trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 97 bài
  1 - 20 / 97 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcLý luận phê bình văn học
7.4.2008
Đoàn Cầm Thi
Nữ phê bình ắt phải nghiên cứu các tác giả nữ?
 
Ý kiến của Mỹ An quả thực bất ngờ với tôi. Trước hết xin cám ơn nhận xét của bạn về phong cách tiểu luận của tôi: "nghênh ngang và hài hước". "Nghênh ngang" thì tôi không rõ Mỹ An định nói gì, nhưng "hài hước" là cả một niềm ưu ái.

Bất ngờ thứ hai, là khi Mỹ An cho rằng chỉ các tác giả nam mới làm tôi quan tâm. Để trả lời cho nhận xét "đường đột" này của Mỹ An, tôi đành lòng mà mở lý lịch (nghề nghiệp) của mình. Đương nhiên, hành động này có nguy cơ đánh mất chút "nữ tính truyền thống" còn sót lại trong tôi. Nhưng xin Mỹ An hiểu cho, tôi không có cách nào khác.

1. Nhà văn mà tôi theo đuổi ròng rã mười hai năm (1988 - 2000) là một người đàn bà: George Sand. Mười hai năm đó kết thúc bằng một luận án tiến sĩ (1997), một cuốn sách (Cam-Thi Doan Poisson, Poétique de la mobilité, Amsterdam/Atlanta, Rodopi, 2000) [1] và một “Lời tựa” cho Histoire de ma vie, khi công trình đồ sộ nhất của George Sand được Christian Pirot tái bản năm 2000 và mời tôi tham gia hội đồng biên soạn.

2. Tác giả Pháp đầu tiên mà tôi chọn dịch và giới thiệu là Marguerite Duras, qua tiểu thuyết La Douleur (Nỗi đau, NXB Phụ nữ, 1998).

3. Hai tác giả Việt Nam mà tôi vừa dịch là Thuận và Nguyễn Ngọc Tư. Tiểu thuyết Chinatown (nhà xuất bản Seuil in) sẽ ra mắt độc giả Pháp vào cuối năm nay. Còn tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận thì đang nằm trong tay công ty môi giới Andrew Nurnberg Assoc Ltd. tại Luân Đôn.

4. Tác giả Việt mà tôi đọc nhiều nhất là một phụ nữ: Phạm Thị Hoài. Xin tạm kể sau đây một số bài của tôi:
  • “Viết tình yêu như thế nào? Đọc ‘Man nương’ của Phạm Thị Hoài”. Diễn Đàn, số 27, 1994

  • “Một ngàn lẻ một phép ảo thuật của Hà Nội thời nay. Đọc hai truyện ngắn của Phạm Thị Hoài”, Hợp Lưu, số 21, 1994

  • “Man nương là ai?”, evan, tháng 3 năm 2004

  • “Hoài của Thiên sứ”, trong Dizionario dei personaggi, Italia, Unione Tipographico-Editrice Torinese S.P.A, Torino, 2003.
5. Bài viết cuối cùng của tôi là “Dang Thuy Tram: a variable and an unknown. Opening The Diary of Dang Thuy Tram 40 years later” sẽ in trong Journal of Vietnamese Studies, University of California Press, Volume 4, tháng 6 năm 2008.

6. Tôi thường được mời tham gia các séminaires và hội thảo với tư cách là chuyên gia nghiên cứu “văn học nữ”. Ví dụ:
  • "Roméo và Juliette trong nội chiến Việt Nam. Đọc ‘Mong manh như là tia nắng’ của Lê Minh Khuê" (tháng 11 năm 2000) tại Maison Franco-Japonaise de Tokyo, trong khuôn khổ Séminaire "Guerres et Médias au 20e siècle" của Pierre Souyri. Bài này được phát triển thành "La Guerre du Vietnam au prisme de la littérature : Amours entre ennemis dans trois fictions vietnamiennes contemporaines", in trong cuốn Histoire et littérature au 20e siècle, Toulouse, Université Toulouse Le Mirail, 2003.

