trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Điểm nóng
Chính trị Việt Nam
  1 - 20 / 7412 bài
  1 - 20 / 7412 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Điểm nóngChính trị Việt Nam
28.1.2008
Nguyá»…n Mai SÆ¡n
Xin đừng bi quan bởi không có gì là quá muộn
 
Vụ việc cầu nguyện đòi Toà Khâm sứ của người Công giáo và phản ứng của người Phật tử những ngày vừa qua đã phần nào tác động đến dư luận xã hội trong và ngoài nước. Để không cường điệu hoá mâu thuẫn hiện tại của nó, chúng ta nên nhắc lại một hiện tượng văn hoá tôn giáo đặc thù ở nhiều quốc gia Đông Á: tam giáo đồng nguyên, như một sự tham khảo. Bởi lẽ, tuy các nhà Đông phương học thống nhất chỉ ra rằng châu Á không có chiến tranh tôn giáo, nhưng những cơ sở văn hoá, tư tưởng cũng như những đặc thù đa dạng của các tôn giáo này không phải không có những thúc ước và chi trì lẫn nhau. Sự dung hoá, thúc ước nhau đó chính là điều kiện căn bản để nhà cầm quyền duy trì thế cân bằng và ổn định xã hội. Sẽ là ngây thơ nếu chúng ta cho rằng một thái độ chống đối, bài xích trên một cơ sở xã hội nào đó chỉ đơn giản là thể hiện thiên kiến hay thái độ hận thù tôn giáo thuần túy.

Vụ việc cầu nguyện đòi Toà Khâm sứ của người Công giáo có lẽ sẽ không gặp phải phản ứng của người Phật tử nếu nó không “chạm” đến một lịch sử nhạy cảm trên mảnh đất khi xưa đã từng là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng kinh kỳ - chùa Báo Thiên (nay là Nhà thờ Lớn và Toà Khâm, Hà Nội).

Người viết không xem phản kháng trên là tồi tệ, bởi dù thế nào nó vẫn đang diễn ra đúng quy luật lịch sử, một khi có những yếu tố bất ổn, có thể ảnh hưởng đến lợi ích dân tộc - cái vốn dĩ luôn được xếp lên hàng đầu. Do đó chúng ta không nên xem đó là một điều “đáng buồn”, hay lợi dụng vào đó để thổi bùng những xung đột lên như một “tai hoạ”. Bất kỳ một chiếc “gương soi” nào trong thời buổi tư tưởng ngày càng trở nên đa cực đều luôn là cần thiết. Sự bài xích của người Phật tử ở sự kiện này cũng chưa đến mức gay gắt, vì sao? Vì nó chỉ là “cáo trạng lịch sử” (Nguyễn Hữu Liêm), “cáo trạng lương tâm” (Nguyễn Chính), không phải là những xung đột (do tranh giành, xâm chiếm trực tiếp) gây nên. Trong lịch sử Việt Nam, ngay cả khi Phật giáo là quốc giáo, những bài xích, tranh luận trực tiếp về tư tưởng của nhiều Nho sĩ đối với Phật giáo còn nặng nề và gay gắt hơn nhiều, nhưng có xảy ra cảnh tang thương, đổ máu nào đâu. Và thỉnh thoảng những triều đại sau đều có những sắc lệnh “thải bớt tăng đồ”, đẩy Phật giáo vào chốn dân gian, nhưng vẫn không gây ra một xung đột xã hội đáng kể nào.

Như vậy, sự xung đột về căn bản vẫn là cách thức tổ chức và quản lý của một giáo hội. Để nhận thức vấn đề trên, chúng ta không nên quy kết một cách nghiệt ngã vào tư tưởng, giáo lý tôn giáo vì tôn giáo có những cơ sở xã hội, tâm linh để khẳng định sự tồn tại của nó, mà chúng ta nên nhìn nhận vào cách hành xử của những người (đang và sẽ là) đại diện cho tín đồ của mình.

