên An Môn năm 1989 đã dập tắt sự tự do tư duy, không cho nó lan sang thập niên 1990.

Sự trỗi dậy của Internet và ngành công nghiệp xuất bản theo xu hướng thị trường đã làm thay đổi Trung Quốc ít hơn là kỳ vọng. Một số trí thức đưa lên mạng những quan điểm phê phán Đảng Cộng sản. Ví dụ nổi bật là Hồ Tinh Đẩu (Hu Xingdou), một nhà khoa bảng liên tục phê phán Đảng mỗi khi có cơ hội. Nhưng ngay cả ông ấy cũng không đi xa tới mức kêu gọi chấm dứt chế độ cai trị độc đảng. Năm 2004 một tờ báo Trung Quốc khuấy động dư luận qua việc đăng danh sách 50 trí thức nổi tiếng, trong đó có cả ông Cao Diêu Khiết (Gao Yaojie), người đã giúp phơi bày nạn dịch HIV/AIDS ở Hà Nam; ông Ôn Thiết Quân (Wen Tiejun), người viết về những nỗi thống khổ của nông dân; và ông Hạ Vệ Phương (He Weifang), một giáo sư luật đã nhiều lần lên tiếng công khai về quyền lợi của những người bị hắt hủi, chẳng hạn những người lao động di cư.

Đây là những con người gây ấn tượng mạnh mẽ, những người mà một ngày nào đó Trung Quốc phải biết ơn họ. Nhưng tiếng nói của những người phản kháng đã không còn vang lên quyết liệt như trong thập niên 1980. Trung Quốc khi ấy, cũng giống như Liên Xô, là một nơi hoang vắng, có rất ít những sự kích thích trí thức. Nhân dân mong mỏi những ý tưởng mới, trào dâng sức sống. Giờ đây việc tiếp cận thông tin được tự do hơn; nền kinh tế đang phát triển và đối với phần lớn những người trí thức, cuộc sống đã dễ chịu hơn nhiều. Trung Quốc có những nhà tư tưởng dũng cảm nhưng trong trạng thái hiện nay thật khó mà hình dung ra một ai đó trong số họ có thể kích động cả một giai cấp như Solzhenitsyn từng làm.

Hãy còn khá sớm để người dân ở phương Tây phàn nàn về sự thất bại của giới trí thức sống trong các xã hội không tự do trong công cuộc noi gương Solzhenitsyn. Những câu chuyện như vậy hãy còn hiếm. Solzhenitsyn nổi lên từ một sự hội tụ khác thường: một tội ác to lớn, một sự im lặng to lớn, một công chúng dễ tiếp thu và một lòng can đảm cá nhân vượt trội. Trong thế giới Hồi giáo cũng có những nơi mà các nhà tư tưởng thế tục, chẳng hạn nhà văn Ai Cập được giải Nobel Văn chương Naguib Mahfouz, phải đối mặt với bạo lực vì họ dám châm chọc sự tuân phục ngột ngạt. Trái lại, trí thức phương Tây được hưởng một cuộc sống vui thú hơn. Ở Pháp, đất nước vốn nuông chiều những con người tư tưởng, tướng De Gaulle từng nổi tiếng đã ra lệnh phóng thích nhà triết học kích động Jean Paul Sartre năm 1968 với một nhận xét: “Bạn không thể bắt nhốt Voltaire”. Đa số các nền dân chủ đều nuôi dưỡng trong các trường đại học hoạt động sáng tạo của một lớp các nhà khoa bảng được nhà nước trả lương nhưng hoàn toàn tự do và thường có thiên hướng chống lại cái bàn tay nuôi sống họ. Thế cũng lạ, nhưng sự thật là vậy.


Vấn đề của chế độ dân chủ

Phương Tây đã xuất bản hàng xe tải sách thấm đẫm nỗi lo về ngày kết thúc của trí thức. Sự điều chỉnh về chính trị cộng với sự chuyên môn hóa quá mức về học thuật đã làm tổn thương chất lượng của phần lớn những điều được phát biểu trên báo chí và giảng dạy trong các trường đại học. Nhưng ở gốc rễ của nhiều lời ca thán là cái được coi là vấn đề thặng dư. Các chế độ chuyên chế nuôi dưỡng một tầng lớp trí thức được công nhận mà mọi phát ngôn của họ vừa được lắng nghe cẩn thận, vừa bị kiểm soát chặt chẽ. Các chế độ dân chủ sản sinh ra một tình trạng hỗn mang, trong đó ai cũng than phiền rằng cái thông điệp khẩn cấp của mình đã bị chìm trong một biển những điều vô nghĩa. “Sự bao dung áp bức”, một nhà cấp tiến vong thân vào năm 1960 đã gọi như vậy. Trong khối hỗn mang đó, nếu như một trí thức nổi loạn nổi tiếng của Đại học MIT, ông Noam Chomsky chẳng hạn, được mời phát biểu tại buổi liên hoan thường niên của các nhà tư bản tại Davos, cũng không mảy may gây ra sự chú ý nào.

Khối hỗn mang thì ít tệ hại hơn. Các ý tưởng không bị đàn áp nhưng cũng không được tôn thờ. Kennan đã có lý khi gọi Quần đảo Gulag là bản kết án đanh thép một chế độ. Nhưng hãy nhớ, vào năm 1848 hai nhà trí thức tầm cỡ cũng đã xuất bản một bản kết án đanh thép đối với một hệ thống và bản Tuyên ngôn Cộng sản của họ đã đưa một nửa nhân loại vào vòng nô lệ. Không có một sự phòng vệ chắc chắn nào đối với những ý tưởng xấu, nhưng nơi thích hợp để bắt đầu là toàn thể công dân có học thức và tinh thần hoài nghi, được tự do lắng nghe những ý kiến của trí thức nhưng không nhất thiết phải tôn thờ chúng – và, đúng thế, nếu không thích nghe thì có thể chuyển sang kênh thể thao. Con người quý phái trong bản thân ông Solzhenitsyn căm ghét sự thiếu vắng lòng tôn kính ở phương Tây. Nhưng đây lại là một khía cạnh mà con người vĩ đại ấy đã sai lầm.


Bản tiếng Việt © 2008 talawas