  • "Phụ nữ/ Huyễn tưởng/ Chiến tranh. Đọc ‘Người sót lại của Rừng Cười’ của Võ Thị Hảo", tháng 5 năm 2001, trong séminaire của Benoît de Tréglodé, Sciences-Po/EHESS. Bài này ("Femme, fantasme, guerre. Genèses d’une parole libre dans La survivante de la Forêt qui rit, nouvelle vietnamienne de 1991") được in trong cuốn Genèses du roman: Balzac et Sand, do L. Frappier-Mazur chủ biên, Amsterdam/Atlanta, Rodopi, 2004.

  • "Văn học và Cải cách ruộng đất qua tác phẩm của ba nhà văn nữ: Dương Thu Hương, Lê Minh Khê, Võ Thị Hảo", tháng 5 năm 2003 trong Séminaire của Alain Forest (Đại học Paris VII Denis-Diderot). Bài này ("Littérature et guerre civile: la Réforme agraire au Vietnam à travers trois fictions féminines"), được in trong L’Emergence des Etats modernes en Asie du Sud-Est et Haute Asie à travers leur littérature (19e – 20e siècles), do M. Zaini-Lajoubert chủ biên, Paris, Indes savantes, 2003.

  • Dịch và cố vấn cho bộ phim tài liệu của Laurence Jourdan Les Oubliées de la Piste Ho Chi Minh (Những người phụ nữ bị lãng quên của Đường mòn Hồ Chí Minh), 2003, Sunset Presse sản xuất.

  • "Văn học nữ Việt Nam đương đại: dấu ấn của cái Tôi", tháng 3 năm 2005, Festival "Perspectives de femmes", Karlsruhe, Đức.

  • "Tình mẫu tử trong văn học nữ Việt Nam đương đại: mẹ và con gái (Phạm Thi Hoài), mẹ và con trai (Thuận), mẹ và cái thai tưởng tượng (Phan Thị Vàng Anh)", tháng 4 năm 2005, Séminaire của Pierre Souyri và Nicolas Zuffret (Đại học Genève). Chủ đề này đã được phát triển trong chương trình giảng dạy của tôi tại Đại học Paris VII Denis Diderot, Master 1, 2005-2006: "La famille dans le Vietnam contemporain chez Pham Thi Hoai, Thuân et Phan Thi Vang Anh".

  • "Về một thế hệ nhà văn nữ trẻ Việt Nam", chương trình "Bouge dans ta tête" (Benjamin Stora-Producteur, Radio France Culture, tháng 4 năm 2005.

  • "Đàn bà và chiến tranh trong văn học nữ đương đại qua tác phẩm của Võ Thị Xuân Hà, Võ Thị Hảo và Lê Minh Khuê", tháng 4 năm 2006, Séminaire của Pierre Souyri và Nicolas Zuffret (Đại học Genève).

  • "Cơ thể người nữ trong Bóng đèDự báo phi thời tiết", tại hội thảo "Les identités corporelles au Vietnam: métamorphoses et diversités", tháng 5 năm 2007, Institut d’Asie orientale, Lyon.
Tuy nhiên, tôi không cho rằng đã ở hải ngoại thì chỉ đọc văn học lưu vong, hễ là người Việt thì chỉ viết về văn học Việt, đã là nữ phê bình thì ắt phải nghiên cứu các tác giả nữ, hễ nói về đàn bà thì phải hô khẩu hiệu nam nữ bình quyền,... Văn chương nghệ thuật như đại dương mênh mông, tại sao không vẫy vùng mà lai chui vào đáy giếng để ngồi?