Hành vi cầu nguyện của người Công giáo đã chạm đến tự ái “bề dày lịch sử” của người Phật tử, vì lâu nay, đạo Phật đã hiện diện như vai trò của một tôn giáo đã bản địa hoá, mặc dù Công giáo đã “trở thành một phần máu thịt trong lòng dân tộc” (Nguyễn Hữu Liêm). Nhưng ở đâu đó, một số người đã nghĩ rằng, một lịch sử chấm dứt thì một lịch sử khác thay thế sẽ là hoàn toàn mới hơn, tốt hơn. Điều này phần nào nằm trong cách nhìn, cách nghĩ của không ít người trí thức Thiên Chúa giáo (Công giáo, Tin lành…) khi họ cho rằng phương Tây đã đem ánh sáng “văn minh” đến cho Việt Nam, còn những sai lầm là do chiến tranh, do “giới hạn lịch sử”... Và trong thâm tâm, họ cũng cho rằng những yếu tố phong kiến, lạc hậu còn tồn tại trong nhiều cách biểu hiện sinh hoạt của Phật giáo và những tín ngưỡng bản địa khác. Trong khi đó, người Phật giáo vẫn luôn xem mình thuộc tôn giáo dân tộc, nền tảng văn hoá tâm linh của đại đa số người Việt Nam.

Thiết nghĩ, trong mâu thuẫn này, tìm hiểu thêm về truyền thống tôn giáo trên cơ sở tư duy giữa Đông và Tây là điều không thừa.

Theo kết quả nghiên cứu được công bố trong cuốn The Geography of Thought: How Asians and Westerners Think Differently… and Why, của Giáo sư Richard Nisbett: “Tư duy của phương Tây là tư duy kiểu trắng đen phân biệt rõ rệt, không có vùng đất xám. A là A chứ A không thể vừa là A vừa là A’, hoặc không A. Theo ông tư duy kiểu này là tư duy đơn giản một chiều, khá cứng nhắc và có thể dẫn đến những hành động cực đoan, vì nó không tìm cách dung hoà sự bất đồng, không tìm con đường trung dung giữa hai phía để đi. Nó sẽ khăng khăng cho rằng trách nhiệm thuộc về một phía và phía này phải sửa đổi hành vi để cải thiện tình hình. Chính vì trong thực tế cuộc sống không có nhiều tình huống “giấy trắng mực đen rõ ràng” như vậy nên tư duy theo kiểu này không giúp làm cho xung đột khá hơn mà làm cho nó tồi tệ đi, và khi mức chịu đựng giữa hai phía chạm đến giới hạn cuối cùng, bạo động sẽ phát sinh”.

Mặc dù giáo sư Nisbett tin rằng kiểu tư duy “biện chứng” của phương Đông như trên không phải là không có ở phương Tây, bằng chứng là nó được thể hiện qua tư tưởng của các triết gia như Hegel, Kant, Marx. Tuy nhiên cuối cùng, Nisbett vẫn cho rằng tư duy của Đông và Tây là khác nhau và người phương Tây thường không ý thức được tư duy của họ bám chặt vào các nguyên tắc logic đến mức nào, trái ngược với kiểu tư duy “biện chứng” của phương Đông. Triết lý phương Đông cho rằng thực tại luôn thay đổi, nên các cặp phạm trù đối ngược, nghịch lý, bất thường luôn được tạo ra trong cuộc sống. Cũ và mới, tốt và xấu, mạnh và yếu tồn tại đan xen nhau trong mọi vật.

Chúng ta thấy có lý do để tin vào kết quả nghiên cứu này. Bởi kinh nhà Phật nói, Bồ tát có thể hoá thân làm vua quan, trưởng giả… thậm chí là ngoại đạo (Khổng Tử, Lão Tử, cho đến Chúa Giê-su đều được người Phật tử dễ dàng chấp nhận như một vị Bồ tát hoá thân), còn điều này thì không thể thấy ở các tôn giáo phương Tây, cụ thể là Thiên Chúa giáo.

Cách nhìn về văn hoá và văn minh có sự “lệch” nhau như thế nên những yếu tố “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” cũng ít nhiều tồn tại trong nhận thức của hai phía. Không những thế, quan điểm, cách nhìn và hành xử tôn giáo của nhà nước Việt Nam trong một thời gian dài đã ít nhiều tạo nên một “sự cảnh giác” (cần thiết) của những người có đạo, và đâu đó, nhà nước Việt Nam vẫn chưa làm chủ được vai trò “trị thế” (vốn dĩ các vị vua phong kiến đã làm rất tốt), dẫn đến tình trạng “nghi ngờ” tôn giáo, gần như tách tôn giáo ra khỏi xã hội thông tin. Do đó mâu thuẫn một bên cũng chính là mâu thuẫn nhiều bên, vì vậy chúng ta không nên nhìn vụ “cầu nguyện đòi Toà Khâm” là một vấn đề biệt lập, tách rời ở một giáo hội hay ở vài cá nhân hay nhóm người nào đó.

Ở điểm này, nhà nước và các giáo hội vẫn đang tiếp tục bằng cách này hay cách khác tạo ra “sự im lặng” quá lâu và quá mức cần thiết. Khi những vấn đề không được thực tế thừa nhận, để lâu ngày sẽ dẫn đến một tâm lý trốn tránh, ích kỷ, “xấu che, tốt khoe”, và đi ngược với những hành vi dám làm, dám chịu, dám nhìn nhận lỗi lầm và dám sửa sai. Từ lâu, để nhấn chìm “cái xấu”, biểu dương “cái tốt”, các thông tin xã hội đã tạo nên một tư duy né tránh, nên thường những góp ý trái chiều đều bị quy kết vào “gây mất đoàn kết”, “phá hoà hợp”… Điều đó đã gây ra những ức chế xã hội, và nhóm lên những phản biện ẩn ngầm, ngoài luồng, vô hình chung đẩy tính minh bạch, công khai ra khỏi sinh hoạt xã hội, tổ chức, giáo hội.

Chẳng hạn, trong vụ Linh mục Nguyễn Văn Lý, Hội đồng Giám mục Việt Nam gần như im lặng. Điều đó càng đẩy những “cơ thể” Công giáo vào chỗ bị tổn thương trầm trọng trong cách nhìn của người dân, và chính nhà nước Việt Nam cũng bị bên ngoài lợi dụng để công kích về “dân chủ”, “nhân quyền”… Cũng như vậy, khi vụ việc “cầu nguyện đòi Toà Khâm” xảy ra, cả ba bên: Nhà nước, Giáo hội Công giáo, Giáo hội Phật giáo đều im lặng một cách đáng sợ. Đó là “chiến thuật”, “bản lĩnh” hay “yếu kém” trong quản lý tổ chức thì mỗi bên cũng tự phân tích và nhận ra được phần nào.

Có thể nói, Công giáo đang không hoàn chỉnh trong chỉ đạo cao nhất, dẫn đến bỏ lỏng sự kiện, tạo nên những hiệu ứng xã hội không hay từ phía người Phật tử và nhà nước, trong khi có thể giải quyết tồn tại trên cơ sở pháp lý, lương tâm, đạo đức, lợi ích dân tộc và hơn thế nữa là tình nghĩa đồng bào một cách hợp lý hợp tình nhất.

Khi tất cả các tư tưởng mới cũ đang trở thành “máu thịt”, “cơ thể” của dân tộc Việt Nam thì một cái “bị bệnh” sẽ làm cho những cái kia “suy giảm chức năng miễn dịch”. Chúng ta hiểu HIV là một “căn bệnh” chứ không phải là “tệ nạn”, vậy cái gì đang là “căn bệnh”, cái gì đang là “tệ nạn” thì phải phân tích mà đưa ra những phương thuốc điều trị thích hợp, và tất cả xã hội nên cùng tập trung công sức vào mà “chữa trị”. Nếu không chữa trị mà còn đẩy nó ra ngoài thì sớm muộn “căn bệnh” cũng trở thành “tệ nạn”.

Sự “im lặng”, “nghe ngóng” quá mức chỉ càng làm cho xã hội tăng lên những nghi vấn về một “bản lĩnh” thực sự của các bên có liên quan. Chính vì thế, những thông điệp to tát, những giả định, những quyền hành hỗn độn, những giới hạn nhận thức… càng ngày càng làm cho vụ việc rối ren và phức tạp. Người nào thắt nút thì người đó mở nút, nếu họ không thể mở nút thì mọi người phải giúp họ mở nút. Ở vụ việc này Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt đã thiếu thận trọng và đánh giá thấp vai trò phản biện xã hội của Phật giáo, cũng như nhìn vào sự “im lặng” mà xem nhẹ khả năng “đáp trả” (lợi - hại) của chính quyền. Vì vậy, những thông tin chống đối, công kích phổ biến của họ đều nhằm vào nhà nước Việt Nam với một thông điệp khá ngây ngô: “công lý - hoà bình”.