Mặt khác, trong các tham luận về cái (tạm) gọi là "văn học nữ", tôi từ chối nhai lại những luận điểm nữ quyền hình thành từ những năm 1960 và hôm nay trở nên "lão hoá". Theo tôi, sẽ không bao giờ thiết lập được biên giới tuyệt đối giữa văn học nữ và văn học nam. Có những đề tài và hiện tượng thường gặp (chứ không phải chỉ gặp) trong các tác phẩm nữ. Đòi công nhận đặc thù của một cách viết nữ, chính là giam cầm các tác giả "phái yếu" trong một biệt cư, từ đó dẫn đến những cách đọc giản lược, méo mó. Từ Phạm Thị Hoài đến Đỗ Hoàng Diệu có biết bao nhiêu là khoảng cách?

Ở những tác giả như Phạm Thị Hoài, chủ đề "tình mẫu tử" chỉ là một cái cớ, để rất nhanh tôi bị cuốn theo âm tiết và nhạc điệu của văn chị. Trong "Kiêm ái", cách diễn đạt duyên dáng của nhân vật nữ xưng em luôn gợi cho tôi một cảm xúc không bình thường: "Trong căn buồng - ga tàu treo của hai mẹ con, cái gì cũng chuẩn bị nhổ neo, không yên một chỗ, cái gì cũng phấp phới bay, nhất là bức bình phong vải phin hoa nội địa ngăn giữa nơi tiếp khách của mẹ và góc học tập của em, cái gì cũng mang tinh thần không rõ ngày mai trôi dạt phương nào, trừ những cuống vé của đám hành khách đàn ông". "Man nương" độc đáo trước hết bởi tiết tấu của nó. Một nét buồn trầm trầm dịu dàng nhưng miên man mơn man: "Man nương, tôi gọi em như vậy những buổi chiều bốn mét nhân bốn mét rưỡi nhân hai mét tám màu xanh lơ trong căn phòng trống rỗng tầng ba có hai nhành xanh một thứ cây nào đó tôi không bao giờ biết tên."

Tương tự, ở một tác giả như Thuận, mô-tip ngoại tình (ra vào tấp nập trong các tác phẩm nữ) chỉ là dịp để cô chạy theo một tứ văn lạ: "Ngày mai Sáng sẽ đến. Tám giờ. Không làm gì. Không nói gì. Ngồi mười lăm phút trên cái ghế đẩu rồi lại đi. Trước khi đi thế nào cũng sang quán giải khát bên cạnh mang về cà phê và bánh mì kẹp bơ. Nhưng Cô biết Sáng sẽ chẳng bao giờ còn hỏi What do you like for your breakfast để Cô còn có dịp trả lời Coffee and bread and butter” ("What do you like for your breakfast").


*

Cuối cùng, các nhà văn nữ Việt Nam có cần được “bảo vệ” hay không? Để biết, chỉ cần đọc “Second Hand” (1992) của Phạm Thị Hoài:

Em ơi si đa, anh chỉ vào một phút là ra…”

Rút ra cho vào cái đếch gì. Lỗ mãng bỏ mẹ.”


Paris ngày 6 tháng 4 năm 2008

© 2008 talawas


[1]Toàn bộ cuốn này có thể đọc trong Books.google:
http://books.google.fr/books?id=gP8YmB-YTdoC&pg=PA7&lpg=PA7&dq=%22cam-thi+doan+poisson%22&
source=web&ots=3P53UjJGhF&sig=_BbccUMCDt2GfeUZEI1UiAKsYig&hl=fr

Sau đây là một số bài viết về cuốn sách này:
  1. Anne Szabó, in Revue d’Etudes françaises, Budapest, N°5, 2000: (http://cief.elte.hu/Espace_recherche/Budapest/REF5_articles/27COMPTES__RENDUS.PDF
  2. Michèle Hecquet, in Revue d'histoire littéraire de la France, Paris, vol 102, 2002/3:
    http://www.cairn.info/revue-d-histoire-litteraire-de-la-france-2002-3-page-461.htm
  3. Annabelle M.Rea, in French Review, Montana State University, 2/2002
  4. Marielle Caors, in La Lettre d’Ars, Château d’Ars, Centre du romantisme, n°18, 6/2000