Hành vi nôn nóng của Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt biểu hiện một nhận thức lịch sử còn giới hạn và một thái độ chính trị hời hợt. Nhưng có lẽ nguyên nhân căn bản và sâu xa mà ít người chỉ ra, đó chính là tâm lý “mặc cảm” của một bộ phận người Công giáo (người viết chỉ muốn nhấn mạnh đến những chức sắc lãnh đạo, những người mệnh danh là chủ chăn) từ trong quá khứ lịch sử. Đồng thời với tâm thức muốn rũ bỏ quá khứ là một thái độ hiện tại “vọng ngoại” (trông chờ vào quyền lực và kinh tế của Vatican - một quốc gia ngoài lãnh thổ Việt Nam). Chính vì chạm đến “mặc cảm” này mà không khó hiểu khi một bộ phận người trí thức Công giáo “không muốn” nhìn vào sự thật của quá khứ lịch sử và xem lịch sử như là “sự đã rồi”. Lãng quên quá khứ có thể vừa là sự bất công vừa là sự an ủi. Nhưng thiết nghĩ người Công giáo phải dũng cảm đối mặt với vấn đề đó, vì gần như càng dìm nó đi thì nó càng trỗi dậy một cách mãnh liệt, và còn bởi chúng ta không thể “sửa đổi” lịch sử theo ý muốn của mình được. Và những người không vượt qua được “mặc cảm” đó thì lại rơi vào một thái cực, kiểu “đâm lao thì phải theo lao”: đối kháng.

Đã nhiều năm rồi, cả xã hội, trong đó có người Phật tử, nhìn người Công giáo với một hình ảnh mới thì hành động của Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt đã gần như kéo cách nhìn đó lui về 100 năm trước. Hiện tại luôn là cái điều mà người ta biết ít nhất về nó, giống như tấm màn nhung phủ lên sự thật, để chẳng bao giờ anh còn đủ tỉnh táo để biết được anh đã sống như thế nào. Và sự xung đột của lợi ích không loại trừ những tham vọng quyền năng.

Nỗi lo ngại của người Phật tử không phải là không có cơ sở trước những hành động ứng xử trong quá khứ của người Công giáo (gần nhất là thời kỳ đàn áp Phật giáo của chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm). Điểm đáng chú ý và cũng gần như là mấu chốt của vấn đề chính là phần nhiều người Công giáo vẫn xem Vatican là “nước Mẹ”, khiến mọi người nghĩ rằng người Công giáo Việt Nam đặt lợi ích tín ngưỡng của mình lên trên lợi ích dân tộc. Nếu các chức sắc Công giáo không nhìn nhận, điều chỉnh thích hợp để giải quyết được vấn đề này thì không chỉ Phật giáo mà Nhà nước Việt Nam cũng sẽ có cái nhìn “phòng bị” tương tự về họ. Trong khi với những thông tin tràn ngập hiện nay, không khó để hiểu rõ về những chính sách thuộc địa và những can thiệp mới của Vatican vào nội tình của nhiều quốc gia phi Công giáo. “Bản cáo trạng” mà người Phật tử nói với người Công giáo có điểm nào đó gần gũi với bản cáo trạng của Nguyễn Trãi đối với quân Minh: anh đề cao nhân nghĩa, lương tâm, nhưng tại sao anh lại làm cái điều ngược lại?

Nguyên do của những mặc cảm dẫn đến đối kháng không phải chỉ là một sự hiểu lầm nào đó (trong quá khứ lịch sử) hay thuần nhất là sự khác biệt của giáo lý, tín lý hay đạo đức, mà còn là sự khác biệt về văn hoá, lối tư duy, ứng xử không tách khỏi những “tranh chấp” quyền lợi, thậm chí quyền lực hiện tại. Chúng ta từng nghe nói đến “cú sốc của chủ nghĩa Stalin” vì chính nó muốn tẩy xoá tất cả ký ức lịch sử, biến con người trở thành kẻ mất gốc lương tâm.

Chúng ta lấy dẫn chứng về điều này qua thư của trí thức Công giáo Kim Nguyên (Bỉ) gửi các Giám mục Việt Nam: “Là người Công giáo Việt Nam, con đau lòng khi đọc những nhận định của các nhà phân tích rằng: Ngày nay, Giáo hội Công giáo Việt Nam dường như đang chọn thái độ im lặng để được yên ổn sống đạo và truyền đạo’. Nếu đúng như vậy thì lịch sử đang lặp lại: Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, Giáo hội Công giáo Việt Nam được đặt dưới sự cai quản của những ông giám mục người Pháp. Giáo hội đã chọn thái độ im lặng trước những chính sách bạo ngược của thực dân đối với người dân Việt, đến nỗi người ta đã có một ấn tượng xấu về người Công giáo Việt Nam trong một thời gian rất dài.

Hình ảnh của Giáo hội Công giáo vì vậy đã bị làm cho hoen ố khá nhiều. Khi biện hộ về thái độ của người Công giáo trong thời Pháp thuộc, để chứng minh rằng người Công giáo cũng có chống lại chính sách của thực dân, người ta thường dẫn chứng bằng hai câu vè: ‘Đày vua không Khả, Đào mả không Bài’. Xin thưa: hai cụ Ngô Đình Khả và Nguyễn Hữu Bài là những sĩ phu Công giáo, lập trường của hai cụ chỉ là lập trường của những cá nhân, nó không hề phản ảnh lập trường của khối Công giáo đương thời”. (www.tiengnoigiaodan.net)

Đó không phải là một cái nhìn biệt lập của người trí thức Công giáo quan tâm đến sự phát triển của Giáo hội, không nhìn từ số lượng tín đồ cũng như lịch sử truyền bá Tin Mừng mà nhìn từ thái độ ứng xử. Nếu nhìn từ Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ, Thái Lan, nói chung là châu Á (ngoại trừ Philippines) thì sự truyền giảng Tin Mừng trên đã không thành công vì số lượng tín đồ phát triển rất giới hạn. Còn tại Việt Nam, mặc dù với con số khả quan 6 triệu tín đồ Công giáo, nhưng đó là con số bấp bênh, không bền vững trong một xã hội đang phát triển, do “nỗ lực cải đạo” nhiều hơn là cách thức truyền giảng để người dân hiểu rõ và tình nguyện chấp nhận Tin Mừng (không thể không thừa nhận cách truyền đạo kiểu “đạo gạo”, nhằm vào sự nghèo đói, lạc hậu và những ràng buộc hôn nhân). Hơn nữa sự suy giảm đáng kể của Công giáo trên chính “quê hương” của nó là một thực tế cần được người Công giáo Việt Nam nhìn nhận. Trong khi sự không thành công trên chưa được điều chỉnh thì những “khuyến khích” mạnh mẽ từ bên ngoài đã tạo nên một ảo tưởng “phát triển”, khiến người Công giáo Việt Nam quá nóng lòng với việc lập giáo hội địa phương, xây cất nhà thờ, gây ảnh hưởng với chính quyền và phần nào muốn được “bằng” ngay so với Phật giáo. Trong khi với Phật giáo, cả một quá trình lâu dài trong lịch sử gắn bó với dân tộc, dù không đòi hỏi gì thì chính sách ưu tiên cũng không phải là điều quá khó hiểu.

Sức mạnh của Phật giáo chính là chiều sâu nội tại và một nền tảng văn hoá đã thấm sâu, nên mặc dù với bề ngoài có vẻ như đơn giản, thậm chí cổ hủ ấy, bên trong vẫn tiềm tàng những khả năng “đối ứng” mạnh mẽ. Đây là những yếu tố mà nhiều lúc người Công giáo đã xem nhẹ. Có lẽ do trong lịch sử, nói theo một số nhà nghiên cứu, tâm thức “đế quốc” của người phương Tây đã ít nhiều bắt rễ vào tâm thức người Công giáo bản địa. Vì vậy đã từ lâu họ nghĩ rằng các nước bị đô hộ là yếu kém, lạc hậu, mê tín, dị đoan. Trong khi giới giáo sĩ thừa sai được tiếp thu những thành quả khoa học, kỹ thuật, kinh tế, sức mạnh quân sự nên phần nào họ nghĩ mình nổi trội và ưu việt hơn so với giới sư sãi, nho gia… Nhưng mấy ai nhận biết đó chỉ là một chiêu bài đô hộ mà các thừa sai trưng ra, bởi vốn dĩ những thành quả ấy chẳng ăn nhập gì với đạo của họ.

Chỉ khi những con hổ, con rồng châu Á bừng tỉnh và cất cánh bay lên mới tạo ra sự ngỡ ngàng mà tư duy của nhiều người Công giáo vẫn còn chưa theo kịp. Sự vùng lên của Nhật Bản, Trung Quốc là một ví dụ điển hình cho những nỗ lực ngoài “văn minh Khai sáng” của phương Tây và ngoài Công giáo. Vì thế chính người Công giáo Việt Nam cũng cần thay đổi cách nhìn về thước đo “văn minh”, nếu không muốn bị tách ra khỏi cơ thể và sinh mệnh dân tộc khi cứ tiếp tục phê bình hay ứng xử ngược lại với văn hoá, phong tục, nếp sống... sinh hoạt truyền thống.

Có thể nói, nếu như người Công giáo vẫn chưa thoát ra khỏi “ân huệ” và sự chăm chú vào cái ảo tưởng quyền uy (authority), thì người Phật tử cũng vẫn đang trầm mình trong hào quang quá khứ (Lý - Trần). Nên ít nhiều thực tại đã bị đẩy ra xa và những ứng xử ngày càng trở nên già cỗi và thiếu sáng tạo. Đây chính là những bước đi chậm chạp, mà càng rơi vào “vùng trũng” đó thì hai tôn giáo này càng nhanh chóng bị đẩy ra ngoài lề sự phát triển xã hội, làm mù quáng những não trạng “canh tân”, “nhập thế” và sự “truyền giảng Tin Mừng”… Và phải kể đến bất cứ khi nào tôn giáo rơi vào vòng xoáy quyền lực chính trị là lúc tôn giáo bị tha hoá, mất bản sắc, gây nên bất ổn xã hội, tạo ra những vết thương khó lành.

Chính vì vậy, “căn bệnh” kéo dài đã càng ngày càng trở nên khó khăn trong việc tìm thuốc chữa trị khi không biết được đâu là “bệnh”, đâu là “tệ nạn”, dẫn đến một sự đồng nghĩa rất mù quáng và thiển cận. Tại sao cứ “vọng ngoại” là phải đi đôi với chống tôn giáo dân tộc, chống nhà nước? Tại sao cứ đề cao tinh thần dân tộc là phải đi đôi với việc chống đạo Công giáo? Và tại sao cứ theo tôn giáo là đồng nghĩa với tư tưởng “có vấn đề lệch lạc”?... Cứ theo những suy nghĩ phân mảnh này thì nhà nước mãi mãi giống như “hổ dữ”, còn tôn giáo thì vẫn chưa bước ra khỏi “thuốc phiện”. Và nếu các bên cứ tiếp tục mang những nhận thức này vào trong ứng xử thì mọi “hoà giải” chỉ là chiến thuật hoãn binh, mọi đối thoại chỉ là tấn tuồng giả câm, giả điếc. Và càng suy nghĩ thì ý nghĩ của người này càng xa rời ý nghĩ của người kia và ngược lại.

Người viết chỉ mong qua vụ việc “cầu nguyện” này, nhà nước và các phía tôn giáo đừng tiếp tục ru ngủ mình nữa mà hãy cùng nhau nhìn vào cơ thể mình, dù là cơ thể mang bệnh, nhìn thẳng vào sự thật, dù là sự thật đau đớn để điều chỉnh và cứu chữa kịp thời. Có thể chúng ta vẫn đang phải viết lên hiện tại bằng thì quá khứ. Nhưng nếu còn một tia hy vọng, xin đừng bi quan bởi không có gì là quá muộn.

© 2008 talawas